QUỐC HỘI Luật số:
19/2003/QH11 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 26
tháng 11 năm 2003 |
BỘ LUẬT
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Bộ luật này quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Chương I
NHIỆM VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều
1. Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ
luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các
cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội.
Bộ
luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều
2. Hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự
Mọi
hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Hoạt
động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân nước thành viên của điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến
hành theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Đối
với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn
trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo tập quán quốc tế,
thì vụ án được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Điều
3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Mọi
hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Điều
4. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
Khi
tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án
Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng
và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ
hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không
còn cần thiết nữa.
Điều
5. Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Tố tụng
hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị
xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Điều
6. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
Không
ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc
bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này.
Nghiêm
cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
Điều
7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
Công
dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tài sản.
Mọi
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý
theo pháp luật.
Người
bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân
thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm,
tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện
pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Không
ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
công dân.
Việc
khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố
tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật này.
Điều
9. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật
Không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều
10. Xác định sự thật của vụ án
Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng
và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị
cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Điều
11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.
Điều
12. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong
quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm
về những hành vi, quyết định của mình.
Người
làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều
13. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Khi
phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng
các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm
tội.
Không
được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.
Điều
14. Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng
Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán,
Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người
giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có
thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều
15. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
Việc
xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm
quân nhân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán.
Điều
16. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều
17. Toà án xét xử tập thể
Toà
án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Việc
xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ
trường hợp do Bộ luật này quy định.
Trong
trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc
để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử
kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều
19. Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án
có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật
khách quan của vụ án.
Điều
20. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
1.
Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản
án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của Bộ luật này.
Bản
án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật
này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định
phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Đối
với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
Toà
án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao
giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp để bảo đảm
việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều
22. Bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án
1. Bản
án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải
được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức
hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án,
quyết định của Toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp
hành đó.
2.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường,
thị trấn, tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án.
Các
cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện
và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định
của Tòa án trong việc thi hành án.
Điều
23. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự
1.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc
truy tố người phạm tội ra trước Toà án.
2.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách
nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ
luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá
nhân này.
3.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp
thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội.
Điều
24. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự
Tiếng
nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng
có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần
phải có phiên dịch.
Điều
25. Trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm
1.
Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội;
tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
2.
Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công
dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết.
3.
Các tổ chức, công dân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Điều
26. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng
1.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm; phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Các
cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử
lý và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát mọi hành vi phạm
tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình; có quyền kiến nghị
và gửi các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét,
khởi tố đối với người có hành vi phạm tội.
Thủ
trưởng các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không thông báo hành
vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát.
Các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Nghiêm
cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
2.
Cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu
tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến nghị Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự.
3.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải xem
xét, giải quyết tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và phải trả lời kết quả
giải quyết cho cơ quan nhà nước đã báo tin hoặc kiến nghị biết.
Điều
27. Phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Trong
quá trình tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án
có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Các
cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án.
Điều
28. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Việc
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải
quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi
thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều
29. Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của
người bị oan
Người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi.
Cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại
có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Người
bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.
Cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi thường cho người bị
thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Điều
31. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Công
dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc
làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ
quan đó.
Cơ
quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật
các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu
nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Trình
tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy định.
Cơ
quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt
trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Nếu
phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ
luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và
trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.
CƠ
QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG
Điều
33. Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
1.
Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Toà án.
2. Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Tòa án.
Điều 34. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
1. Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
a) Trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra;
b) Quyết định phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên trong việc điều tra vụ án hình sự;
c) Kiểm tra các hoạt động điều tra của Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra và Điều tra viên;
đ) Quyết định thay đổi Điều tra viên;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Cơ
quan điều tra.
Khi Thủ trưởng Cơ quan điều tra vắng mặt, một Phó Thủ trưởng
được Thủ trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng. Phó Thủ
trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng về nhiệm vụ được giao.
2. Khi thực hiện việc điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng
Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định
không khởi tố vụ án; quyết định nhập hoặc tách vụ án;
b) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn;
c) Quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ,
kê biên tài sản, xử lý vật chứng;
d) Quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử
thi;
đ) Kết luận điều tra vụ án;
e) Quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ
điều tra, quyết định phục hồi điều tra;
g) Trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra; cấp, thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố
tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra.
3. Khi được phân công điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại khoản 2 Điều
này.
4. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 35. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Điều tra viên
1. Điều tra viên được phân công điều tra vụ án hình sự có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án hình sự;
b) Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời
khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
c) Quyết định áp giải bị can, quyết định dẫn giải người
làm chứng;
d) Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ,
tạm giữ, kê biên tài sản;
đ) Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
e) Tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền
của Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
2. Điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Thủ trưởng Cơ quan điều tra về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 36. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
1. Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;
b) Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng đối với vụ án hình sự;
c) Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
d) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo quy định của pháp luật;
đ) Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không
có căn cứ và trái pháp luật của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
e) Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới;
g) Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát.
Khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng
được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng. Phó Viện
trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm
sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ
án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
b) Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra
viên;
c) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn; quyết định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ
quan điều tra truy nã bị can;
d) Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các
quyết định của Cơ quan điều tra;
đ) Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và
trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
e) Quyết định chuyển vụ án;
g) Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám định;
h) Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định
phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng;
i) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định
của Toà án;
k) Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các
quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm
sát.
3. Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại khoản 2
Điều này.
4. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 37. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình
sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra
và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;
c) Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời
khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
d) Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm
giam;
đ) Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện
kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện
việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những
người tham gia tố tụng tại phiên toà;
e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét
xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định
của Toà án;
g) Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án;
h) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.
2. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 38. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
1. Chánh án Toà án có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Tổ chức công tác xét xử của Toà án;
b) Quyết định phân công Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội
thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; quyết định phân công Thư ký Tòa án tiến
hành tố tụng đối với vụ án hình sự;
c) Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án
trước khi mở phiên tòa;
d) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo quy định của Bộ luật này;
đ) Ra quyết định thi hành án hình sự;
e) Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù;
g) Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù;
h) Quyết định xoá án tích;
i) Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Tòa
án.
Khi Chánh án Tòa án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh
án uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án. Phó Chánh án phải chịu
trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.
2. Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình sự, Chánh án
Tòa án có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm
giam; quyết định xử lý vật chứng;
b) Quyết định chuyển vụ án;
c) Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các
quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
4. Chánh án, Phó Chánh án Toà án phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 39. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thẩm phán
1. Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình
sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự ;
c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn
đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử;
d) Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
2. Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, ngoài những
nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều này còn có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
a) Quyết định áp dụng, thay đổi
hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án;
d) Quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên
toà;
đ) Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền
của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án.
3. Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận người
bào chữa.
4. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những
hành vi và quyết định của mình.
Điều 40. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Hội thẩm
1. Hội thẩm được phân công xét xử vụ án hình sự có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm;
c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn
đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
2. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những
hành vi và quyết định của mình.
Điều 41. Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thư ký Tòa án
1. Thư ký Tòa án được phân công tiến hành tố tụng đối với
vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Phổ biến nội quy phiên toà;
b) Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được
triệu tập đến phiên toà;
c) Ghi biên bản phiên toà;
d) Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
2. Thư ký Tòa án phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Chánh án Tòa án về những hành vi của mình.
Điều 42. Những trường hợp phải từ
chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc
bị thay đổi, nếu:
1. Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện
hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;
2. Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó;
3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô
tư trong khi làm nhiệm vụ.
Điều 43. Quyền đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng
Những người sau đây có quyền đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng:
1. Kiểm sát viên;
2. Bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ;
3. Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
Điều 44. Thay đổi Điều tra viên
1. Điều tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42
của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm
sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án.
2. Việc thay đổi Điều tra viên do Thủ trưởng Cơ quan điều
tra quyết định.
Nếu Điều tra viên là Thủ trưởng Cơ quan điều tra mà thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì việc điều tra vụ án
do Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp tiến hành.
Điều 45. Thay đổi Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42
của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều
tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án.
Nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm
sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
Trong trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên
toà thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử Kiểm sát viên khác do Viện trưởng Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
Điều 46. Thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm
1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc
bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42
của Bộ luật này;
b) Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân
thích với nhau;
c) Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến
hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký
Tòa án.
2. Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên
toà do Chánh án Toà án quyết định. Nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì do
Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định.
Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên toà do Hội đồng
xét xử quyết định trước khi bắt đầu xét hỏi bằng cách biểu quyết tại phòng nghị
án. Khi xem xét thành viên nào thì thành viên đó được trình bày ý kiến của
mình, Hội đồng quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại
phiên toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử thành viên mới của Hội đồng xét xử do Chánh án
Toà án quyết định.
Điều 47. Thay đổi Thư ký Tòa án
1. Thư ký Tòa án phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42
của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm
sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán hoặc Hội thẩm.
2. Việc thay đổi Thư ký Tòa án trước khi mở phiên toà do
Chánh án Toà án quyết định.
Việc thay đổi Thư ký Tòa án tại phiên toà do Hội đồng xét
xử quyết định.
Trong trường hợp phải thay đổi Thư ký Toà án tại phiên
toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử Thư ký Tòa án khác do Chánh án Toà án quyết định.
1.
Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối
với họ đã có quyết định tạm giữ.
2.
Người bị tạm giữ có quyền:
a)
Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b)
Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c)
Trình bày lời khai;
d) Tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
đ)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e)
Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
3.
Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của
pháp luật.
1. Bị
can là người đã bị khởi tố về hình sự.
2. Bị
can có quyền:
a)
Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
b)
Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c)
Trình bày lời khai;
d)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
đ) Đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
e) Tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
g)
Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều
tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố;
các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
h)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
3. Bị
can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong
trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn
thì bị truy nã.
1. Bị
cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử.
2. Bị
cáo có quyền:
a)
Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa
án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b)
Tham gia phiên toà;
c)
Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
d) Đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
đ)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
g)
Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa;
h)
Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
i)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;
k)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.
3. Bị
cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không
có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
1.
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây ra.
2.
Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Được thông báo về kết quả điều tra;
c) Đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
d) Đề
nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ)
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình;
e)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng
như về hình phạt đối với bị cáo.
4.
Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự.
5.
Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những
quyền quy định tại Điều này.
1.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra
và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2.
Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Được thông báo về kết quả điều tra;
c) Đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
d) Đề
nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ)
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn;
e)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
g)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.
3.
Nguyên đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc đòi bồi
thường thiệt hại.
1. Bị
đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách
nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
2. Bị
đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự;
b)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
c)
Được thông báo kết quả điều tra có liên quan đến việc đòi bồi thường;
d) Đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
đ)
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị đơn;
e)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
g) Kháng
cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.
3. Bị
đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường
thiệt hại.
Điều
54. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Tham gia phiên toà; phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình;
c)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của mình;
d)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình
tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
1.
Người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập
đến làm chứng.
2.
Những người sau đây không được làm chứng:
a)
Người bào chữa của bị can, bị cáo;
b)
Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức
được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
3.
Người làm chứng có quyền:
b)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
c)
Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy
định của pháp luật.
4.
Người làm chứng có nghĩa vụ:
a)
Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong
trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ
gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
b)
Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án.
Người
làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng,
thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình
sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều
307 của Bộ luật hình sự.
1.
Người bào chữa có thể là:
a)
Luật sư;
b)
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c)
Bào chữa viên nhân dân.
2.
Những người sau đây không được bào chữa:
b)
Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định
hoặc người phiên dịch.
3. Một
người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào
chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
4.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm
theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà
án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa.
Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Đối
với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề
nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan
điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc
bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Điều
57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa
1.
Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của họ lựa chọn.
a) Bị
can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định
tại Bộ luật hình sự;
b) Bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất.
Trong
các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo
và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối
người bào chữa.
Điều
58. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
1.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người
theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham
gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều
tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết
định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
2.
Người bào chữa có quyền:
a)
Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều
tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt
động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề
nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có
mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
d)
Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc
bí mật nhà nước, bí mật công tác;
đ)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp
người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc,
ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa
sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h)
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
i)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
k)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều
57 của Bộ luật này.
3.
Người bào chữa có nghĩa vụ:
a) Sử
dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy
theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ
án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan
tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này;
b)
Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ;
c)
Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm
nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
d)
Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục
người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ)
Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
e)
Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa;
không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và cá nhân.
4.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật.
Điều
59. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
1.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc
người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền
lợi cho mình.
2.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị
can.
3.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Đọc,
ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ
quyền lợi của đương sự sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
c)
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem biên bản phiên tòa;
d)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Người
bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này.
Đối
với đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố
tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của
Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
4.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ:
a) Sử
dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án;
b)
Giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
1. Người
giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định được cơ
quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp luật.
2.
Người giám định có quyền:
a)
Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định;
b)
Yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc
kết luận;
c)
Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên
quan đến đối tượng giám định;
d) Từ
chối việc thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành
giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội
dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;
đ)
Ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất
với kết luận chung trong trường hợp giám định do một nhóm người giám định tiến
hành.
3.
Người giám định phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà họ biết được khi tham gia tố
tụng với tư cách là người giám định.
Người
giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự. Người
giám định kết luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
4.
Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42 của Bộ
luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã tham
gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ
án đó.
Việc
thay đổi người giám định do cơ quan trưng cầu quyết định.
1.
Người phiên dịch do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án yêu cầu trong
trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt.
2.
Người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án và phải dịch trung thực; không được tiết lộ bí mật điều tra; nếu dịch
gian dối thì người phiên dịch phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều
307 của Bộ luật hình sự.
3.
Người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42 của Bộ
luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã tham
gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định trong vụ án
đó.
Việc
thay đổi người phiên dịch do cơ quan yêu cầu quyết định.
4.
Những quy định của Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu hiệu của
người câm và người điếc.
Cơ
quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này.
Việc giải thích phải được ghi vào biên bản.
Điều
63. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Khi
điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án phải chứng minh:
1.
Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội;
2.
Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3.
Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4.
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
1.
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để
xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội
cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2.
Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật
chứng;
b) Lời
khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo;
c) Kết
luận giám định;
d)
Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
1. Để
thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập
những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên
quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt
động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2.
Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có
thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
1. Mỗi
chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến
vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ
án hình sự.
2.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng
cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp,
khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết của vụ án.
Điều
67. Lời khai của người làm chứng
1.
Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và
trả lời những câu hỏi đặt ra.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu
họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều
68. Lời khai của người bị hại
1.
Người bị hại trình bày về những tình tiết của vụ án, quan hệ giữa họ với người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người bị hại trình bày, nếu họ
không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều
69. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
1.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày về những tình tiết liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều
70. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày về những tình tiết
trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết
đó.
Điều
71. Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ
Người
bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi
thực hiện tội phạm.
Điều
72. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị
can, bị cáo trình bày về những tình tiết của vụ án.
2. Lời
nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với
các chứng cứ khác của vụ án.
Không
được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.
1.
Người giám định kết luận về vấn đề được yêu cầu giám định và phải chịu trách
nhiệm cá nhân về kết luận đó.
Kết
luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản.
Nếu
việc giám định do một nhóm người giám định tiến hành thì tất cả các thành viên
đều ký vào bản kết luận chung. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người
ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung.
2.
Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định
thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết định
giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung.
Vật
chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội
phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng
minh tội phạm và người phạm tội.
Điều
75. Thu thập và bảo quản vật chứng
1. Vật
chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên bản
và đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong
trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có thể
ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản.
2. Vật
chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Việc
niêm phong, bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:
a) Đối
với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc
niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải
lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
b) Vật
chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất
độc, chất phóng xạ phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển
ngay để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ quan chuyên trách khác;
c) Đối
với vật chứng không thể đưa về cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ
quan tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp
đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ
quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
d) Đối
với vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản nếu không thuộc trường hợp
quy định tại khoản 3 Điều 76 của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định
tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định
bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ
quan có thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lý;
đ) Đối
với vật chứng đưa về cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an có
trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi
hành án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành
án.
3.
Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm
phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng của
vụ án, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 310 của Bộ luật
hình sự; trong trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật
chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định tại Điều 300 của Bộ luật hình sự; nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
1.
Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở
giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai
đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc
thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.
2. Vật
chứng được xử lý như sau:
a) Vật
chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung
quỹ Nhà nước hoặc tiêu huỷ;
b) Vật
chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người
phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho
chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;
c) Vật
chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà
nước;
d) Vật
chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định
của pháp luật;
đ) Vật
chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.
3.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền quy định tại
khoản 1 Điều này có quyền quyết định trả lại những vật chứng quy định tại điểm
b khoản 2 Điều này cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy
không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.
4.
Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều
77. Biên bản về hoạt động điều tra và xét xử
Những
tình tiết được ghi trong các biên bản bắt người, khám xét, khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên
toà và biên bản về các hoạt động tố tụng khác tiến hành theo quy định của Bộ luật
này có thể được coi là chứng cứ.
Điều
78. Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án
Những
tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu cũng như đồ vật do
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ.
Trong
trường hợp những tài liệu, đồ vật này có những dấu hiệu quy định tại Điều 74 của
Bộ luật này thì được coi là vật chứng.
Điều
79. Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Để kịp
thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi
cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm.
Điều
80. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1.
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a)
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
các cấp;
b)
Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c)
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao; Hội đồng xét xử;
d)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh
bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2. Lệnh
bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa
chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và
có đóng dấu.
Người
thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt
và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi
tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành
bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng
kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
3.
Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả
tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật
này.
Điều
81. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
1.
Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a)
Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b)
Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy
và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn;
c)
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực
hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ
chứng cứ.
2.
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b)
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
c)
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng.
3. Nội
dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải
theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này.
4.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét
phê chuẩn.
Viện
kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt
trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong
thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên
quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã
ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Điều
82. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
1. Đối
với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị
phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào
cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban
nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị
bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2.
Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng
có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Điều
83. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
1.
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra
quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
2. Đối
với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt
phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau
khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định
đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến
nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị
bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định
truy nã biết.
Sau
khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để
tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh
tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó
đến trại tạm giam nơi gần nhất.
Điều
84. Biên bản về việc bắt người
1.
Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.
Biên
bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc
đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu
bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.
Biên
bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt,
người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu
ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào
biên bản và ký tên.
Việc
tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của
Bộ luật này.
2.
Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Ngoài
những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ
việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được,
tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Điều
85. Thông báo về việc bắt
Người
ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia
đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì
sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt phải thông báo ngay.
1. Tạm
giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã.
2.
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ
luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
Người
thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm
giữ quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải
được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ
hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ
và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết
định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho
người bị tạm giữ một bản.
1.
Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt.
2.
Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ,
nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ
có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia
hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12
giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn
tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn.
3.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ.
1. Tạm
giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị
can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị
can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối
với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng
tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm
giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị
can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị
can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị
can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không
tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
4.
Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông
báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
Điều
89. Chế độ tạm giữ, tạm giam
Chế
độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Nơi
tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế
độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều
90. Việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm
giam
1.
Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người
thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra
quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm
nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì
cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền
sở tại chăm nom.
2.
Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không
có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải
áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
3.
Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm
giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
Điều
91. Cấm đi khỏi nơi cư trú
1. Cấm
đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị
cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
2.
Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị
can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt
đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
Người
ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho
chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị
cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ. Trong trường
hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải
được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải
có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.
3. Bị
can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác.
1. Bảo
lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị
cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo
lĩnh.
2.
Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ.
Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo
lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh,
cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm
tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận
bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận
bảo lĩnh.
3.
Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
4.
Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền
địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối
với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu
tổ chức.
5.
Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách
nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận
bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều
93. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
1. Đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện
pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
2.
Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành.
3.
Cơ quan ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm phải
lập biên bản ghi rõ số lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã được đặt và
giao cho bị can hoặc bị cáo một bản.
4.
Trong trường hợp bị can, bị cáo đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì số tiền hoặc tài sản đã đặt
sẽ bị sung quỹ Nhà nước và trong trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác.
Trong
trường hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan
tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
5.
Trình tự, thủ tục, mức tiền hoặc giá trị tài sản phải đặt để bảo đảm, việc tạm
giữ, hoàn trả, không hoàn trả số tiền hoặc tài sản đã đặt được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
Điều
94. Huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
1.
Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đều phải được huỷ
bỏ.
2.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy
không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác.
Đối
với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc
thay thế phải do Viện kiểm sát quyết định.
1.
Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định
thống nhất.
Trong
biên bản ghi rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt
đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, những người tiến
hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng, những khiếu nại, yêu cầu
hoặc đề nghị của họ.
2.
Biên bản phiên toà phải có chữ ký của chủ toạ phiên toà và Thư ký Tòa án. Biên
bản các hoạt động tố tụng khác phải có chữ ký của những người mà Bộ luật này
quy định trong từng trường hợp. Những điểm sửa chữa trong biên bản cũng phải được
xác nhận bằng chữ ký của họ.
1.
Thời hạn mà Bộ luật này quy định được tính theo giờ, ngày và tháng. Đêm được
tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau.
Khi
tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của
thời hạn. Khi tính thời hạn theo tháng thì thời hạn hết vào ngày trùng của
tháng sau; nếu tháng đó không có ngày trùng, thì thời hạn hết vào ngày cuối
cùng của tháng đó; nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp
theo được tính là ngày cuối cùng của thời hạn.
Khi
tính thời hạn tạm giữ, tạm giam thì thời hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn được
ghi trong lệnh. Nếu thời hạn được tính bằng tháng thì một tháng được tính là ba
mươi ngày.
2.
Trong trường hợp có đơn hoặc giấy tờ được gửi qua bưu điện thì thời hạn được
tính theo dấu bưu điện nơi gửi. Nếu có đơn hoặc giấy tờ được gửi qua Ban giám
thị trại tạm giam, trại giam thì thời hạn được tính từ ngày Ban giám thị trại tạm
giam, trại giam nhận đơn hoặc giấy tờ đó.
Nếu
quá hạn mà có lý do chính đáng thì cơ quan tiến hành tố tụng phải phục hồi lại
thời hạn.
án
phí là tất cả chi phí để tiến hành tố tụng hình sự bao gồm tiền thù lao cho người
làm chứng, người bị hại, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa
trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định và các khoản chi phí khác
theo quy định của pháp luật; án phí dân sự trong vụ án hình sự.
Điều
99. Trách nhiệm chịu án phí
1.
án phí do người bị kết án hoặc Nhà nước chịu theo quy định của pháp luật.
2.
Người bị kết án phải trả án phí theo quyết định của Toà án.
3.
Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, nếu Toà án
tuyên bố bị cáo không có tội hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định tại khoản 2
Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại phải trả án phí.
KHỞI
TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ QUYẾT ĐỊNH VIỆC TRUY TỐ
Điều
100. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chỉ
được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định
dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố
giác của công dân;
2.
Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3.
Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện
dấu hiệu của tội phạm;
5.
Người phạm tội tự thú.
Điều
101. Tố giác và tin báo về tội phạm
Công
dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với
các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận
phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.
Cơ
quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin
ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.
Điều
102. Người phạm tội tự thú
Khi
người phạm tội đến tự thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ
họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú. Cơ quan, tổ
chức tiếp nhận người phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho Cơ quan điều
tra hoặc Viện kiểm sát.
Điều
103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác,
tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ
quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã
tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2.
Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm
tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố
vụ án hình sự.
Trong
trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có
nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời
hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
3. Kết
quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan
nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ
chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.
Cơ
quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội
phạm.
4.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối
với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Điều
104. Quyết định khởi tố vụ án hình sự
1.
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm
lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111 của Bộ
luật này.
Viện
kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ
bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và
trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Hội
đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình
sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm
tội mới cần phải điều tra.
2.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều
khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định.
3.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm
sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; quyết định
khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều
tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi
tố; quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới Viện kiểm sát để
xem xét, quyết định việc điều tra; yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi
cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc khởi tố.
Điều
105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
1.
Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự
chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp
pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.
2.
Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa
sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong
trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố
trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố
rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến
hành tố tụng đối với vụ án.
Người
bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp
rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Điều
106. Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự
1.
Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy
ra hoặc còn có tội phạm khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
2.
Trong trường hợp Cơ quan điều tra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra phải gửi cho Viện kiểm
sát để kiểm sát việc khởi tố.
Trong
trường hợp Viện kiểm sát quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ
án hình sự thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để
tiến hành điều tra.
Điều
107. Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
Không
được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
1.
Không có sự việc phạm tội;
2.
Hành vi không cấu thành tội phạm;
3.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự;
4.
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có
hiệu lực pháp luật;
5.
Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội
phạm đã được đại xá;
7.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm
đối với người khác.
Điều
108. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự
1.
Khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người
có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố
thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố và thông báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết rõ lý do; nếu xét cần xử
lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết.
Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án
hình sự và các tài liệu liên quan phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp
trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
2.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm có quyền khiếu nại
quyết định không khởi tố vụ án. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại theo
quy định tại Chương XXXV của Bộ luật này.
Điều
109. Quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự
1.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc khởi tố vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được
khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp.
2.
Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi
tố đó; nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan đó không có
căn cứ, thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án.
3.
Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có
căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp trên.
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐIỀU TRA
2.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Toà án quân sự.
3.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội
xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư
pháp.
4.
Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra
trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội
phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội
phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
Cơ
quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án
hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện,
Toà án quân sự khu vực; Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp
quân khu điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử
của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp
điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực
tiếp điều tra.
5. Tổ
chức bộ máy, thẩm quyền cụ thể của các Cơ quan điều tra do ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định.
1.
Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền:
a) Đối
với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và
lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong
thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án;
b) Đối
với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm
ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những
hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
2.
Trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, ngoài các Cơ quan điều tra quy định
tại Điều 110 của Bộ luật này, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có
dấu hiệu tội phạm, thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều
tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
3.
Khi tiến hành hoạt động điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi thẩm quyền tố tụng
của mình phải thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt
động điều tra theo quy định của Bộ luật này. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này.
4.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Điều
112. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra
Khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
1.
Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay
đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật
này;
3.
Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ
luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về
hình sự;
4.
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các
quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp
không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;
5.
Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
6.
Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Điều
113. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra
Khi
thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
1.
Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
của Cơ quan điều tra;
2.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;
3.
Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
4.
Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật
của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều
tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
5.
Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm
và vi phạm pháp luật.
Cơ
quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm
sát. Đối với những yêu cầu và quyết định quy định tại các điểm 4, 5 và 6 Điều
112 của Bộ luật này, nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành,
nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn
hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết
cho cơ quan đã kiến nghị.
Điều
115. Trách nhiệm thực hiện quyết định và yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát
Những
quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự phải được cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp
hành.
Điều
116. Chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền
Trong
trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của mình, Cơ quan điều tra phải
đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra
có thẩm quyền để tiếp tục điều tra; trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được
đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp có trách nhiệm ra quyết định
chuyển vụ án.
Việc
chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài
phạm vi quân khu do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu quyết định.
Điều
117. Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra
1.
Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những
trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc
cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội
phạm quy định tại Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình sự.
2.
Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi
không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc
tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ
án.
3.
Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp
trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
Khi
cần thiết, Cơ quan điều tra có thể ủy thác cho Cơ quan điều tra khác tiến hành
một số hoạt động điều tra. Quyết định ủy thác điều tra phải ghi rõ yêu cầu cụ
thể. Cơ quan điều tra được ủy thác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ những việc
được ủy thác theo thời hạn mà Cơ quan điều tra ủy thác yêu cầu.
1.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm
trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối
với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi
tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm
nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản
đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc
gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối
với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai
tháng;
b) Đối
với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất
không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
c) Đối
với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần
không quá bốn tháng;
d) Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần
không quá bốn tháng.
3.
Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát được quy định như sau:
a) Đối
với tội phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm
sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều
tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát
quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
b) Đối
với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát
quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp
vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất
và lần thứ hai;
c) Đối
với tội phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm
sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp
vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất
và lần thứ hai;
d) Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm
sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ
ba.
4.
Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn
điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
quân sự trung ương.
5. Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết, nhưng
do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn
tháng.
Đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6.
Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện
tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
Điều
120. Thời hạn tạm giam để điều tra
1.
Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian
dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp
tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều
tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc
gia hạn tạm giam được quy định như sau:
a) Đối
với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một
tháng;
b) Đối
với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
c) Đối
với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d) Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần
không quá bốn tháng.
3.
Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như sau:
a)
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn
tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với
tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được
thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm
ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b)
Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã
hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát
quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng.
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia
hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4.
Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn
tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
quân sự trung ương.
5. Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam
lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình
tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ
ba.
Trong
trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn
tháng.
6.
Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ
quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự
do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi
đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị
tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều
121. Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
1.
Trong trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 165 của Bộ luật này thì thời
hạn điều tra tiếp không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết
thúc điều tra.
Trong
trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất
là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề
nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như
sau:
a) Đối
với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một
lần không quá hai tháng;
b) Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba
tháng.
Thẩm
quyền gia hạn điều tra đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều
119 của Bộ luật này.
2.
Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn
điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung
thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ
được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ
sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
3.
Trong trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và
gia hạn điều tra theo thủ tục chung quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.
Thời
hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4.
Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền
áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật
này.
Trong
trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn
tạm giam để phục hồi điều tra, để điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục
hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời
hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại theo
thủ tục chung quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
Điều
122. Giải quyết các yêu cầu của người tham gia tố tụng
Khi
người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu
cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu
thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát thì
người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại
được thực hiện theo quy định tại Chương XXXV của Bộ luật này.
Điều
123. Sự tham dự của người chứng kiến
Người
chứng kiến được mời tham dự hoạt động điều tra trong những trường hợp do Bộ luật
này quy định.
Người
chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà Điều tra
viên đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. ý kiến
này được ghi vào biên bản.
Điều
124. Không được tiết lộ bí mật điều tra
Trong
trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải báo trước
cho người tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều
tra. Việc báo này phải được ghi vào biên bản.
Điều
tra viên, Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật
điều tra thì tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều 263, 264, 286, 287, 327 và 328 của Bộ luật hình sự.
1.
Khi tiến hành điều tra phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
Điều
tra viên lập biên bản phải đọc lại biên bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải
thích cho họ biết quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Nhận xét đó được
ghi vào biên bản. Người tham gia tố tụng và Điều tra viên cùng ký tên vào biên
bản.
2.
Trong trường hợp người tham gia tố tụng từ chối ký vào biên bản, thì việc đó phải
được ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
3. Nếu
người tham gia tố tụng vì nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do
khác mà không thể ký vào biên bản thì phải ghi rõ lý do; Điều tra viên và người
chứng kiến cùng xác nhận.
Người
không biết chữ thì điểm chỉ vào biên bản.
KHỞI
TỐ BỊ CAN VÀ HỎI CUNG BỊ CAN
1.
Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ
quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
2.
Quyết định khởi tố bị can ghi rõ: thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức
vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh
gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật
hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm.
Nếu
bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải
ghi rõ từng tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
3.
Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh chỉ bản của bị
can và đưa vào hồ sơ vụ án.
4.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra
phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó
cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho
Cơ quan điều tra.
5.
Trong trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi
tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
Sau
khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã
thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết
định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị
can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
6.
Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định
khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định
tại Điều 49 của Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải
giao ngay cho người đã bị khởi tố. Việc giao nhận các quyết định nói trên phải
lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều
127. Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
1.
Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can
không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị
can.
2.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định này và tài liệu có
liên quan đến việc thay đổi hoặc bổ sung đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét
phê chuẩn. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến
hành điều tra.
3.
Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi
tố bị can của mình hoặc quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị
can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều
49 của Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ
bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay cho người đã bị khởi tố. Việc giao nhận
các quyết định nói trên phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
Điều
128. Tạm đình chỉ chức vụ bị can đang đảm nhiệm
Khi
xét thấy việc bị can tiếp tục giữ chức vụ gây khó khăn cho việc điều tra thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức vụ của bị can. Trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức này phải trả lời bằng văn bản
cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã kiến nghị biết.
1.
Khi triệu tập bị can, Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập bị
can ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can; ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm có mặt, gặp
ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có lý do chính đáng.
2.
Giấy triệu tập bị can được gửi cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can
cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan, tổ chức nhận được
giấy triệu tập có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can.
Khi
nhận giấy triệu tập, bị can phải ký nhận, có ghi rõ ngày, giờ nhận. Người chuyển
giấy triệu tập phải chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ
quan đã triệu tập bị can; nếu bị can không ký nhận thì phải lập biên bản về việc
đó và gửi cho cơ quan triệu tập bị can; nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy
triệu tập cho một người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển
cho bị can. Bị can đang bị tạm giam được triệu tập thông qua Ban giám thị trại
tạm giam.
3. Bị
can phải có mặt theo giấy triệu tập. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do
chính đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì Điều tra viên có thể ra quyết định
áp giải.
4.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập bị can. Việc triệu tập
bị can được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều
130. Áp giải bị can tại ngoại
1.
Quyết định áp giải bị can ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức
vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can; tội
danh mà bị can đã bị khởi tố; thời gian, địa điểm bị can phải có mặt.
2.
Người thi hành quyết định áp giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản
về việc áp giải theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
3.
Không được áp giải bị can vào ban đêm.
1.
Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định
khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở
của người đó.
Trước
khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích
cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.
Việc này phải được ghi vào biên bản.
Nếu
vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với
nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình.
2.
Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải
ghi rõ lý do vào biên bản.
3.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể hỏi cung bị can. Việc hỏi cung
bị can được tiến hành theo quy định tại Điều này.
4.
Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can
thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 299 hoặc
Điều 298 của Bộ luật hình sự.
Điều
132. Biên bản hỏi cung bị can
1.
Biên bản hỏi cung bị can phải được lập theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của
Bộ luật này.
Mỗi
lần hỏi cung đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của
bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt
hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
2.
Sau khi hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can
tự đọc. Trong trường hợp có bổ sung và sửa chữa biên bản thì bị can và Điều tra
viên cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng trang
của biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì Điều tra viên và bị
can cùng ký xác nhận tờ khai đó.
Nếu
việc hỏi cung được ghi âm thì sau khi hỏi cung, phải phát lại để bị can và Điều
tra viên cùng nghe. Biên bản phải ghi lại nội dung việc hỏi cung, bị can và Điều
tra viên cùng ký xác nhận.
Trong
trường hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên phải giải
thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị can
biết được quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch và bị can cùng
ký vào từng trang của biên bản hỏi cung.
3.
Khi hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều
tra viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ
trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng
ký vào biên bản hỏi cung.
Trong
trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ
câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can.
4.
Trong trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị can thì phải thực hiện theo quy định
của Điều này.
Điều
133. Triệu tập người làm chứng
1.
Khi triệu tập người làm chứng, Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu
tập người làm chứng phải ghi rõ họ tên, chỗ ở của người làm chứng, ngày, giờ,
tháng, năm và địa điểm có mặt; gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có
lý do chính đáng.
2.
Giấy triệu tập được giao trực tiếp cho người làm chứng hoặc thông qua chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú hoặc làm
việc. Các cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng
thực hiện nghĩa vụ.
Trong
mọi trường hợp, việc giao giấy triệu tập phải được ký nhận.
3.
Giấy triệu tập người làm chứng chưa đủ 16 tuổi được giao cho cha, mẹ hoặc người
đại diện hợp pháp khác của họ.
4.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập người làm chứng. Việc
triệu tập người làm chứng được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Điều
134. Dẫn giải người làm chứng
1.
Trong trường hợp người làm chứng đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát triệu
tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây
trở ngại cho việc điều tra, truy tố thì cơ quan đã triệu tập người làm chứng có
thể ra quyết định dẫn giải.
2.
Quyết định dẫn giải người làm chứng ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ
tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của
người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải có mặt.
3.
Người thi hành quyết định dẫn giải phải đọc, giải thích quyền và nghĩa vụ của
người làm chứng và lập biên bản về việc dẫn giải theo quy định tại Điều 95 của
Bộ luật này.
4.
Không được dẫn giải người làm chứng vào ban đêm.
Điều
135. Lấy lời khai người làm chứng
1.
Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra hoặc
nơi cư trú, nơi làm việc của người đó.
2. Nếu
vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không
để cho họ tiếp xúc với nhau trong thời gian lấy lời khai.
3.
Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng biết
quyền và nghĩa vụ của họ. Việc này phải được ghi vào biên bản.
4.
Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Điều tra viên cần xác minh mối quan hệ giữa
người làm chứng với bị can, người bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của
người làm chứng. Điều tra viên cần yêu cầu người làm chứng kể hoặc viết lại những
gì mà họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi. Không được đặt câu hỏi có tính
chất gợi ý.
5.
Khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc người đại
diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của người đó tham dự.
6.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng.
Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều
136. Biên bản ghi lời khai của người làm chứng
Biên
bản ghi lời khai của người làm chứng phải được lập theo quy định tại các điều
95, 125 và 132 của Bộ luật này.
Việc
triệu tập, lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định tại các
điều 133, 135 và 136 của Bộ luật này.
1.
Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì Điều
tra viên tiến hành đối chất.
2. Nếu
có người làm chứng hoặc người bị hại tham gia đối chất thì trước tiên Điều tra
viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai
báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải được ghi vào biên bản.
3.
Khi bắt đầu đối chất, Điều tra viên hỏi về mối quan hệ giữa những người tham
gia đối chất, sau đó hỏi họ về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Khi đã nghe những
lời khai trong đối chất, Điều tra viên có thể hỏi thêm từng người.
Điều
tra viên cũng có thể để cho những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi
và trả lời của những người này phải được ghi vào biên bản.
Chỉ
sau khi những người tham gia đối chất đã khai xong mới được nhắc lại những lời
khai lần trước của họ.
4.
Biên bản đối chất phải lập theo quy định tại các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật
này.
5.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể tiến hành đối chất. Việc đối
chất được tiến hành theo quy định tại Điều này.
1.
Khi cần thiết, Điều tra viên có thể mời người hoặc đưa vật, ảnh cho người làm
chứng, người bị hại hoặc bị can nhận dạng.
Điều
tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm
mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được.
2. Số
người, vật hoặc ảnh đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và về bề ngoài phải
tương tự giống nhau. Đối với việc nhận dạng tử thi thì không áp dụng nguyên tắc
này.
Trong
trường hợp đặc biệt có thể cho xác nhận người qua tiếng nói.
3. Nếu
người làm chứng hay người bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều
tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh
khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích đó phải được ghi vào biên
bản.
4.
Trong khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi có tính chất
gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong
số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã
căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hay ảnh đó.
Việc
tiến hành nhận dạng phải có mặt người chứng kiến.
5.
Biên bản nhận dạng phải được lập theo quy định tại các điều 95, 125 và 132 của
Bộ luật này. Trong biên bản cần ghi rõ nhân thân của người nhận dạng và của những
người được đưa ra để nhận dạng; những đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận
dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng.
KHÁM
XÉT, THU GIỮ, TẠM GIỮ, KÊ BIÊN TÀI SẢN
1.
Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ
để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ,
phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án.
Việc
khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người
đang bị truy nã.
2.
Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
Điều
141. Thẩm quyền ra lệnh khám xét
1.
Những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh
khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh khám xét của những người được quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành.
2.
Trong trường hợp không thể trì hoãn, những người được quy định tại khoản 2 Điều
81 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi
khám xong, người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát
cùng cấp.
1.
Khi bắt đầu khám người, phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám
đó; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Người
tiến hành khám phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật, tài liệu có liên quan
đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám.
2.
Khi khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến.
3.
Có thể tiến hành khám người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc
khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật,
tài liệu cần thu giữ.
Điều
143. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
1.
Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm được tiến hành theo quy định tại các điều
140, 141 và 142 của Bộ luật này.
2.
Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong
gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng
chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt,
bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại
diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến.
3.
Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải
ghi rõ lý do vào biên bản.
4.
Khi khám chỗ làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp
không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Việc
khám chỗ làm việc phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc
chứng kiến.
5.
Khi tiến hành khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm những người có mặt không được
tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với
những người khác cho đến khi khám xong.
Điều
144. Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện
Khi
cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì
Cơ quan điều tra ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ
lý do vào biên bản và sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp biết.
Người
thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan trước
khi tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan phải giúp đỡ
người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm vụ.
Khi
thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, phải có đại diện của cơ quan bưu
điện chứng kiến và ký xác nhận vào biên bản.
Cơ
quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm bị thu giữ biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản
trở đó không còn nữa, cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo ngay.
Điều
145. Tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét
Khi
khám xét, Điều tra viên được tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên
quan trực tiếp đến vụ án. Đối với đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ, lưu hành thì
phải thu giữ và chuyển ngay cho cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trong trường hợp
cần thiết phải niêm phong thì tiến hành trước mặt chủ đồ vật hoặc đại diện gia
đình, đại diện chính quyền và người chứng kiến.
Việc
tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành khám xét phải được lập biên bản. Biên bản
tạm giữ được lập thành bốn bản: một bản giao cho người chủ đồ vật, tài liệu; một
bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao
cho cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.
1.
Việc kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình
sự quy định có thể tịch thu tài sản hoặc phạt tiền cũng như đối với người phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Những
người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh
kê biên tài sản. Lệnh kê biên của những người được quy định tại điểm d khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước
khi thi hành.
2.
Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi
thường thiệt hại.
Tài
sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc người thân thích của họ bảo quản.
Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất
giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của Bộ luật hình sự.
3.
Khi tiến hành kê biên tài sản, phải có mặt đương sự hoặc người đã thành niên
trong gia đình, đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng
chứng kiến. Người tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng
từng tài sản bị kê biên. Biên bản phải lập theo quy định tại Điều 95 và Điều
125 của Bộ luật này, đọc cho đương sự và những người có mặt nghe và cùng ký
tên. Những khiếu nại của đương sự được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của
họ và của người tiến hành kê biên.
Biên
bản kê biên được lập thành ba bản: một bản được giao ngay cho đương sự sau khi
kê biên xong; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ
án.
4.
Khi xét thấy việc kê biên không còn cần thiết thì người có thẩm quyền quy định
tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải kịp thời ra quyết định hủy bỏ lệnh kê
biên.
Đồ vật,
tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị
niêm phong theo quy định tại các điều 75, 144 và 145 của Bộ luật này phải được
bảo quản nguyên vẹn.
Người
được giao bảo quản mà phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo,
cất giấu hoặc hủy hoại tài sản được giao bảo quản thì phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Điều 310 của Bộ luật hình sự.
Khi
tiến hành khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ
luật này.
Người
ra lệnh, người thi hành lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ đồ vật,
tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm trái pháp luật thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
Điều
150. Khám nghiệm hiện trường
1. Điều
tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện
dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với
vụ án.
2.
Khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự. Trong
mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo
cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường. Khi khám nghiệm, phải có người chứng kiến; có thể để
cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc
khám nghiệm.
3.
Khi khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả
hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội
phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên
bản khám nghiệm hiện trường.
Trong
trường hợp không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ phải được
bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.
Việc
khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải
có người chứng kiến.
Trong
trường hợp cần phải khai quật tử thi thì phải có quyết định của Cơ quan điều
tra và phải thông báo cho gia đình nạn nhân biết trước khi tiến hành. Việc khai
quật tử thi phải có bác sỹ pháp y tham gia.
Khi
cần thiết có thể triệu tập người giám định và phải có người chứng kiến.
Trong
mọi trường hợp, việc khám nghiệm tử thi phải được thông báo trước cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để tiến hành kiểm sát việc khám
nghiệm tử thi.
Điều
152. Xem xét dấu vết trên thân thể
1.
Điều tra viên tiến hành xem xét thân thể người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người
bị hại, người làm chứng để phát hiện trên người họ dấu vết của tội phạm hoặc
các dấu vết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trong trường hợp cần thiết thì Cơ
quan điều tra trưng cầu giám định pháp y.
2.
Việc xem xét thân thể phải do người cùng giới tiến hành và phải có người cùng
giới chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết thì có bác sĩ tham gia.
Không
được xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm hoặc sức khỏe của người bị xem xét thân thể.
Điều
153. Thực nghiệm điều tra
1. Để
kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án,
Cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường,
diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định
và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thấy cần, có thể đo đạc,
chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.
2.
Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, phải có người chứng kiến. Trong trường hợp
cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể
tham gia.
Không
được xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người
tham gia việc thực nghiệm điều tra.
3.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể tiến hành thực nghiệm điều
tra. Việc thực nghiệm điều tra được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Khi
tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên
thân thể và thực nghiệm điều tra phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 và
Điều 125 của Bộ luật này.
1.
Khi có những vấn đề cần được xác định theo quy định tại khoản 3 Điều này hoặc
khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu
giám định.
2.
Quyết định trưng cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên
người được trưng cầu giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền
và nghĩa vụ của người giám định quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.
3. Bắt
buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
a)
Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả
năng lao động;
b)
Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng
lực trách nhiệm hình sự của họ;
c)
Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự
nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của
vụ án;
d)
Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và
không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của
những tài liệu đó;
đ)
Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.
Điều
156. Việc tiến hành giám định
1.
Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều
tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu giám định.
Điều
tra viên, Kiểm sát viên có quyền tham dự giám định, nhưng phải báo trước cho
người giám định biết.
2.
Trong trường hợp việc giám định không thể tiến hành theo thời hạn mà cơ quan
trưng cầu giám định yêu cầu thì cơ quan giám định hoặc người giám định phải
thông báo ngay bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan đã trưng cầu giám định
biết.
Điều
157. Nội dung kết luận giám định
1. Nội
dung kết luận giám định phải ghi rõ: thời gian, địa điểm tiến hành giám định; họ
tên, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn của người giám định; những người
tham gia khi tiến hành giám định; những dấu vết, đồ vật, tài liệu và tất cả những
gì đã được giám định, những phương pháp được áp dụng và giải đáp những vấn đề
đã được đặt ra có căn cứ cụ thể.
2. Để
làm sáng tỏ hoặc bổ sung nội dung kết luận giám định, cơ quan trưng cầu giám định
có thể hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết và có thể quyết định
giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Điều
158. Quyền của bị can và những người tham gia tố tụng đối với kết luận giám định
1.
Sau khi đã tiến hành giám định, nếu bị can, những người tham gia tố tụng khác
yêu cầu thì cơ quan đã trưng cầu giám định phải thông báo cho họ về nội dung kết
luận giám định.
Bị
can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về
kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Những việc
này được ghi vào biên bản.
2.
Trong trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu của bị
can, những người tham gia tố tụng khác thì phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ
biết.
Điều
159. Giám định bổ sung hoặc giám định lại
1.
Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp nội dung kết luận giám định
chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những
tình tiết của vụ án đã được kết luận trước đó.
2.
Việc giám định lại được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có
mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc
giám định lại phải do người giám định khác tiến hành.
3.
Việc giám định bổ sung hoặc giám định lại được tiến hành theo thủ tục chung quy
định tại các điều 155, 156, 157 và 158 của Bộ luật này.
TẠM
ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VÀ KẾT THÚC ĐIỀU TRA
Điều
160. Tạm đình chỉ điều tra
1.
Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng
giám định pháp y thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết hạn điều tra.
Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu
thì chỉ tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra.
Trong
trường hợp đã trưng cầu giám định nhưng chưa có kết quả giám định mà hết thời hạn
điều tra thì tạm đình chỉ điều tra và việc giám định vẫn tiếp tục được tiến
hành cho đến khi có kết quả.
Trong
trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan
đến tất cả các bị can, thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Nếu
không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã
trước khi tạm đình chỉ điều tra.
2.
Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này
cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bị hại.
Khi
bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết
định truy nã bị can.
Quyết
định truy nã phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã;
họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, tuổi, nơi cư trú của bị can; đặc
điểm để nhận dạng bị can, dán ảnh kèm theo, nếu có; tội phạm mà bị can đã bị khởi
tố.
Quyết
định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người
phát hiện, bắt, giữ người bị truy nã.
1.
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra.
2.
Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị
truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
3. Bản
kết luận điều tra phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký của
người ra kết luận.
4.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra
phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm
theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp;
gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho
bị can, người bào chữa.
1.
Khi có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì Cơ quan điều tra
làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra trình bày diễn
biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề
xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị truy tố.
2.
Kèm theo bản kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn
chặn đã được áp dụng có ghi rõ thời gian tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện
dân sự, biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản, nếu
có.
1.
Trong trường hợp đình chỉ điều tra, bản kết luận điều tra nêu rõ quá trình điều
tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra.
2.
Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau
đây:
a)
Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật
này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật
hình sự;
b)
Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
3.
Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và
căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật, tài
liệu đã tạm giữ, nếu có và những vấn đề khác có liên quan.
Nếu
trong một vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan
đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
4.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra
của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện
kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm
quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ quyết định
đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ
căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy
tố. Thời hạn ra quyết định truy tố được thực hiện theo quy định tại Điều 166 của
Bộ luật này.
1. Khi
có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra
thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định
phục hồi điều tra, cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát
cùng cấp.
2. Nếu
việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 107 của Bộ luật
này mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện
kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.
Điều
166. Thời hạn quyết định truy tố
1.
Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện
kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:
a)
Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c)
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Trong
trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá
mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá
mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu trên, Viện kiểm
sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định
đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được
đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất yêu cầu.
2.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.
3.
Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định
truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến
Tòa án.
4.
Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Viện kiểm sát
ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
1. Nội
dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm;
thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết
quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết
tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi
tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần
kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được
áp dụng.
2. Bản
cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký
của người ra bản cáo trạng.
Điều
168. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Viện
kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy:
2.
Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác;
3.
Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những
vấn đề cần được điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều
tra bổ sung.
Điều
169. Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án
1.
Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định
tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều
19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự.
2.
Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong những trường hợp sau đây:
a)
Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội
đồng giám định pháp y;
b)
Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường hợp này phải
yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
3.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án đối với từng bị can.
4.
Trong trường hợp quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới không có
căn cứ và trái pháp luật, thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền huỷ bỏ
quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới ra quyết định truy tố.
Chương XVI
Điều
170. Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp
a)
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b)
Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c)
Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218,
219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ
luật hình sự.
2.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ
án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới
mà mình lấy lên để xét xử.
Điều
171. Thẩm quyền theo lãnh thổ
1.
Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện.
Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác
định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi
kết thúc việc điều tra.
2. Bị
cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh
nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được
nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị
cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì
do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa
án quân sự trung ương.
Những
tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc
nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.
Điều
173. Việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của các Tòa án khác cấp
Khi
bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.
Khi
thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án
có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Chỉ
được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp
này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải
chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội
đồng xét xử quyết định.
Trong
thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo
cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ
án.
Điều
175. Giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử
1.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Tòa án cấp trên trực
tiếp quyết định.
2.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp
huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án
Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quyết định.
3.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án
quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
Điều
176. Thời hạn chuẩn bị xét xử
1.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ
nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia
tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
2.
Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày
đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba
tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau
đây:
a)
Đưa vụ án ra xét xử ;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c)
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Đối
với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng
và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng
và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải
được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải
mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên
toà trong thời hạn ba mươi ngày.
Đối
với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau
khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Điều
177. Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau
khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền quyết
định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trừ việc áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án
quyết định.
Thời
hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định
tại Điều 176 của Bộ luật này.
Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh
tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Điều
178. Nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử
Quyết
định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ:
1. Họ
tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo;
2. Tội
danh và điều khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát áp dụng đối với hành vi
của bị cáo;
3.
Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
4. Xử
công khai hay xử kín;
5. Họ
tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự
khuyết, nếu có;
6. Họ
tên Kiểm sát viên tham gia phiên toà; họ tên Kiểm sát viên dự khuyết, nếu có;
7. Họ
tên người bào chữa, nếu có;
8. Họ
tên người phiên dịch, nếu có;
9. Họ
tên những người được triệu tập để xét hỏi tại phiên toà;
10.
Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà.
Điều
179. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1.
Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong
những trường hợp sau đây:
b)
Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác;
c)
Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những
vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra
bổ sung.
2. Nếu
kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết
định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.
Trong
trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ
sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ
án.
Điều
180. Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án
Thẩm
phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 160 của Bộ
luật này; ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại
khoản 2 Điều 105 và các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này hoặc khi
Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.
Trong
trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.
Quyết
định đình chỉ vụ án phải ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 3 Điều 164 của
Bộ luật này.
Điều
181. Viện kiểm sát rút quyết định truy tố
Nếu
xét thấy có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này hoặc
có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự, thì
Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án
đình chỉ vụ án.
Điều
182. Việc giao các quyết định của Tòa án
1.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp
pháp của họ và người bào chữa, chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa.
Trong
trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản cáo
trạng được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo; quyết
định đưa vụ án ra xét xử còn phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo.
2.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án phải được
giao cho bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người đại diện hợp pháp
của bị can, bị cáo; những người khác tham tố tụng thì được gửi giấy báo.
3.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ
án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4.
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phải được gửi ngay
cho bị can, bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, trại tạm giam nơi bị can, bị cáo
đang bị tạm giam.
Điều
183. Triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa
Căn
cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán triệu tập những người cần xét
hỏi đến phiên tòa.
QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
Điều
184. Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục
1.
Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe
ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người
làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến của Kiểm sát viên,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bản án chỉ được căn cứ vào
những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
2.
Việc xét xử phải tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ.
Điều
185. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
Hội
đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm.
Đối
với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất
là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa điều khiển việc xét xử tại phiên tòa và giữ kỷ luật
phiên tòa.
Điều
186. Thay thế thành viên của Hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt
1.
Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi
kết thúc.
2.
Trong quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét
xử được thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết.
Thẩm phán hoặc Hội thẩm dự khuyết phải có mặt tại phiên tòa từ đầu thì mới được
tham gia xét xử. Trong trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán
chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành
viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung
làm thành viên Hội đồng xét xử.
3.
Trong trường hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải
thay đổi chủ toạ phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại
khoản 2 Điều này thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
Điều
187. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa
1. Bị
cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt
không có lý do chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều 130 của
Bộ luật này; nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.
Nếu
bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm
đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu
bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều
tra truy nã bị cáo.
2.
Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị
cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;
b) Bị
cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c) Nếu
sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy
triệu tập hợp lệ.
Điều
188. Giám sát bị cáo tại phiên tòa
1. Bị
cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ được tiếp xúc với người bào chữa. Việc
tiếp xúc với những người khác phải được phép của chủ tọa phiên tòa.
2. Bị
cáo không bị tạm giam phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ
án.
Điều
189. Sự có mặt của Kiểm sát viên
1.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Đối với vụ án có
tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hai Kiểm sát viên có thể cùng tham gia
phiên tòa. Trong trường hợp cần thiết có thể có Kiểm sát viên dự khuyết.
2. Nếu
Kiểm sát viên vắng mặt, bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay
thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều
190. Sự có mặt của người bào chữa
Người
bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản
bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Trong
trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của
Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên
tòa.
1. Nếu
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tùy trường
hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Nếu
thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại
cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi
thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều
192. Sự có mặt của người làm chứng
Người
làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu người
làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa
phiên tòa công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về những vấn đề quan
trọng vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc
vẫn tiến hành xét xử.
Trong
trường hợp người làm chứng được Toà án triệu tập nhưng cố ý không đến mà không
có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội
đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải. Thủ tục dẫn giải người làm chứng được
thực hiện theo quy định tại Điều 134 của Bộ luật này.
Điều
193. Sự có mặt của người giám định
1.
Người giám định tham gia phiên tòa khi được Tòa án triệu tập.
2. Nếu
người giám định vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn
phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Điều
194. Thời hạn hoãn phiên tòa
Trong
trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại các điều 45, 46, 47, 187, 189,
190, 191, 192 và 193 của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không
được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
Điều
195. Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại
phiên toà
Tại
phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hay toàn bộ quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử
toàn bộ vụ án.
Điều
196. Giới hạn của việc xét xử
Tòa
án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy
tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Toà
án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố
trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm
sát đã truy tố.
1.
Trước khi bắt đầu phiên tòa, Thư ký Tòa án phải phổ biến nội quy phiên tòa.
2. Mọi
người ở trong phòng xử án đều phải có thái độ tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ
gìn trật tự và tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
3. Mọi
người ở trong phòng xử án đều phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử
án. Những người được Tòa án triệu tập để xét hỏi được trình bày ý kiến và người
nào muốn trình bày phải được chủ tọa phiên tòa cho phép. Người trình bày ý kiến
phải đứng khi được hỏi, trừ trường hợp vì lý do sức khỏe được chủ tọa phiên tòa
cho phép ngồi để trình bày.
4.
Những người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án
triệu tập để xét hỏi.
Điều
198. Những biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên tòa
Những
người vi phạm trật tự phiên tòa thì tùy trường hợp, có thể bị chủ tọa phiên tòa
cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ.
Người
bảo vệ phiên tòa có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa và thi hành lệnh của chủ
tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật
tự tại phiên tòa.
Điều
199. Việc ra bản án và các quyết định của Tòa án
1. Bản
án của Tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt
và các biện pháp tư pháp khác. Bản án phải được thảo luận và thông qua tại
phòng nghị án.
2.
Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư
ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ
sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị
cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành
văn bản.
3.
Quyết định về các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại
phòng xử án, không phải lập thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản
phiên tòa.
1.
Biên bản phiên tòa phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm của phiên tòa và
mọi diễn biến ở phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi tuyên án. Cùng với việc
ghi biên bản, có thể ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên tòa.
2.
Những câu hỏi và những câu trả lời đều phải được ghi vào biên bản.
3.
Sau khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải kiểm tra biên bản và cùng với
Thư ký Tòa án ký vào biên bản đó.
4.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên
tòa, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký
xác nhận.
Điều
201. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Khi
bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Sau
khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt,
chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết
quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.
Trong
trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng theo quy định tại khoản 2
Điều 49 và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 1
Điều 182 của Bộ luật này và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn
phiên tòa.
Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng phải được chủ toạ phiên toà hỏi xem họ
có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người
giám định, người phiên dịch hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử
xem xét và quyết định.
Điều
203. Giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, người giám định
Nếu
có người phiên dịch, người giám định tham gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa
giới thiệu họ tên, nghề nghiệp hoặc chức vụ của những người đó và giải thích rõ
những quyền và nghĩa vụ của họ. Những người này phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ.
Điều
204. Giải thích quyền, nghĩa vụ và cách ly người làm chứng
1.
Sau khi đã hỏi họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của từng người làm chứng,
chủ tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Người làm chứng
phải cam đoan không khai gian dối. Riêng người làm chứng chưa thành niên không
phải cam đoan.
2.
Trước khi người làm chứng được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định
những biện pháp để cho những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau
hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Trong trường hợp lời khai của bị
cáo và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết
định cách ly bị cáo với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.
Điều
205. Giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người
vắng mặt
Chủ
tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có
yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài
liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa
phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người
yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Trước
khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ
sung, nếu có.
1. Hội
đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của
vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
2.
Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau
đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những
người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về
những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có
liên quan đến việc giám định.
3.
Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án.
Điều
208. Công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra
1. Nếu
người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên
không được nhắc hoặc công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra trước khi họ
khai tại phiên tòa về những tình tiết của vụ án.
2.
Chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau
đây:
a) Lời
khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ tại
Cơ quan điều tra;
b)
Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa;
c)
Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.
1. Hội
đồng xét xử phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh
hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Trong
trường hợp này, bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị
cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó.
2. Bị
cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng
xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
3.
Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ
tội bị cáo. Người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bảo
vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên toà có quyền đề nghị với
chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
4. Nếu
bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem
xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
Người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó trình bày về những
tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi thêm về những
điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
1. Hội
đồng xét xử phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm
chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó.
2.
Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị
cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên toà yêu cầu người làm chứng
trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm
mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng.
3. Nếu
người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ tọa phiên toà có thể yêu cầu
cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.
4.
Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi
thêm.
1. Vật
chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên
tòa.
Khi
cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa
đến phiên tòa được. Việc xem xét tại chỗ phải được lập biên bản theo quy định tại
Điều 95 của Bộ luật này.
2.
Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền
trình bày những nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm
về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.
Nếu
xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa
và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc
những địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên toà có quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy
ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Hội
đồng xét xử có thể hỏi thêm những người tham gia phiên toà về những vấn đề có
liên quan đến những nơi đó.
Việc
xem xét tại chỗ phải được lập biên bản theo thủ tục chung quy định tại Điều 95
của Bộ luật này.
Điều
214. Việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của cơ
quan, tổ chức
Nhận
xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức về những tình tiết của vụ án do đại diện của
cơ quan, tổ chức đó trình bày; trong trường hợp không có đại diện của cơ quan,
tổ chức đó tham dự thì Hội đồng xét xử công bố nhận xét, báo cáo tại phiên tòa.
Các
tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án hoặc mới đưa ra khi xét hỏi đều phải được công
bố tại phiên tòa.
Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền
nhận xét về những tài liệu đó và hỏi thêm những vấn đề có liên quan.
1.
Người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định.
2. Tại
phiên tòa, người giám định có quyền giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám
định.
3. Nếu
người giám định vắng mặt, thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định.
4.
Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền
nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu
thuẫn trong kết luận giám định.
5.
Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám
định lại.
Khi
nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa
hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên
tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu có người yêu cầu và xét
thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét
hỏi.
Điều
217. Trình tự phát biểu khi tranh luận
1.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội,
đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận
về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định
truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Luận
tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra
tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
2. Bị
cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa
cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
3.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo
vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người
này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
Bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý
kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải
đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà
không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia
tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên
quan đến vụ án.
Chủ
tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên
quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những
ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Điều
219. Trở lại việc xét hỏi
Nếu
qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết
định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
Điều
220. Bị cáo nói lời sau cùng
Sau
khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa
tuyên bố kết thúc tranh luận.
Bị
cáo được nói lời sau cùng. Không được đặt câu hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng.
Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không
liên quan đến vụ án, nhưng không được hạn chế thời gian đối với bị cáo.
Nếu
trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng
đối với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
Điều
221. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
1.
Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2.
Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị
án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình
bày ý kiến về việc rút truy tố đó.
1.
Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét
xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số
về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có
quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
2.
Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét
xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều
này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị
cáo không có tội; nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm
đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
3.
Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên
toà.
4.
Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của
Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được tất cả các thành viên Hội đồng xét
xử ký tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
Điều
223. Trở lại việc xét hỏi và tranh luận
Qua
việc nghị án nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét
hỏi chưa đầy đủ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận.
1.
Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.
Trong bản án cần phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên toà; họ
tên của các thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Toà án; họ tên của Kiểm sát
viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ
văn hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ,
tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp
pháp của bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư
trú của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ.
3.
Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ
xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội
hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ
luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần
phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những
căn cứ xác định bị cáo không có tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự,
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định
của Toà án và quyền kháng cáo đối với bản án.
Điều
225. Kiến nghị sửa chữa những khuyết điểm trong công tác quản lý
1.
Cùng với việc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
những biện pháp cần thiết để khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh
tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày
nhận được kiến nghị của Tòa án, cơ quan, tổ chức đó phải thông báo bằng văn bản
cho Tòa án biết những biện pháp được áp dụng.
2.
Kiến nghị của Tòa án có thể được đọc tại phiên tòa cùng với bản án hoặc chỉ gửi
riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan.
Khi
tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một
thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải
thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.
Nếu
bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại
cho bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà bị cáo biết.
Điều
227. Trả tự do cho bị cáo
Trong
những trường hợp sau đây, Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại
phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm
khác:
1. Bị
cáo không có tội;
2. Bị
cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;
3. Bị
cáo bị xử phạt bằng các hình phạt không phải là hình phạt tù;
4. Bị
cáo bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo;
5.
Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam.
Điều
228. Bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án
1. Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời
hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm
việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227
của Bộ luật này.
2.
Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm
giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử
có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có
thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
3.
Thời hạn tạm giam bị cáo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là bốn mươi
lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
4. Đối
với bị cáo bị phạt tử hình thì Hội đồng xét xử quyết định trong bản án việc tiếp
tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
Trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án
cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho người bị xử
vắng mặt, cơ quan Công an cùng cấp; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc.
Trong
trường hợp xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều
187 của Bộ luật này thì trong thời hạn nêu trên bản án phải được niêm yết tại
trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng
của bị cáo.
Người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên
quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Toà án cấp
trích lục bản án hoặc bản sao bản án.
TÍNH
CHẤT CỦA XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ QUYỀN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
Điều
230. Tính chất của xét xử phúc thẩm
Xét
xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Điều
231. Những người có quyền kháng cáo
Bị
cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc
quyết định sơ thẩm.
Người
bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có
quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ.
Người
bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
Người
được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm
đã tuyên là họ không có tội.
Điều
232. Kháng nghị của Viện kiểm sát
Viện
kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những
bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Điều
233. Thủ tục kháng cáo và kháng nghị
1.
Người kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm.
Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị trại tạm giam phải bảo đảm
cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo.
Người
kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc
kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo đó theo quy định tại Điều
95 của Bộ luật này.
2.
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng
văn bản, có nêu rõ lý do. Kháng nghị được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm.
Điều
234. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
1.
Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương
sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao
cho họ hoặc được niêm yết.
Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.
2. Nếu
đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu
điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban
giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám
thị trại tạm giam nhận được đơn.
1.
Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.
2.
Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do
kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không
chấp nhận việc kháng cáo quá hạn.
Điều
236. Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị
1.
Việc kháng cáo, kháng nghị phải được Toà án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản
cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
2.
Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý
kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. ý kiến
của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều
237. Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị
1. Những
phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị
đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.
2.
Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa áp cấp
phúc thẩm trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Điều
238. Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị
1.
Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm
sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu
hơn tình trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.
2.
Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử
phúc thẩm phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Điều
239. Kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
1.
Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm
sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm
ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
2.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị
kháng cáo trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được
quyết định.
Điều
240. Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo,
kháng nghị
Bản
án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị
kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Điều
241. Phạm vi xét xử phúc thẩm
Tòa
án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết
thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng
nghị của bản án.
Điều
242. Thời hạn xét xử phúc thẩm
Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm
trong thời hạn sáu mươi ngày; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín mươi ngày, kể
từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Chậm
nhất là mười lăm ngày trước ngày mở phiên toà, Toà án cấp phúc thẩm phải thông
báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về
thời gian, địa điểm xét xử phúc thẩm vụ án.
Điều
243. Việc Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
1.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự
cấp quân khu, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao quyết định.
Thời
hạn tạm giam không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 của
Bộ luật này.
2. Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh
tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
3. Đối
với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn
tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc
thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ
luật này.
Đối
với bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị xử phạt tù thì Hội đồng xét xử có thể ra
quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, trừ các trường hợp quy định
tại Điều 261 của Bộ luật này.
Thời
hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Điều
244. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm
Hội
đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có
thêm hai Hội thẩm.
Điều
245. Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm
1. Tại
phiên tòa phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt
buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
2.
Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập
tham gia phiên tòa. Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng
xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định
không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Trong các trường hợp khác thì
phải hoãn phiên tòa.
Thời
hạn hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này hoặc tại các điều
45, 46, và 47 của Bộ luật này không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết
định hoãn phiên tòa.
3. Sự
tham gia phiên tòa của những người khác do Tòa án cấp phúc thẩm quyết định, nếu
xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết.
Điều
246. Bổ sung, xem xét chứng cứ tại Tòa án cấp phúc thẩm
1.
Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự
mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ
vật.
2.
Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại
phiên tòa. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới.
Điều
247. Thủ tục phiên toà phúc thẩm
Phiên
tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một
thành viên của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định
của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm
sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Điều
248. Bản án phúc thẩm và thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm
1.
Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản
án cần phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên tòa; họ tên của các
thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên,
ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa,
thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm
giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp
pháp của bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư
trú của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ.
Trong
bản án phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án, quyết
định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị và các căn cứ để đưa ra
một trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều này. Phần cuối cùng của bản
án ghi những quyết định của Toà án.
2.
Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
a)
Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
b) Sửa
bản án sơ thẩm;
c) Hủy
bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
d) Hủy
bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
3. Bản
án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1.
Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a)
Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
b)
áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c)
Giảm hình phạt cho bị cáo;
d)
Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
đ)
Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và
cho hưởng án treo.
2. Nếu
có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ
luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng
cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3.
Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu
thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình
sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện
kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa
án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ
hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù
và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.
Điều
250. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại
1.
Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều
tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
2.
Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành
phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau đây:
a)
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm
trọng khác về thủ tục tố tụng;
b)
Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng
người đó đã phạm tội.
3.
Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm phải
ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.
4.
Khi huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định trước
những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ,
cũng như không quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà
Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng.
5.
Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn
tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần
thiết, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho
đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được
chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục
chung.
Điều
251. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án
Khi
có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật
này thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội
và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5,
6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Điều
252. Điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án hình sự
Sau
khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại thì
Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại, Viện kiểm sát truy tố lại và Tòa án cấp
sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.
Điều
253. Phúc thẩm những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
1. Đối
với những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng nghị hoặc kháng cáo, Tòa
án cấp phúc thẩm không phải mở phiên toà, nhưng nếu xét cần thì có thể triệu tập
những người tham gia tố tụng cần thiết để nghe ý kiến của họ trước khi Tòa án
ra quyết định.
2.
Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định giải quyết việc kháng cáo hoặc kháng
nghị trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
3. Khi
xét những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp
phúc thẩm có những quyền hạn quy định tại Điều 248 của Bộ luật này.
4.
Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Điều
254. Việc giao bản án và quyết định phúc thẩm
Trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định, Tòa án cấp
phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho người kháng nghị, Tòa
án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người đã kháng cáo, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại
diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp
bản án phúc thẩm có tuyên hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự;
thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi
lăm ngày.
Người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án cấp
trích lục bản án hoặc bản sao bản án.
THI
HÀNH BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THI HÀNH BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Điều
255. Những bản án và quyết định được thi hành
1.
Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, bao gồm:
a)
Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
theo trình tự phúc thẩm;
b)
Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c)
Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2.
Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình
chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo,
hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi
thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết
định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo.
Điều
256. Thủ tục đưa ra thi hành bản án và quyết định của Toà án
1.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc
thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi
hành án hoặc ủy thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
2.
Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; tên cơ quan có
nhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư
trú của người bị kết án; bản án hoặc quyết định mà người bị kết án phải chấp
hành.
Trong
trường hợp người bị kết án đang tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải
ghi rõ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, người đó phải
có mặt tại cơ quan Công an để thi hành án.
3.
Quyết định thi hành án, trích lục bản án hoặc quyết định phải được gửi cho Viện
kiểm sát cùng cấp nơi thi hành án, cơ quan thi hành án và người bị kết án.
4.
Trong trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn, thì Chánh
án Toà án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu Cơ quan công an cùng cấp ra quyết
định truy nã.
Điều
257. Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Toà án
1.
Cơ quan Công an thi hành hình phạt trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và
tham gia Hội đồng thi hành hình phạt tử hình theo quy định tại Điều 259 của Bộ
luật này.
2.
Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư
trú hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi, giáo dục, giám sát việc cải tạo của những
người được hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ.
3.
Việc thi hành hình phạt quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định do chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án đảm nhiệm.
4.
Cơ sở chuyên khoa y tế thi hành quyết định về bắt buộc chữa bệnh.
5.
Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định
dân sự trong vụ án hình sự. Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên trong việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan
khác có nhiệm vụ phối hợp.
6.
Việc thi hành bản án và quyết định của Toà án quân sự do các tổ chức trong Quân
đội đảm nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.
7.
Các cơ quan thi hành án phải báo cho Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành
án về việc bản án hoặc quyết định đã được thi hành; nếu chưa thi hành được thì
phải nêu rõ lý do.
Điều
258. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành
1.
Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay
lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay lên Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong
thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định
kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được
gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.
2. Bản
án tử hình được thi hành, nếu Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Trong
trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định
không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình, thì Toà án nhân dân tối
cao phải thông báo ngay cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm án tử
hình.
Trong
trường hợp người bị kết án xin ân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình được
thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.
Điều
259. Thi hành hình phạt tử hình
1.
Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng
thi hành hình phạt tử hình gồm đại diện Tòa án, Viện kiểm sát và Công an. Hội đồng
thi hành án phải kiểm tra căn cước của người bị kết án trước khi thi hành án.
Trong
trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định thi hành án,
Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra các điều kiện không áp
dụng hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật
hình sự. Nếu có căn cứ người bị kết án có điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ
thẩm không ra quyết định thi hành án và báo cáo Chánh án Toà án nhân dân tối
cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị kết
án.
Trước
khi thi hành án đối với người bị kết án là phụ nữ thì Hội đồng thi hành án
ngoài việc kiểm tra căn cước, phải kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện
không thi hành án tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật
hình sự.
Trong
trường hợp Hội đồng thi hành án phát hiện người bị kết án có điều kiện quy định
tại Điều 35 của Bộ luật hình sự thì Hội đồng thi hành án
hoãn thi hành án và báo cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án để báo
cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù
chung thân cho người bị kết án.
2.
Trước khi thi hành án phải giao cho người bị kết án đọc quyết định thi hành án,
quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và quyết định
không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nếu người bị kết
án đã có đơn xin ân giảm án tử hình thì giao cho họ đọc bản sao quyết định của
Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.
3.
Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn.
4.
Việc thi hành hình phạt tử hình phải được lập biên bản ghi rõ việc đã giao các
quyết định cho người bị kết án xem, những lời nói của họ và những thư từ, đồ vật
mà họ gửi lại cho người thân thích.
5.
Trong trường hợp có tình tiết đặc biệt, Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và
báo cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
THI
HÀNH HÌNH PHẠT TÙ VÀ CÁC HÌNH PHẠT KHÁC
Điều
260. Thi hành hình phạt tù
1.
Trong trường hợp người bị kết án đang bị tạm giam thì theo yêu cầu của người
thân thích người bị kết án, cơ quan Công an phải cho phép người bị kết án gặp
người thân thích trước khi thi hành án.
Ban
giám thị trại giam phải thông báo cho gia đình người bị kết án biết nơi người
đó chấp hành hình phạt.
2.
Trong trường hợp người bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời hạn mà không có mặt
tại cơ quan Công an để chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị áp giải.
3.
Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải theo dõi việc thi hành án. Cơ
quan Công an phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án về việc bắt người bị kết án
để thi hành án hoặc lý do chưa bắt được và biện pháp cần áp dụng để bảo đảm việc
thi hành án.
4.
Trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi trại giam thì cơ
quan Công an ra quyết định truy nã.
Điều
261. Hoãn chấp hành hình phạt tù
1. Đối
với người bị xử phạt tù đang được tại ngoại, Chánh án Tòa án đã ra quyết định
thi hành án có thể tự mình hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát, cơ quan Công an
cùng cấp hoặc người bị kết án cho hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp
được quy định tại khoản 1 Điều 61 của Bộ luật hình sự.
2.
Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh
án Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và
phải gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu
lực pháp luật cho cơ quan Công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết thời
hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
Nếu
quá thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người
bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình phạt tù mà
không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải người bị kết án đi
chấp hành hình phạt tù.
Điều
262. Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
1.
Theo đề nghị của Viện kiểm sát hoặc của Ban giám thị trại giam nơi người bị kết
án đang chấp hành hình phạt tù:
a)
Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thể cho người
đó được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật hình sự;
b)
Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án có thể cho người đang chấp hành
hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp quy
định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 61 và Điều 62 của Bộ
luật hình sự.
Chậm
nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù,
Chánh án Toà án đã cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định
thi hành án đối với phần hình phạt còn lại và phải gửi ngay quyết định đó cho
cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ và người bị kết
án.
Nếu
quá thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình phạt
tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải người bị kết
án đi chấp hành hình phạt tù.
2.
Việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm phải do người đã kháng nghị hoặc do Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm quyết định.
Điều
263. Quản lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
1.
Người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được giao cho
chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm
việc quản lý. Họ không được tự ý đi nơi khác, nếu không được phép của chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức quản lý họ.
2. Nếu
trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà người bị kết
án có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ
trốn thì Chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hủy
bỏ quyết định đó và ra quyết định thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình phạt
tù. Quyết định thi hành án được gửi cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã
ra quyết định. Ngay sau khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan Công an
phải tổ chức bắt, áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
Điều
264. Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ
Người
bị phạt tù được hưởng án treo và người bị phạt cải tạo không giam giữ được giao
cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc
làm việc để giám sát, giáo dục.
Điều
265. Thi hành hình phạt trục xuất
Người
bị phạt trục xuất phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định thi
hành án. Trong trường hợp người bị phạt trục xuất phải chấp hành các hình phạt
khác hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ khác thì thời hạn họ rời khỏi lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do pháp luật quy định.
Điều
266. Thi hành hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú
Đối
với người bị phạt quản chế thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù, người bị kết
án được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú để thi hành
hình phạt quản chế. Người bị phạt cấm cư trú thì không được tạm trú, thường trú
ở những địa phương bị cấm cư trú.
Điều
267. Thi hành hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản
Quyết
định đưa bản án phạt tiền hoặc tịch thu tài sản ra thi hành phải được gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên, người bị kết án và chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi người bị kết án cư trú.
Việc
tịch thu tài sản được tiến hành theo quy định tại Điều 40 của Bộ
luật hình sự.
GIẢM
THỜI HẠN HOẶC MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
Điều
268. Điều kiện để được giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt
1.
Người đang chấp hành hình phạt tù, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú hoặc quản
chế có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điều 57, 58, 59 và 76 của Bộ luật hình sự; nếu họ chưa chấp
hành hình phạt thì có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo quy định tại
các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 57 của Bộ luật hình sự.
Người
đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có thể được miễn chấp hành hình
phạt còn lại theo quy định tại khoản 4 Điều 57 của Bộ luật hình
sự.
Người
đã chấp hành được một phần hình phạt tiền có thể được miễn chấp hành phần tiền
phạt còn lại theo quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều
76 của Bộ luật hình sự.
2.
Người bị phạt tù được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách
theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự.
Điều
269. Thủ tục giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt
1.
Tòa án có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành
hình phạt.
Tòa
án có thẩm quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Việc
giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử
thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự
khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách.
2. Hồ
sơ đề nghị xét miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, miễn chấp hành
toàn bộ hoặc phần hình phạt tù còn lại, miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại
phải có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.
Hồ
sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải có đề nghị của cơ quan
thi hành hình phạt tù.
Hồ
sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ phải có
đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao nhiệm vụ trực
tiếp giám sát, giáo dục.
Hồ
sơ đề nghị xét giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt khác hoặc rút ngắn thời gian
thử thách của án treo phải có đề nghị hoặc nhận xét của cơ quan, tổ chức có nhiệm
vụ thi hành án quy định tại Điều 257 của Bộ luật này.
3.
Khi Tòa án xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt, một thành viên của
Tòa án trình bày vấn đề cần được xem xét, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến,
Tòa án ra quyết định chấp nhận hoặc bác đề nghị giảm thời hạn, miễn chấp hành
hình phạt hoặc rút ngắn thời gian thử thách.
Điều
270. Đương nhiên xóa án tích
Theo
yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích quy định tại Điều
64 của Bộ luật hình sự, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng
nhận là họ đã được xóa án tích.
Điều
271. Xóa án tích do Toà án quyết định
1.
Trong những trường hợp quy định tại Điều 65 và Điều 66 của Bộ
luật hình sự, việc xóa án tích do Toà án quyết định. Người bị kết án phải
có đơn gửi Toà án đã xử sơ thẩm vụ án kèm theo nhận xét của chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc.
2.
Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm chuyển tài liệu về việc xin xoá án tích cho Viện
kiểm sát cùng cấp để phát biểu ý kiến bằng văn bản. Nếu xét thấy đủ điều kiện
thì Chánh án ra quyết định xóa án tích; trong trường hợp chưa đủ điều kiện thì
quyết định bác đơn xin xóa án tích.
XÉT
LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
Chương XXX
Điều
272. Tính chất của giám đốc thẩm
Giám
đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ
án.
Điều
273. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Bản
án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:
1.
Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ;
2. Kết
luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan
của vụ án;
3.
Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét
xử;
4.
Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.
Người
bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm
pháp luật trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và
thông báo cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật
này.
Trong
trường hợp phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông báo cho
người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này.
Điều
275. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
2.
Chánh án Tòa án quân sự trung ương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung
ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới.
3.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.
Điều
276. Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm
Những
người đã kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền
quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đó.
Quyết
định tạm đình chỉ thi hành bản án phải gửi cho Toà án, Viện kiểm sát nơi đã xử
sơ thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Điều
277. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1.
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho:
a)
Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng nghị;
b)
Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm;
c)
Người bị kết án và những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng nghị.
2. Nếu
không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì trước khi hết thời
hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 của Bộ luật này, người có quyền kháng nghị
phải trả lời cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc
không kháng nghị.
3.
Trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ sung
kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 của Bộ luật này
hoặc rút kháng nghị.
Điều
278. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1.
Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành
trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
2.
Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất
cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều
279. Thẩm quyền giám đốc thẩm
1. ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án
quân sự cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
2.
Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung
ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án quân sự cấp quân khu.
3. Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự, các
Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4.
Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự
thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp khác nhau được quy định tại các khoản
1, 2 và 3 của Điều này thì cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ
án.
Điều
280. Những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
Phiên
tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
Khi
xét thấy cần thiết, Tòa án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và có
thể triệu tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị
tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.
Điều
281. Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm
1. Hội
đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự
trung ương gồm ba Thẩm phán. Nếu Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ
ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao giám đốc thẩm thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của
Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tham gia xét xử.
Quyết
định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán phải được quá nửa
tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tán thành.
2. Tại
phiên tòa giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban
Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao khi biểu quyết về nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết theo trình tự những
ý kiến đồng ý với kháng nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu
không có loại ý kiến nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán,
Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành, thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn
ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Uỷ ban Thẩm phán, Hội
đồng Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án với sự tham gia của toàn thể
các thành viên.
Điều
282. Chuẩn bị phiên tòa và thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm
1.
Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên
tòa. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các
cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước cho
các thành viên Hội đồng chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa giám đốc
thẩm.
2. Tại
phiên tòa, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày bản thuyết trình
về vụ án. Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm phát biểu ý kiến và đại diện
Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Nếu
đã triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng nghị thì những người này được trình bày ý kiến trước khi đại
diện Viện kiểm sát phát biểu. Trong trường hợp họ vắng mặt thì Hội đồng giám đốc
thẩm vẫn có thể tiến hành xét xử.
Điều
283. Thời hạn giám đốc thẩm
Phiên
tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận
được kháng nghị.
Điều
284. Phạm vi giám đốc thẩm
Hội
đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội
dung của kháng nghị.
Điều
285. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
Hội
đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định :
1.
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật;
2. Hủy
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án ;
3. Hủy
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Điều
286. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án
Hội
đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình
chỉ vụ án, nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này.
Điều
287. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc
xét xử lại
Hội
đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại, nếu có một trong những căn cứ quy định tại
Điều 273 của Bộ luật này. Nếu cần xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám
đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm.
Trong
trường hợp hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc để xét
xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng
giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại
vụ án.
Điều
288. Hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm và việc giao quyết định giám đốc thẩm
1.
Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết
định.
2.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm phải
gửi quyết định giám đốc thẩm cho người bị kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện
kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành
án dân sự có thẩm quyền; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Điều
289. Điều tra lại, xét xử lại vụ án sau khi Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án
hoặc quyết định
Nếu
Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để điều tra lại, thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết
định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp để điều tra lại
theo thủ tục chung.
Nếu
Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để xét xử lại vụ án ở cấp sơ thẩm hoặc ở cấp phúc thẩm thì trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho
Tòa án có thẩm quyền để xét xử lại theo thủ tục chung.
Điều
290. Tính chất của tái thẩm
Thủ
tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi
cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản
án hoặc quyết định đó.
Điều
291. Những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Những
tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:
1. Lời
khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có
những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;
2.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm
cho vụ án bị xét xử sai;
3. Vật
chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu
khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
4.
Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.
Điều
292. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
1.
Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình
tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm
sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
2. Nếu
có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng
Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa
án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho
cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Điều
293. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
1.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2.
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án quân sự cấp dưới.
3.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
4. Bản
kháng nghị của những người quy định tại Điều này phải được gửi cho người bị kết
án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị.
Điều
294. Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã bị kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm
Những
người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án
hoặc quyết định bị kháng nghị.
Điều
295. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
1.
Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ
luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá một năm, kể từ ngày Viện
kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.
2.
Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian
và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan
cho họ.
3.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
1. ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án
quân sự cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án quân sự khu vực.
2.
Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái
thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp
quân khu.
3. Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao.
Điều
297. Việc tiến hành tái thẩm
Những
quy định tại các điều 280, 281, 282 và 283 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối
với việc tái thẩm.
Điều
298. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm
Hội
đồng tái thẩm có quyền ra quyết định:
1.
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật;
2. Hủy
bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại;
3.
Huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.
Điều
299. Hiệu lực của quyết định tái thẩm và việc giao quyết định tái thẩm
1.
Quyết định của Hội đồng tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng tái thẩm phải gửi
quyết định tái thẩm cho người bị kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm
sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Điều
300. Điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án
1. Nếu
Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để điều tra lại thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ
sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền để điều tra lại theo
thủ tục chung.
2. Nếu
Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để xét xử sơ thẩm lại vụ án thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết
định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có thẩm quyền để xét xử lại theo
thủ tục chung.
THỦ
TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Thủ
tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những
quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.
Điều
302. Điều tra, truy tố và xét xử
1.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa
thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người
chưa thành niên.
2.
Khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử cần phải xác định rõ:
a)
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người chưa thành niên;
b)
Điều kiện sinh sống và giáo dục;
c)
Có hay không có người thành niên xúi giục;
d)
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Điều
303. Bắt, tạm giữ, tạm giam
1.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ
căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng
chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng.
2.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ
căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng
chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3.
Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho
gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm
giam.
Điều
304. Việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội
1.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người chưa
thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự
có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến
hành tố tụng.
2.
Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa
thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó.
1.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.
2.
Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của
Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Điều
306. Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức
1. Đại
diện của gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện
của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ
tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
3. Tại
phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia
đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do
chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức.
Đại
diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức tham gia phiên toà
có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Toà án.
1.
Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong
trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định xét xử kín.
2.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo
thì Tòa án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự.
Điều
308. Chấp hành hình phạt tù
1.
Người chưa thành niên phạm tội chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam giữ
riêng do pháp luật quy định.
Không
được giam giữ chung người chưa thành niên với người thành niên.
2.
Người chưa thành niên bị kết án phải được học nghề hoặc học văn hóa trong thời
gian chấp hành hình phạt tù.
3. Nếu
người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải
chuyển người đó sang chế độ giam giữ người đã thành niên.
4. Đối
với người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, Ban giám thị trại
giam phải phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để
giúp người đó trở về sống bình thường trong xã hội.
Điều
309. Chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình
phạt
Người
chưa thành niên bị kết án có thể được chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư
pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 hoặc Điều 76 của Bộ luật hình sự.
Việc
xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ điều kiện quy định
tại Điều 77 của Bộ luật hình sự được tiến hành theo thủ tục
chung.
THỦ
TỤC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
Điều
311. Điều kiện và thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1.
Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có
năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 của Bộ
luật hình sự thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án phải trưng cầu giám định pháp y.
1. Đối
với vụ án có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 311 của Bộ luật này, Cơ quan điều
tra phải làm sáng tỏ:
a)
Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra;
b)
Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội;
c)
Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển
hành vi của mình hay không.
2.
Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra phải bảo đảm có người bào chữa tham gia
tố tụng từ khi xác định là người có hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm
thần. Đại diện hợp pháp của người đó có thể tham gia tố tụng trong trường hợp cần
thiết.
Điều
313. Quyết định của Viện kiểm sát sau khi kết thúc điều tra
Sau
khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có thể ra một
trong những quyết định sau đây:
1. Tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án;
2.
Đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
3.
Truy tố bị can trước Tòa án.
1.
Tòa án có thể ra một trong những quyết định sau đây:
a)
Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh;
b)
Đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
c) Tạm
đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
d)
Trả hồ sơ để điều tra lại hoặc điều tra bổ sung.
2.
Ngoài quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, Tòa án có thể giải quyết
vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vấn đề khác liên quan đến vụ án.
Điều
315. Áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người chấp hành hình phạt tù
Trong
trường hợp có căn cứ để cho rằng người đang chấp hành hình phạt tù mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Chánh án
Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị
kết án chấp hành hình phạt phải trưng cầu giám định pháp y.
Căn
cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh
hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt
có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh.
Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu không có lý
do để miễn chấp hành hình phạt.
Điều
316. Khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo
1.
Khi quyết định của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh bị
khiếu nại thì vụ án phải được đưa ra xét xử sơ thẩm ở Tòa án cùng cấp.
2.
Việc kháng nghị hoặc kháng cáo đối với quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm.
3.
Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Tòa án vẫn có hiệu lực thi
hành mặc dù có khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo.
Điều
317. Thực hiện, đình chỉ thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1.
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được thực hiện ở một cơ sở chuyên khoa y tế do Viện
kiểm sát hoặc Tòa án chỉ định.
Điều
318. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ
tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo
quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này
không trái với những quy định của Chương này.
Điều
319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ
tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1.
Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang;
2. Sự
việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
3. Tội
phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
4.
Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Điều
320. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
1.
Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có
đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra
quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
2.
Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định
áp dụng thủ tục rút gọn.
3.
Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời
hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi
đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải
quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
1.
Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết định
khởi tố vụ án.
2.
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà
ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.
Điều
322. Tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố
1.
Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định của
Bộ luật này.
2.
Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt.
3.
Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày.
Điều
323. Quyết định việc truy tố
1.
Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải
ra một trong những quyết định sau đây:
a)
Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Tạm
đình chỉ vụ án;
d)
Đình chỉ vụ án.
2.
Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định
tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm sát phải ra quyết định
huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục
chung.
1.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây:
a)
Đưa vụ án ra xét xử;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Tạm
đình chỉ vụ án;
d)
Đình chỉ vụ án.
2.
Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1
Điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở
phiên toà xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.
3.
Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định
tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm
sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
4.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo
đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày.
5.
Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm
theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung.
KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều
325. Người có quyền khiếu nại
Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định,
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Việc
kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, khiếu
nại đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không giải quyết
theo quy định tại Chương này mà được giải quyết theo quy định tại các chương
XXIII, XXIV, XXX và XXXI của Bộ luật này.
Điều
326. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại
1.
Người khiếu nại có quyền:
a) Tự
mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại;
b)
Khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hình sự;
c)
Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại;
d)
Được nhận văn bản trả lời về việc giải quyết khiếu nại;
đ)
Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật.
2.
Người khiếu nại có nghĩa vụ:
a)
Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết
khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung
cấp các thông tin, tài liệu đó;
b)
Chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại.
Điều
327. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại
1.
Người bị khiếu nại có quyền:
a)
Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu nại;
b)
Được nhận văn bản giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của mình.
2.
Người bị khiếu nại có nghĩa vụ:
a)
Giải trình về quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu nại, cung cấp các thông tin,
tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b)
Chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại;
c) Bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật
của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Thời
hiệu khiếu nại là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định,
hành vi tố tụng mà người khiếu nại cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trong
trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc
vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền
khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời
hiệu khiếu nại.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người
khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải
quyết. Viện kiểm sát cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định
tố tụng của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát
cùng cấp giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu
nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải
xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết
cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Phó Chánh án trước khi mở phiên
toà do Chánh án Toà án giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền
khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết.
Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Toà án trước khi mở phiên tòa do
Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối
cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số
hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố giải quyết trong thời
hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm
quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định tố tụng đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát đã phê
chuẩn quyết định đó giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền
khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều
333. Thời hạn giải quyết khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam
Khiếu
nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện
kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp cần phải có thời gian để
xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá ba ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có
quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều
334. Người có quyền tố cáo
Công
dân có quyền tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp
luật của bất kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức.
Điều
335. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo
1.
Người tố cáo có quyền:
a) Gửi
đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
b)
Yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c)
Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d)
Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập,
trả thù.
2.
Người tố cáo có nghĩa vụ:
a)
Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b)
Nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình;
c)
Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Điều
336. Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo
1.
Người bị tố cáo có quyền:
a)
Được thông báo về nội dung tố cáo;
b)
Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c)
Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được
bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d)
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2.
Người bị tố cáo có nghĩa vụ:
a)
Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b)
Chấp hành kết quả xử lý tố cáo của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Điều
337. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo
1. Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào thì người đứng đầu cơ quan đó có
trách nhiệm giải quyết.
Trong
trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm
sát, Chánh án Toà án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp trên trực
tiếp có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi tố tụng của những người có thẩm
quyền tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố
xem xét, giải quyết.
Thời
hạn giải quyết tố cáo không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc
phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín
mươi ngày.
2. Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì được giải quyết theo quy
định tại Điều 103 của Bộ luật này.
3. Tố
cáo liên quan đến hành vi bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát xem
xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp phải xác minh thêm thì thời hạn không
quá ba ngày.
Điều
338. Trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
Cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo và thông
báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết; xử lý
nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại
có thể xảy ra; bảo đảm kết quả giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình.
Người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm
trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
1.
Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới, Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra:
a)
Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương này;
b)
Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới; thông báo
kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát;
c)
Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện
kiểm sát.
2.
Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan
điều tra, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển
và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra.
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều
340. Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự
Hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ quan có thẩm
quyền tương ứng của nước ngoài được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.
Hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành phù hợp với các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và
quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong
trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập
các điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc
tế.
Điều
341. Thực hiện tương trợ tư pháp
Khi
thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng
những quy định của điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của Bộ luật này.
Điều
342. Từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp
Các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thể từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp trong hoạt động tố tụng
hình sự, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1.
Yêu cầu tương trợ tư pháp không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và pháp luật của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
2.
Việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp gây phương hại đến chủ quyền, an ninh
quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
DẪN
ĐỘ VÀ CHUYỂN GIAO HỒ SƠ, TÀI LIỆU, VẬT CHỨNG CỦA VỤ ÁN
Điều
343. Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án
Căn
cứ vào các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết
hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể:
1.
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài dẫn độ một người có hành
vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp
hành hình phạt;
2.
Thực hiện việc dẫn độ người nước ngoài có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình
sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật đang ở trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam cho quốc gia yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để
chấp hành hình phạt.
1.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam từ chối dẫn độ, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a)
Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b)
Theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người bị
yêu cầu dẫn độ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt
do đã hết thời hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác;
c)
Người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Toà án nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về
hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo
quy định của Bộ luật này;
d)
Người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam vì lý do có khả năng bị
truy bức ở quốc gia yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, tôn giáo,
quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị.
2.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thể từ chối dẫn độ, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a)
Theo pháp luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hành vi
mà người bị yêu cầu dẫn độ thực hiện không phải là tội phạm;
b)
Người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam về hành
vi được nêu trong yêu cầu dẫn độ.
3.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam từ chối dẫn độ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có trách nhiệm
thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài đã gửi yêu cầu dẫn
độ biết.
Điều
345. Việc chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án
1. Đối
với vụ án có người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nếu việc tiến hành tố tụng không thể thực hiện được vì người đó
đã ra nước ngoài thì cơ quan có thẩm quyền tố tụng đang thụ lý vụ án có thể
chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao để làm thủ tục chuyển
giao cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài.
2.
Khi chuyển giao hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài,
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thể chuyển giao cả vật chứng của vụ án.
Điều
346. Việc giao nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật, tiền liên quan đến vụ án
1.
Việc giao nhận tài liệu liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và
theo quy định của Bộ luật này.
2.
Việc chuyển giao đồ vật, tiền liên quan đến vụ án ra ngoài lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ
luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp
thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét