Chương II
1. Việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2017) và Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 01/2017 (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2021).
2. Cơ quan điều tra có thẩm quyền sau khi thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì thông báo ngay cho cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi cư trú hoặc nơi xảy ra vụ việc xâm hại tình dục biết để phối hợp thực hiện ngay các hoạt động hỗ trợ, bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục theo quy định của pháp luật.
1. Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều 5, Điều 6 Thông tư số 43/2021/TT-BCA ngày 22/4/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện một số trình tự, thủ tục tố tụng hình sự thân thiện trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi; Thông tư liên tịch số 01/2017 và Thông tư liên tịch số 01/2021.
2. Đồn Biên phòng, Trạm kiểm soát Biên phòng ở khu vực biên giới đất liền, bờ biển, hải đảo khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định Thông tư liên tịch số 01/2017 và Thông tư liên tịch số 01/2021.
Trường hợp cần giải cứu, bảo vệ người Việt Nam dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục ở khu vực biên giới đất liền, hải đảo thì Đồn Biên phòng, Trạm kiểm soát Biên phòng ở khu vực biên giới đất liền, bờ biển, hải đảo có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của nước có chung đường biên giới để giải cứu, bảo vệ họ; đồng thời báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền và tiếp tục phối hợp, hỗ trợ trong quá trình giải quyết tiếp theo.
1. Cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội các cấp, Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111) khi nhận thông tin, thông báo, tố giác về việc người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục thì thực hiện theo quy trình được quy định tại Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em.
2. Trường hợp có các thông tin, tài liệu phản ánh về việc người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục trên địa bàn thì cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản kiến nghị khởi tố và tài liệu kèm theo gửi đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền, đồng thời thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền biết. Cơ quan điều tra có thẩm quyền có trách nhiệm thụ lý và giải quyết kiến nghị khởi tố, thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội biết theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Các cơ quan, tổ chức khác ngay sau khi phát hiện, tiếp nhận thông tin, thông báo, tố giác về hành vi xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi phải chuyển ngay cho Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an hoặc Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Các cơ sở y tế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, khi tiếp nhận, khám chữa bệnh nếu phát hiện bệnh nhân là người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bị xâm hại tình dục thì ưu tiên điều trị thương tích, kiểm tra, ghi nhận, thu thập, bảo quản các dấu vết trên cơ thể người bị xâm hại đồng thời thông báo và phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khám, chữa bệnh.
Điều 10. Phân loại, kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Việc phối hợp trong phân loại, kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về hành vi xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2017 và Thông tư liên tịch số 01/2021.
2. Việc kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ phải khẩn trương đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở khám chữa bệnh, các cơ quan có chức năng và tổ chức xã hội khác khám, điều trị, hỗ trợ cho người bị xâm hại dưới 18 tuổi. Các cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, giám định và cơ quan chức năng khác có trách nhiệm kịp thời hỗ trợ Cơ quan điều tra có thẩm quyền, Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
3. Chậm nhất 07 ngày trước khi kết thúc việc kiểm tra, xác minh hoặc hết thời hạn kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Điều tra viên chủ động trao đổi với Kiểm sát viên rà soát đánh giá toàn bộ các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được, việc phối hợp đánh giá chứng cứ được thể hiện bằng văn bản. Nếu thấy cần bổ sung chứng cứ thì Kiểm sát viên yêu cầu bổ sung kịp thời. Nếu thấy các chứng cứ còn mâu thuẫn chưa được làm rõ thì Điều tra viên tiếp tục thu thập bổ sung các chứng cứ. Trường hợp việc đánh giá chứng cứ khó khăn thì Điều tra viên và Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo hai cơ quan để đánh giá các chứng cứ đã thu thập được, bảo đảm việc kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về hành vi xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi có căn cứ, đúng thời hạn luật định.
1. Việc xác định tuổi của người bị xâm hại tình dục, người bị buộc tội dưới 18 tuổi được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 417 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018.
Việc xác định tuổi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tương ứng tại khoản 1, khoản 2 Điều 417 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018.
2. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện cung cấp cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền các giấy tờ, tài liệu theo quy định của Thông tư liên tịch số 06/2018 để xác định độ tuổi của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị buộc tội và người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi.
Điều 12. Phối hợp trong khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể
1. Việc phối hợp trong khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi được thực hiện như sau:
a) Trình tự, thủ tục khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi được thực hiện theo quy định tại Điều 201 và Điều 202 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
b) Trước khi khám nghiệm, Điều tra viên chủ trì cung cấp thông tin liên quan đến nội dung cần khám nghiệm cho Kiểm sát viên biết để thực hiện việc kiểm sát. Điều tra viên chủ động trao đổi với Kiểm sát viên, Giám định viên, người có chuyên môn khi phát hiện, ghi nhận, thu giữ, bảo quản các dấu vết, vật chứng, tài liệu tại hiện trường, tử thi trong khi khám nghiệm để bảo đảm việc khám nghiệm tuân thủ đúng quy định của pháp luật;
c) Kiểm sát viên chủ động trao đổi với Điều tra viên về những nội dung phát hiện, ghi nhận, thu giữ, bảo quản các dấu vết, vật chứng, tài liệu tại hiện trường, tử thi. Trường hợp không thống nhất được các nội dung cần thu thập chứng cứ thì Kiểm sát viên, Điều tra viên phải báo cáo lãnh đạo hai cơ quan để kịp thời xử lý theo quy định.
2. Việc phối hợp xem xét dấu vết trên thân thể người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng hình sự và bảo đảm hạn chế tối đa phải thực hiện nhiều lần đối với người bị xâm hại dưới 18 tuổi.
Quá trình xem xét dấu vết trên thân thể, thực hiện việc giám định phải ghi nhận đầy đủ trong biên bản ghi nhận dấu vết trên thân thể, đánh dấu vị trí thương tích, chụp ảnh dấu vết thương tích. Nếu nhận thấy người bị xâm hại có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý thì mời và phối hợp với cha, mẹ, người thân trong gia đình, chuyên gia tâm lý, người đang có trách nhiệm quản lý, chăm sóc, giáo dục người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục hoặc cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên cùng cấp nơi phát hiện người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục tham gia hỗ trợ.
Điều 13. Phối hợp trong việc trưng cầu giám định
1. Cơ quan điều tra có trách nhiệm như sau:
a) Kịp thời ban hành quyết định trưng cầu giám định khi có căn cứ cho rằng người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục; cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu có liên quan cho Giám định viên. Trường hợp người có hành vi phạm tội bị bắt quả tang, dấu vết rõ ràng, Cơ quan điều tra có thẩm quyền có thể mời tổ chức giám định phân công Giám định viên tham gia trực tiếp để kiểm tra dấu vết thân thể, thu mẫu giám định người bị bắt, người bị xâm hại tình dục;
b) Phối hợp với Viện kiểm sát thuyết phục nếu người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi và gia đình từ chối giám định, trường hợp họ vẫn từ chối mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì ra quyết định dẫn giải và thông báo cho Viện kiểm sát biết;
c) Trước khi ra quyết định trưng cầu giám định có thể trao đổi với cơ quan, tổ chức, cá nhân dự kiến được trưng cầu giám định những vấn đề cần trưng cầu giám định, thực hiện giám định;
d) Gửi quyết định trưng cầu giám định và kết luận giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 205 và khoản 2 Điều 213 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
đ) Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện quyết định trưng cầu giám định;
e) Yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện giám định giải thích cụ thể về kết quả giám định trong trường hợp kết luận giám định chưa rõ ràng.
2. Giám định viên, tổ chức được trưng cầu giám định có trách nhiệm như sau:
a) Giám định và ban hành kết luận giám định trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không thể tiến hành trong thời hạn thì kịp thời thông báo bằng văn bản để cơ quan trưng cầu giám định biết, nêu rõ lý do, thời gian dự kiến ban hành kết luận giám định;
b) Gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu giám định trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 213 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
c) Kịp thời có mặt để thực hiện kiểm tra dấu vết, thu mẫu giám định trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; trường hợp không thể có mặt thì phải thông báo ngay và nêu rõ lý do cho Điều tra viên biết;
d) Khi tiến hành giám định, nếu thấy nội dung yêu cầu giám định chưa rõ ràng thì yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định giải thích và bổ sung tài liệu. Khi cơ quan trưng cầu đề nghị, Giám định viên kịp thời giải thích cụ thể các vấn đề trong kết luận giám định.
3. Viện kiểm sát có trách nhiệm như sau:
a) Phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra xác định các nội dung yêu cầu cần trưng cầu giám định để làm rõ hành vi xâm hại tình dục; đánh giá kết luận giám định, yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện giám định giải thích rõ nội dung kết luận giám định theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp Viện kiểm sát trưng cầu giám định thì Viện kiểm sát thực hiện theo quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.
4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm như sau:
a) Cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan đang có trách nhiệm quản lý, chăm sóc, giáo dục người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, Hội liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên và chính quyền địa phương có trách nhiệm tạo điều kiện cử đại diện tham gia phối hợp trong hoạt động giám định khi có yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
b) Khi có yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp hồ sơ, lý lịch và các tài liệu cần thiết khác cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định để hỗ trợ hoạt động giám định.
Điều 14. Phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi
1. Việc lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại Điều 188, Điều 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018.
Trường hợp người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý, Điều tra viên có thể mời thêm người thân trong gia đình, đại diện nhà trường, chuyên gia tâm lý, đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc các tổ chức, cá nhân khác tham gia khi lấy lời khai để phối hợp hỗ trợ ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục. Người được mời tham gia có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Điều tra viên ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục và phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc lấy lời khai.
2. Hoạt động lấy lời khai người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 183, 186, 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 và quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.
3. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lấy lời khai, hỏi cung của Điều tra viên; nếu thấy lời khai chưa rõ, còn mâu thuẫn, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung bổ sung; nếu phát hiện có vi phạm trong việc lấy lời khai, hỏi cung thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục ngay. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên. Nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung. Điều tra viên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung theo quy định pháp luật. Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.
Điều 15. Phối hợp trong hoạt động nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói
1. Việc nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói được thực hiện theo quy định tại các điều 190, 191, 204 và 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành, Điều tra viên báo cho Kiểm sát viên biết thời gian, địa điểm nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát. Điều tra viên và Kiểm sát viên phối hợp kiểm tra, đánh giá kết quả nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói để đề ra các yêu cầu điều tra tiếp theo. Trường hợp vì lý do khách quan không có mặt để kiểm sát trực tiếp thì Kiểm sát viên báo cho Điều tra viên trước khi tiến hành 02 giờ.
2. Trước khi tổ chức nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên trao đổi thống nhất các nội dung, biện pháp thực hiện. Việc thực nghiệm điều tra chỉ được tiến hành trong trường hợp nếu không thực hiện thì không giải quyết được vụ án và chỉ sử dụng biện pháp phù hợp (như dùng mô hình cơ thể người bị hại) để tiến hành thực nghiệm điều tra. Đối với trường hợp có khó khăn trong thu thập dấu vết hoặc chưa thu thập được dấu vết hoặc không xác định được hiện trường nơi xảy ra vụ việc thì Điều tra viên chủ động phối hợp với Kiểm sát viên tiến hành hoạt động theo quy định của pháp luật để dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống để kiểm tra, xác minh tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.
3. Trường hợp cần thiết hoặc theo yêu cầu của người bị hại, bị can hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi, người bào chữa, có thể mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Nhà trường, chuyên gia tâm lý hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia. Những người được mời có trách nhiệm tham gia và phối hợp với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi, người bào chữa để hỗ trợ, ổn định tâm lý cho người dưới 18 tuổi trong suốt quá trình nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói.
Điều 16. Đề ra yêu cầu điều tra và thực hiện yêu cầu điều tra
Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp hỗ trợ Điều tra viên điều tra thu thập chứng cứ chứng minh sự thật vụ án, chủ động đề ra yêu cầu điều tra. Nội dung yêu cầu điều tra phải rõ ràng, cụ thể, thực chất và đầy đủ, bảo đảm việc điều tra vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Điều tra viên phải thực hiện đầy đủ các nội dung của yêu cầu điều tra, chủ động trao đổi với Kiểm sát viên về những nội dung cần điều tra. Trường hợp việc thu thập chứng cứ khó khăn thì Điều tra viên và Kiểm sát viên phối hợp đánh giá để thống nhất những vấn đề cần điều tra, nếu vẫn không thống nhất được thì báo cáo lãnh đạo hai cơ quan để chỉ đạo giải quyết.
Chậm nhất 20 ngày trước khi kết thúc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp để đánh giá toàn bộ chứng cứ, các tài liệu và thủ tục tố tụng của vụ án theo quy định tại Điều 31 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 04/2018).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét