CÔNG ƯỚC BERNE
VỀ BẢO HỘ
CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ NGHỆ THUẬT
(Đạo
luật Paris, ngày 24 tháng 07 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 09 năm 1979)
(Văn
kiện này do Cục Bản quyền tác giả văn học-nghệ thuật, Bộ VHTT cung cấp)
Các
nước tham gia Liên hiệp cùng xuất phát từ lòng mong muốn bảo hộ theo một phương
thức hữu hiệu và nhất quán các quyền lợi của các tác giả đối với tác phẩm văn
học và nghệ thuật của họ,
Công
nhận tầm quan trọng về kết quả của Hội nghị xem xét lại văn bản họp ở Stockholm
năm 1967,
Quyết
định sửa đổi Đạo Luật đã được Hội nghị Stockholm thông qua, đồng thời vẫn giữ
nguyên vẹn các Điều từ 1 đến 20 và từ 22 đến 26 của Đạo Luật đó.
Do
vậy, những đại biểu toàn quyền ký tên dưới đây, sau khi xuất trình thư uỷ nhiệm
toàn quyền của mình và được công nhận là hợp lệ, đã thoả thuận những điều sau
đây:
Các
nước áp dụng Công ước này hợp thành một Liên hiệp để bảo hộ các quyền của tác
giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ.
1.
Thuật ngữ "Các tác phẩm văn học và nghệ thuật" bao gồm tất cả các sản
phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo
phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản
viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng
loại; các tác phẩm kịch, hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các
bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh trong đó có các tác phẩm
tương đồng được thể hiện bằng một quy trình tương tự quy trình điện ảnh, các
tác phẩm đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, bản khắc, thạch bản; các tác
phẩm nhiếp ảnh trong đó có các tác phẩm tương đồng được thể hiện bằng một quy
trình tương tự quy trình nhiếp ảnh; các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, minh họa,
địa đồ, đồ án, bản phác họa và các tác phẩm thể hiện không gian ba chiều liên
quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học.
2.
Tuy nhiên, luật pháp Quốc gia thành viên của Liên hiệp có thẩm quyền quyết định
không bảo hộ các tác phẩm nói chung hoặc những thể loại cụ thể nào đó, trừ phi
các tác phẩm ấy đã được ấn định bằng một hình thái vật chất.
3.
Các tác phẩm dịch, mô phỏng, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác từ một tác
phẩm văn học nghệ thuật đều được bảo hộ như các tác phẩm gốc mà không phương
hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc.
4.
Luật pháp Quốc gia là thành viên Liên hiệp có thẩm quyền, quy định việc bảo hộ
đối với các văn bản chính thức của Nhà nước về lập pháp, hành pháp hay tư pháp
cũng như các bản dịch chính thức của các văn kiện đó.
5.
Các tuyển tập các tác phẩm văn học nghệ thuật, chẳng hạn như các bộ bách khoa
từ điển và các hợp tuyển, nhờ phương pháp chọn lọc và kết cấu tư liệu mà tạo
thành một sáng tạo trí tuệ, cũng được bảo hộ như một tác phẩm mà không phương
hại đến quyền tác giả của các tác phẩm tạo nên các hợp tuyển này.
6.
Các tác phẩm nói trong Điều 2 này được hưởng sự bảo hộ ở tất cả các nước thành
viên của Liên hiệp. Sự bảo hộ này dành cho tác giả và những người sở hữu quyền
tác giả.
7.
Luật pháp Quốc gia là thành viên của Liên hiệp có quyền quy định lĩnh vực áp
dụng luật đối với các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, thiết kế công nghiệp và các
mô hình công nghiệp; quyết định những điều kiện để các tác phẩm này được bảo
hộ, miễn là phải phù hợp với Điều 7(4) của Công ước này. Những tác phẩm nào chỉ
được bảo hộ như một thiết kế và mô hình công nghiệp ở Quốc gia gốc, thì cũng
chỉ được hưởng quyền bảo hộ đặc biệt dành cho loại đó ở một Quốc gia khác trong
Liên hiệp. Tuy nhiên, nếu Quốc gia này không có sự bảo hộ đặc biệt nói trên,
thì các tác phẩm ấy sẽ được bảo hộ như những tác phẩm nghệ thuật khác.
8.
Việc bảo hộ theo Công ước này không áp dụng cho những tin tức thời sự hay sự
kiện, số liệu vụn vặt chỉ mang tính chất thông tin báo chí.
1.
Luật pháp Quốc gia là thành viên của Liên hiệp có thẩm quyền miễn trừ toàn phần
hoặc bộ phận sự bảo hộ được quy định tại Điều trên đối với các bài diễn văn
chính trị hay những bài phát biểu trong những buổi tranh luận về tư pháp.
2.
Luật pháp Quốc gia là thành viên Liên hiệp cũng có quyền quy định những điều
kiện để những bài diễn văn, thuyết trình và những tác phẩm cùng loại đã trình
bày trước công chúng, được đăng lên báo, phát thanh, phổ biến đến quần chúng
bằng đường dây hay bằng thông tin đại chúng theo Điều 11bis(1) của Công ước này, miễn là sự sử dụng ấy thực sự nhằm mục
đích thông tin.
3.
Tuy nhiên, tác giả có quyền làm bộ sưu tập các tác phẩm đã nói ở những khoản
trên đây.
1.
Công ước này bảo hộ:
a.
Tác phẩm của các tác giả là công dân của một trong những nước là thành viên của
Liên hiệp dù những các tác phẩm của họ đã công bố hay chưa;
b.
Tác phẩm của các tác giả không phải là công dân của một trong những nước là
thành viên của Liên hiệp mà công bố lần đầu tiên ở một trong những nước thành
viên của Liên hiệp, hay đồng thời công bố ở một nước trong và một nước ngoài
Liên hiệp.
2.
Các tác giả không phải là công dân của một nước thành viên Liên hiệp nhưng có
nơi cư trú thường xuyên ở một trong những nước trên, theo mục đích của Công
ước, cũng được coi như là tác giả công dân của nước thành viên đó.
3.
"Tác phẩm đã công bố" là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng
ý của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là các bản
đó đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Không
được coi là công bố: trình diễn một tác phẩm sân khấu, nhạc kịch hay hoà tấu,
trình chiếu tác phẩm điện ảnh, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát
thanh hay truyền hình một tác phẩm văn học hay nghệ thuật, triển lãm một tác
phẩm nghệ thuật hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc.
4.
Được xem là công bố đồng thời ở nhiều nước: những tác phẩm được công bố ở hai
hay nhiều nước trong thời gian 30 ngày kể từ lần công bố đầu tiên.
(Tiêu chuẩn
bảo hộ đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm kiến trúc và một số tác phẩm
nghệ thuật)
Được
Công ước này bảo hộ mặc dù không đáp ứng được những điều kiện nêu ở Điều 3:
a.
Các tác phẩm của tác giả điện ảnh mà nhà sản xuất có trụ sở hay thường trú ở
một trong những nước thành viên của Liên hiệp;
b.
Các tác giả của tác phẩm kiến trúc được xây dựng tại một nước thuộc Liên hiệp
hoặc những tác phẩm tạo hình gắn liền với một tòa nhà được xây dựng tại một
nước thuộc Liên hiệp.
(Đảm bảo
quyền: 1 và 2. Bên ngoài quốc gia gốc; 3. Tại quốc gia gốc; 4."Quốc
gia gốc")
1.
Đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các tác giả được hưởng quyền
tác giả ở các nước Liên hiệp không phải là Quốc gia gốc của tác phẩm, những
quyền do luật của nước đó dành cho công dân của mình trong hiện tại và trong
tương lai cũng như những quyền mà Công ước này đặc biệt quy định.
2.
Việc hưởng và thực hiện các quyền này không lệ thuộc vào một thể thức, thủ tục
nào; việc hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập không tùy thuộc vào việc tác
phẩm có được bảo hộ hay không ở Quốc gia gốc của tác phẩm. Do đó, ngoài những
quy định của Công ước này, mức độ bảo hộ cũng như các biện pháp khiếu nại dành
cho tác giả trong việc bảo hộ quyền của mình sẽ hoàn toàn do quy định của Luật
pháp của nước công bố bảo hộ tác phẩm đó.
3.
Việc bảo hộ tại Quốc gia gốc do Luật pháp của Quốc gia đó quy định. Tuy nhiên,
khi tác giả không phải là công dân của Quốc gia gốc của tác phẩm được Công ước
này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng tại Quốc gia này những quyền như các tác
giả là công dân của nước đó.
4.
Những nước được coi là Quốc gia gốc:
a)
Quốc gia thành viên Liên hiệp, nơi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Tuy
nhiên, nếu là tác phẩm được công bố đồng thời ở nhiều nước thành viên Liên hiệp
có thời hạn bảo hộ khác nhau thì Quốc gia gốc của tác phẩm là Quốc gia có thời
hạn bảo hộ ngắn nhất;
b)
Nếu các tác phẩm cùng công bố đồng thời ở một Quốc gia Liên hiệp và một Quốc
gia ngoài Liên hiệp thì Quốc gia thành viên Liên hiệp là Quốc gia gốc;
c)
Nếu tác phẩm chưa công bố hay đã công bố lần đầu tiên ở một nước ngoài Liên
hiệp mà không đồng thời công bố ở một nước nào thuộc Liên hiệp thì Quốc gia gốc
là quốc gia thành viên Liên hiệp mà tác giả là công dân, với điều kiện là:
i)
Nếu là một tác phẩm điện ảnh mà nhà sản xuất có trụ sở hay nơi thường trú trong
một nước thuộc Liên hiệp thì nước đó sẽ là nước gốc của tác phẩm,
ii)
Nếu là một tác phẩm kiến trúc được dựng lên tại một nước thuộc Liên hiệp hay
những tác phẩm hội họa hoặc tạo hình gắn liền với một tòa nhà hoặc cấu trúc đặt
tại một nước thuộc Liên hiệp thì nước này sẽ là nước gốc của tác phẩm.
1.
Khi một nước ngoài Liên hiệp không bảo hộ đúng mức những tác phẩm của các tác
giả là công dân của một nước thuộc Liên hiệp thì nước thành viên này có thể hạn
chế sự bảo hộ các tác phẩm ngay khi công bố lần đầu tiên của tác giả là công
dân của nước ngoài Liên hiệp đó và không phải là người thường trú ở một nước
nào thuộc Liên hiệp. Nếu Quốc gia nơi tác phẩm được công bố lần đầu tiên áp
dụng biện pháp này, các nước khác trong Liên hiệp không bắt buộc phải dành cho
những tác phẩm bị đối xử đặc biệt như thế một sự bảo hộ rộng rãi hơn sự bảo hộ
của Quốc gia nơi công bố lần tiên.
2.
Những hạn chế quy định ở khoản trên đây không được ảnh hưởng đến các quyền mà
một tác giả được hưởng đối với tác phẩm đã công bố trong một nước thuộc Liên
hiệp trước khi sự hạn chế này có hiệu lực.
3.
Những nước thành viên Liên Hiệp nếu muốn áp dụng Điều khoản này để hạn chế các
quyền của tác giả sẽ thông báo điều đó cho Tổng Giám đốc Tổ chức Trí tuệ thế
giới (sau đây gọi tắt là Tổng Giám đốc) bằng một văn bản trong đó nêu rõ tên
những nước bị hạn chế quyền bảo hộ và những loại quyền công dân nước đó bị hạn
chế. Tổng Giám đốc sẽ lập tức thông báo văn bản trên cho tất cả các nước thành
viên Liên hiệp.
1.
Độc lập với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi quyền này đã được chuyển
nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền được đòi thừa nhận mình là tác giả của tác
phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những vi phạm
khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm tác giả.
2.
Sau khi tác giả chết, những quyền tác giả được hưởng theo quy định của các
khoản trên đây vẫn được duy trì ít nhất cho đến khi chấm dứt các quyền kinh tế
và được sử dụng bởi những cá nhân hoặc đoàn thể được uỷ quyền theo pháp luật
của Quốc gia bảo hộ. Những Quốc gia mặc dù có phê chuẩn, hoặc gia nhập Đạo luật
này nhưng luật pháp của họ không có các quy định bảo hộ tất cả những quyền nói
ở khoản (1) trên đây, sau khi tác giả qua đời, các Quốc gia đó có thể quy định
chấm dứt một phần các quyền nói trên sau khi tác giả chết.
3.
Những biện pháp khiếu nại nhằm bảo hộ những quyền nêu trong Điều này sẽ được
quy định bởi luật pháp của Quốc gia nơi công bố bảo hộ.
1.
Thời hạn bảo hộ theo Công ước này sẽ là suốt cuộc đời của tác giả và năm mươi
năm sau khi tác giả chết.
2.
Tuy nhiên đối với những tác phẩm điện ảnh, các Quốc gia thành viên Liên hiệp có
thể quy định thời hạn bảo hộ chấm dứt sau 50 năm, tính từ khi tác phẩm được phổ
cập đến công chúng, với sự đồng ý của tác giả hoặc nếu không có sự phổ cập như
thế trong vòng 50 năm tính từ ngày thực hiện tác phẩm, thì thời hạn bảo hộ chấm
dứt 50 năm sau khi tác phẩm được thực hiện.
3.
Đối với những tác phẩm khuyết danh hay bút danh, thời hạn bảo hộ do Công ước
này quy định chấm dứt là 50 năm sau khi tác phẩm được phổ cập đến công chúng
một cách hợp pháp. Tuy nhiên, khi bút danh tác giả biểu lộ không chút hoài nghi
về danh tính của tác giả thì thời hạn bảo hộ là thời hạn quy định ở khoản (1).
Nếu tác giả một tác phẩm khuyết danh hay bút danh tiết lộ danh tính của mình
trong thời gian đã nói ở trên, thời hạn bảo hộ là thời hạn được quy định ở
khoản (1). Các Quốc gia thành viên Liên hiệp không bắt buộc phải bảo hộ những
tác phẩm khuyết danh hay bút danh khi có đủ lý do cho rằng tác giả của tác phẩm
đó đã chết được 50 năm.
4.
Luật pháp của Quốc gia là thành viên Liên hiệp có thẩm quyền quy định thời hạn
bảo hộ các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng coi như tác
phẩm nghệ thuật; tuy nhiên, thời hạn này kéo dài ít nhất 25 năm kể từ khi tác
phẩm được thực hiện.
5.
Thời hạn bảo hộ sau khi tác giả chết và những thời hạn nói ở khoản 2,3 và 4
trên đây được bắt đầu từ lúc tác giả chết hay từ những sự kiện đã nói ở trên.
Tuy nhiên, thời hạn hạn định chỉ được tính từ ngày 01 tháng 01 năm tiếp theo
sau cái chết hay sự kiện.
6.
Các nước thành viên Liên hiệp có quyền quy định một thời hạn bảo hộ dài hơn các
thời hạn quy định ở những khoản trên đây.
7.
Những nước thành viên Liên hiệp bị ràng buộc bởi Đạo luật Roma của Công ước này
mà vào thời điểm ký kết Đạo luật này quy định trong Luật Quốc gia hiện hành
thời hạn bảo hộ ngắn hơn thời hạn quy định ở các khoản trên, thì nước đó có thể
giữ thời hạn ngắn hơn đó khi gia nhập hay phê chuẩn Đạo luật này.
8.
Trong bất kỳ trường hợp nào, thời hạn bảo hộ sẽ do Luật pháp của nước công bố
bảo hộ quy định. Tuy nhiên, nếu Luật pháp của nước đó không có những quy
định khác thì thời hạn bảo hộ sẽ không quá thời hạn được quy định ở Quốc gia
gốc của tác phẩm.
(Thời hạn
bảo hộ đối với tác phẩm đồng tác giả)
Những
quy định của Điều khoản trên cũng được áp dụng cho tác phẩm đồng tác giả, nhưng
thời hạn bảo hộ sau khi chết được tính đến khi tác giả cuối cùng chết.
Tác
giả của các tác phẩm văn học nghệ thuật được Công ước này bảo hộ được toàn
quyền dịch hay cho phép dịch tác phẩm của mình trong suốt thời hạn hưởng quyền
bảo hộ đối với các tác phẩm nguyên tác của mình.
(Quyền sao
chép: 1. Quy định chung; 2. Các ngoại lệ có thể; 3. Ghi âm và ghi hình)
1.
Tác giả có các tác phẩm văn học nghệ thuật được Công ước này bảo hộ, được toàn
quyền cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kỳ phương thức, hình thức nào.
2.
Luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp, trong vài trường hợp đặc biệt, có
quyền cho phép sao in những tác phẩm nói trên, miễn là sự sao in đó không
phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây thiệt thòi
bất hợp lý đến những quyền lợi hợp pháp của tác giả.
3.
Mọi việc ghi âm hay ghi hình đều được xem là sao in theo định nghĩa của Công
ước này.
1.
Được coi là hợp pháp những trích dẫn rút từ một tác phẩm đã được phổ cập tới
công chúng một cách hợp pháp, miễn là sự trích dẫn đó phù hợp với những thông
lệ đúng đắn và không vượt quá mục đích trích dẫn, kể cả những trích dẫn các bài
báo và tập san định kỳ dưới hình thức điểm báo.
2.
Luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp và những Hiệp định đặc biệt đã có sẵn
hay sẽ ký kết giữa các Quốc gia này có thẩm quyền cho phép sử dụng có mục đích,
những tác phẩm văn học hay nghệ thuật bằng cách minh họa các xuất bản phẩm, các
buổi phát thanh, ghi âm hoặc ghi hình, miễn sao việc sử dụng đó phù hợp với
thông lệ đúng đắn.
3.
Khi sử dụng tác phẩm như đã nói ở các khoản trong Điều trên đây, phải ghi rõ
nguồn gốc tác phẩm và tên tác giả, nếu có.
1.
Luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp có thẩm quyền cho phép in lại trên báo
chí, phát lại trên đài truyền thanh hay phương tiện thông tin đại chúng những
bài báo có tính chất thời sự về kinh tế, chính trị hay tôn giáo đã đăng tải
trên báo chí hoặc tập san, hoặc các tác phẩm truyền thanh có tính chất tương
tự, với điều kiện những tác phẩm đó không phải là những tác phẩm mà tác giả
đích danh giữ bản quyền.
Tuy
nhiên, bao giờ cũng phải ghi rõ nguồn gốc tác phẩm. Vi phạm nghĩa vụ này sẽ bị
xét xử theo luật của Quốc gia công bố bảo hộ.
2.
Luật Quốc gia thành viên Liên hiệp có thẩm quyền quy định điều kiện sao in và
phổ cập những tác phẩm văn học nghệ thuật nghe nhìn, dưới hình thức nhiếp ảnh,
điện ảnh, phát sóng hoặc thông tin đường dây để phục vụ cho mục đích thông tin
với mức độ sử dụng thông tin đã được thống nhất.
1.
Tác giả các tác phẩm kịch, nhạc kịch và ca nhạc được hưởng toàn quyền uỷ thác
quyền:
i)
Trình diễn công cộng tác phẩm của mình, sử dụng bất cứ phương tiện hoặc kỹ
thuật nào
ii)
Truyền thông tới công chúng những cuộc trình diễn đó bằng bất kỳ một phương
pháp nào.
2.
Các tác giả của các tác phẩm kịch và nhạc kịch trong suốt thời gian sở hữu các
quyền đối với nguyên tác, được hưởng tất cả những quyền nói trên đối với bản
dịch các tác phẩm đó của mình.
1.
Các tác giả các tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng quyền độc quyền cho
phép:
(i).
Phát sóng hoặc truyền phát tới công chúng các tác phẩm của mình bằng bất cứ
phương tiện vô tuyến nào nhằm phổ biến các ký hiệu, âm thanh hay hình ảnh.
(ii).
Mọi cuộc truyền phát tới công chúng tác phẩm của mình qua phát sóng hữu tuyến
hoặc tái phát sóng do một cơ quan khác với cơ quan phát sóng đầu tiên thực hiện
(iii).
Truyền phát tới công chúng tác phẩm của mình bằng loa hay công cụ truyền phát
tương tự để truyền ký hiệu, âm thanh hay hình ảnh.
2.
Luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp có quyền quy định những điều kiện để áp
dụng những quyền nói ở khoản (1) trên đây. Nhưng những điều kiện đó chỉ được áp
dụng ở Quốc gia ban hành. Dù bất kỳ trường hợp nào, những điều kiện đó cũng
không được vi phạm quyền tinh thần của tác giả, cũng như quyền tác giả được
nhận thù lao thích đáng do cơ quan có trách nhiệm quy định, ngay cả trong
trường hợp không có văn bản thoả thuận.
3.
Nếu không có quy định khác thì việc cho phép sử dụng nói ở khoản (1) trên đây
không bao hàm việc cho phép dùng phương tiện thu âm hoặc thu hình để ghi lại
tác phẩm được phát sóng. Tuy nhiên, luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp có
thẩm quyền quy định việc ghi âm nhất thời bằng những thiết bị riêng do chính cơ
quan phát sóng thực hiện để dùng cho các buổi phát sóng của mình. Việc lưu trữ
các bản ghi nói trên tại cơ quan lưu trữ của Nhà nước có thể được luật pháp cho
phép nếu bản ghi đó có giá trị đặc biệt về tư liệu.
1.
Tác giả các tác phẩm văn học được hưởng quyền độc quyền cho phép:
(i).
Đọc trước quần chúng tác phẩm của mình, bao gồm cả việc sử dụng bất cứ phương
pháp và kỹ thuật nào;
(ii).
Truyền phát bản đọc tác phẩm của mình tới công chúng.
2.
Tác giả các tác phẩm văn học, trong suốt thời gian sở hữu các quyền đối với tác
phẩm gốc của mình cũng được hưởng những quyền nói trên đối với những bản dịch
tác phẩm đó.
(Quyền
phóng tác, cải biên, chuyển thể)
Tác
giả các tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng toàn quyền ủy thác quyền
phóng tác, chuyển thể hay cải biên từ tác phẩm của mình.
1.
Mọi Quốc gia thành viên Liên Hiệp có thể quy định quyền bảo lưu của mình và ra
điều kiện có liên quan đến quyền tác giả của bản nhạc và quyền tác giả của lời
bài hát được tác giả cho phép ghi âm cùng với nhạc. Tuy nhiên, mọi quyền bảo
lưu và những điều kiện đó chỉ được áp dụng ở nước đặt ra quy định như vậy
và dù trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vi phạm quyền tinh thần của
tác giả cũng như quyền tác giả được nhận thù lao thích đáng do cơ quan có thẩm
quyền ấn định, ngay cả trong trường hợp không có văn bản thoả thuận.
2.
Những bản ghi nhạc phẩm đã được thực hiện trong một Quốc gia thành viên Liên
hiệp theo Điều 13 (3) của Công ước ký
kết ở Roma ngày 2/6/1928, ở Brussels ngày 26/6/1948 có thể được sao bản trong
nước mà không cần có sự đồng ý của tác giả của nhạc phẩm trong vòng hai năm
tính từ ngày Đạo luật này của Công ước có hiệu lực đối với Quốc gia đó.
3.
Những bản sao được thực hiện thể theo khoản 1 và 2 của Điều này và được nhập
cảng không có phép của các bên hữu quan vào một Quốc gia, nơi mà các bản sao
như thế không được xem là hợp pháp, thì có thể tịch thu.
1.
Tác giả các tác phẩm văn học hay nghệ thuật được hưởng toàn quyền uỷ thác
quyền:
(i).
Phóng tác và quay phim các tác phẩm của mình và cho phát hành những tác phẩm đã
phóng tác hay quay phim đó;
(ii).
Trình diễn công cộng và truyền phát tới quần chúng bằng đường dây những tác
phẩm đã phóng tác hay quay phim.
2.
Phóng tác dưới bất kỳ hình thức nghệ thuật nào những bộ phim có cốt truyện lấy
từ những tác phẩm văn học hay nghệ thuật, tuy không vi phạm sự uỷ thác của các
tác giả đã thực hiện bộ phim, nhưng vẫn phải lệ thuộc vào sự cho phép của các
tác giả của nguyên tác.
3.
Những quy định ở Điều 13 (1) sẽ không áp dụng ở đây.
1.
Các tác phẩm điện ảnh được bảo hộ như một nguyên tác nếu nó không vi phạm quyền
tác giả của các tác phẩm đã dùng để phóng tác hay sao chép. Người sở hữu quyền
tác giả đối với tác phẩm điện ảnh được hưởng những quyền giống như tác giả của
tác phẩm gốc kể cả quyền đã nói ở Điều khoản trên đây.
2(a).
Luật pháp của Quốc gia công bố bảo hộ có thẩm quyền quy định quyền sở hữu đối
với các tác phẩm điện ảnh.
(b)
Tuy nhiên, ở những nước thành viên Liên hiệp có Luật pháp quy định là những
người sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm điện ảnh bao gồm cả các tác giả
đã góp phần sáng tạo tác phẩm, thì các tác giả đó, nếu đã cam kết tham gia đóng
góp như vậy, sẽ không được ngăn cản, (trừ phi có quy định ngược lại hay đặc
biệt nào khác), đối với việc sao bản, phát hành, công diễn, phổ biến hữu tuyến,
phát sóng hay bất kỳ hình thức công bố nào khác tới công chúng, hoặc việc làm
phụ đề, lồng tiếng tác phẩm điện ảnh.
(c)
Hình thức của sự cam kết nói trên trong việc áp dụng khoản b có phải là hợp
đồng thành văn bản hoặc một văn bản tương tự hay không, sẽ do Luật pháp của
Quốc gia nơi nhà sản xuất phim đặt trụ sở hay thường trú quy định. Tuy nhiên,
luật pháp của các Quốc gia thành viên Liên hiệp nơi công bố sự bảo hộ có thẩm
quyền quy định là sự cam kết nói trên phải là một hợp đồng thành văn bản hay
một văn bản tương tự. Những nước có Luật pháp quy định như vậy phải báo cho
Tổng Giám đốc bằng văn bản. Tổng Giám đốc thông báo cho tất cả các nước thành
viên Liên Hiệp về văn bản này.
(d)
Những thuật ngữ "Ngược lại hay đặc biệt" nghĩa là tất cả mọi điều
kiện hạn chế được nêu lên trong việc cam kết.
3.
Trừ trường hợp Luật pháp Quốc gia thành viên quy định khác so với những quy
định ở khoản 2(b) trên đây, khoản này không áp dụng đối với các tác giả của
kịch bản, đối thoại và nhạc phẩm sáng tác cho tác phẩm điện ảnh, và cũng không
áp dụng đối với đạo diễn chính. Tuy nhiên, những Quốc gia thành viên Liên hiệp
mà Luật pháp không có quy định áp dụng khoản 2(b) nói trên đối với đạo diễn,
phải báo cho Tổng Giám đốc bằng một văn bản. Tổng Giám đốc thông báo cho tất cả
các nước thành viên Liên hiệp về văn bản này.
1.
Đối với bản gốc các tác phẩm nghệ thuật và bản thảo gốc của nhà văn và nhà soạn
nhạc mà tác giả đã chuyển nhượng, thì tác giả hoặc sau khi tác giả chết, những
cá nhân hoặc đoàn thể được sở hữu quyền tác giả theo Luật pháp Quốc gia được
hưởng quyền không được chuyển nhượng đối với lợi nhuận khi bán các tác phẩm đó
sau khi tác giả đã chuyển nhượng lần đầu.
2.
Việc bảo hộ nói ở khoản trên đây chỉ có hiệu lực trong các nước thành viên Liên
hiệp nếu luật pháp Quốc gia của tác giả thừa nhận sự bảo hộ đó và ở mức độ luật
pháp Quốc gia nơi công bố bảo hộ cho phép.
3.
Những thể thức và mức thu tiền do Luật pháp của mỗi Quốc gia quy định.
1.
Để được thừa nhận là tác giả của các tác phẩm văn học và nghệ thuật hưởng sự
bảo hộ của Công ước này và được khởi kiện những người vi phạm tác phẩm của mình
trước Toà án ở các nước thành viên Liên hiệp, nếu không có bằng chứng ngược
lại, tác giả chỉ cần ghi tên mình trên tác phẩm theo như thông lệ. Khoản này
cũng áp dụng cả khi tên tác giả là một bút hiệu nếu bút hiệu tác giả dùng không
gây nên một nghi vấn nào về danh tính thật của tác giả.
2.
Một cá nhân hay một tổ chức có ghi tên trên tác phẩm theo như thông lệ, được
xem là nhà sản xuất điện ảnh, trừ phi có bằng chứng ngược lại.
3.
Đối với những tác phẩm khuyết danh và những tác phẩm bút danh, khác với những
tác phẩm đã nói ở khoản (1) trên đây, Nhà xuất bản có tên ghi trên tác phẩm
được thừa nhận là đại diện của tác giả mà không cần bằng chứng gì khác. Với tư
cách này, Nhà xuất bản có hưởng quyền được bảo hộ và thực thi quyền của tác
giả. Qui định của khoản này sẽ hết hiệu lực khi tác giả tiết lộ danh tính và
chứng minh được mình là tác giả.
4.
(a). Trong trường hợp những tác phẩm chưa xuất bản mà chưa biết ai là tác giả,
nhưng có đủ cơ sở để cho rằng tác giả là công dân một nước thành viên Liên
hiệp, thì Luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp có khả năng chỉ định một cơ
quan có thẩm quyền đại diện cho tác giả và có thẩm quyền bảo hộ và thực thi
quyền tác giả trong các nước thành viên Liên hiệp.
(b).
Những Quốc gia thành viên Liên hiệp muốn chỉ định cơ quan đại diện theo quy
định này phải thông báo cho Tổng Giám đốc bằng một văn bản ghi rõ các chi tiết
về cơ quan đại diện được chỉ định. Văn bản đó sẽ được Tổng Giám đốc lập tức
thông báo cho tất cả các nước thành viên Liên hiệp.
(Bản sao vi
phạm quy định: 1. Tịch thu; 2. Tịch thu khi nhập khẩu; 3. Luật áp dụng)
1.
Mọi tác phẩm phi pháp có thể bị tịch thu ở những Quốc gia là thành viên Liên
hiệp, nơi nguyên tác được hưởng sự bảo hộ của Luật pháp.
2.
Những quy định ở khoản trên cũng áp dụng cho những bản sao nhập từ một Quốc gia
mà ở đó tác phẩm không được bảo hộ, hoặc đã ngừng được bảo hộ.
3.
Việc tịch thu sẽ được xử lý theo Luật pháp của mỗi Quốc gia.
(Khả năng
kiểm soát sự lưu thông, trình bày, triển lãm tác phẩm)
Những
quy định của Công ước này không được vi phạm bất kỳ dưới hình thức nào quyền
của Chính phủ của mỗi nước thành viên Liên hiệp trong việc cho phép hoặc kiểm
soát hay cấm, bằng các biện pháp thuộc lập pháp hay hành pháp của Quốc gia, sự
lưu hành, trình diễn hay triển lãm những tác phẩm hoặc sản phẩm này mà nhà chức
trách thấy cần phải sử dụng quyền đó.
1.
Công ước này, vào thời điểm bắt đầu có hiệu lực, áp dụng cho tất cả những tác
phẩm chưa được phổ biến tới công chúng khi hết hạn bảo hộ trước đó.
2.
Tuy nhiên, nếu hết hạn thời gian bảo hộ trước đó mà tác phẩm đã được phổ biến
tới công chúng ở nước công bố bảo hộ, thì tác phẩm đó không được bảo hộ trở
lại.
3.
Việc áp dụng nguyên tắc trên phải tuân thủ những Điều khoản có liên quan, trong
các Hiệp định đặc biệt hiện hành hay được ký kết giữa các Quốc gia thành viên
Liên hiệp. Nếu Quốc gia nào không có những Điều khoản như thế thì phải quy định
cho riêng mình những thể thức để áp dụng nguyên tắc đó
4.
Những quy định nói trên cũng được áp dụng trong trường hợp những Quốc gia mới
tham gia Liên hiệp hoặc cho trường hợp kéo dài bảo hộ theo quy định của Điều 7
hoặc quy định về bãi bỏ sự bảo lưu.
(Sự bảo hộ
lớn hơn so với sự bảo hộ của Công ước)
Những
quy định của Công ước không ngăn cản việc đòi hỏi được hưởng sự bảo hộ lớn hơn
mà Luật pháp một Quốc gia Liên hiệp ban hành.
(Hiệp định
riêng giữa các quốc gia thuộc Liên hiệp)
Chính
phủ các Quốc gia thành viên Liên hiệp được dành quyền ký kết với nhau những
thoả hiệp riêng nhằm mang lại cho tác giả những quyền lớn hơn những quyền do
Công ước quy định, hoặc xác định những điều khoản không trái ngược với Công
ước. Những quy định trong các thỏa hiệp hiện hành nếu thỏa mãn các điều kiện
nói trên vẫn được tiếp tục áp dụng.
(Những qui
định đặc biệt đối với nước đang phát triển: 1. Phụ lục; 2. Phụ lục của Đạo
luật)
1.
Những quy định đặc biệt dành cho các nước đang phát triển được ghi trong Bản
Phụ lục.
2.
Phụ lục là một thành phần thống nhất của Đạo luật theo quy định ở Điều
28.1.b.
1(a).
Liên hiệp thành lập một Hội đồng bao gồm những nước thành viên bị ràng buộc bởi
các Điều khoản từ 22 đến 26.
(b).
Chính phủ của mỗi nước có một đại diện, một số trợ lý cho đại diện, cố vấn và
chuyên gia.
(c)
Kinh phí của mỗi phái đoàn sẽ do Chính phủ đã bổ nhiệm phái đoàn đài thọ.
2(a).
Hội đồng có trách nhiệm:
i)
Xem xét mọi vấn đề liên quan đến việc duy trì và phát triển Liên hiệp cũng như
việc áp dụng Công ước này;
ii)
Chỉ đạo Văn phòng Quốc tế về sở hữu trí tuệ (từ đây gọi tắt là "Phòng Quốc
tế") được nói đến trong Công ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(từ đây gọi tắt là Tổ chức) chuẩn bị nội dung cho những hội nghị nghiên cứu sửa
đổi Công ước sau khi đã tham khảo những ý kiến của các nước thành viên Liên
Hiệp không bị ràng buộc bởi các Điều từ 22 đến 26.
iii)
Xét duyệt báo cáo và hoạt động của Tổng Giám đốc của Tổ chức có liên quan đến
Liên hiệp và chỉ đạo Tổng Giám đốc giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của
Liên hiệp;
iv)
Bầu các thành viên của Ban chấp hành Hội đồng;
v)
Xét duyệt báo cáo và hoạt động của Ban Chấp hành và chỉ đạo hoạt động của Ban
chấp hành;
vi)
Hoạch định chương trình và thông qua ngân sách "hai năm" của Liên
hiệp, xét duyệt bản kết toán;
vii)
Thông qua nội quy tài chính của Liên Hiệp;
viii)
Thành lập các ban chuyên gia và các nhóm làm việc cho Liên hiệp;
ix)
Xác định những nước không phải thành viên Liên hiệp, các tổ chức liên Quốc gia
và các tổ chức quốc tế phi chính phủ có thể được mời dự các cuộc họp của Hội
đồng với tư cách là quan sát viên;
x)
Thông qua các sửa đổi liên quan đến các Điều từ 22 đến 26;
xi)
Xem xét các biện pháp hoạt động nhằm đạt các mục tiêu của Liên hiệp;
xii)
Thực thi các các chức năng của Công ước
xiii)
Tuân thủ sự chấp nhận và thực thi những quyền hạn mà Tổ chức trao cho Hội đồng.
(b)
Về các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của các Liên hiệp khác do Tổ chức điều
hành thì Hội đồng sẽ quyết định sau khi đã nghe ý kiến tư vấn của Uỷ ban điều
phối của Tổ chức.
3(a)
Mỗi thành viên của Hội đồng sẽ được sử dụng một phiếu bầu.
(b)
Một nửa số thành viên Hội đồng sẽ tạo nên số đại biểu tối thiểu cần thiết để
tiến hành biểu quyết.
(c)
Mặc dầu có những quy định ở khoản (b), nếu trong một khoá họp, số đại biểu ít
hơn một nửa nhưng lại bằng hay quá một phần ba tổng số các nước thành viên của
Hội đồng thì Hội đồng có thể ra quyết định; Tuy nhiên, trừ các quyết định liên
quan đến thủ tục của các Hội đồng, tất cả các quyết định khác sẽ chỉ có hiệu
lực khi các điều kiện sau đây được thoả mãn: Phòng Quốc tế sẽ thông báo các
quyết định nói trên cho các nước hội viên của Hội đồng không tham gia kỳ họp đó
và yêu cầu các nước này biểu quyết bỏ phiếu hay bỏ phiếu trắng trong thời hạn 3
tháng kể kể từ ngày ghi trên thông báo. Nếu hết thời hạn đó, số các nước biểu
quyết bỏ phiếu hay bỏ phiếu trắng như trên đạt được ít nhất con số còn thiếu đề
phiên họp đạt số đại biểu tối thiểu, thì những quyết định trên sẽ có hiệu lực
miễn là có đa số phiếu thuận cần có.
(d)
Ngoài những quy định ở Điều 26(2), các quyết định của Hội đồng phải đạt hai
phần ba số phiếu bầu.
(e)
Phiếu trắng sẽ không được coi là phiếu bầu
(f)
Một đại biểu chỉ có thể đại diện một nước và bỏ phiếu nhân danh nước đó
(g)
Các nước Liên hiệp nếu không phải là thành viên của Hội đồng sẽ được tham gia
các cuộc họp của Hội đồng với tư cách là quan sát viên.
4(a)
Hội đồng sẽ họp khoá thường kỳ ba năm một lần theo triệu tập của Tổng Giám đốc
và trừ trường hợp đặc biệt, sẽ họp vào cùng một thời gian và ở cùng một địa
điểm với Đại hội đồng của tổ chức.
(b)
Hội đồng sẽ họp khoá bất thường theo sự triệu tập của Tổng Giám đốc, thể theo
yêu cầu của Ban Chấp hành hay yêu cầu của một phần tư số các nước thành viên
của Hội đồng.
5.
Hội đồng sẽ thông qua những quy định của mình.
1.
Hội đồng thành lập một Ban chấp hành
2(a).
Ban chấp hành gồm các nước được Hội đồng bầu ra trong số các nước thành viên
của Hội đồng. Ngoài ra, nước nơi tổ chức đặt trụ sở, đương nhiên giữ một ghế
trong Ban chấp hành, trừ trường hợp quy định ở Điều 25.7.b.
(b)
Chính phủ của mỗi nước thành viên của Ban Chấp hành được cử một đại diện. Đại
biểu này có thể có trợ lý, cố vấn và chuyên gia.
(c)
Kinh phí của mỗi Đoàn đại biểu sẽ do Chính phủ đã bổ nhiệm Đoàn đài thọ.
3.
Số các nước thành viên Ban chấp hành sẽ tương đương với một phần tư số các nước
thành viên của Hội đồng. Khi xác định số ghế được bầu thì sau khi chia bốn, con
số dư còn lại coi như không tính.
4.
Khi bầu thành viên của Ban chấp hành, Hội đồng sẽ lưu tâm tới sự phân phối quân
bình theo địa lý cũng như sự cần thiết có mặt trong Ban chấp hành những nước có
ký thoả hiệp riêng với nhau liên quan đến Liên hiệp.
5(a).
Nhiệm kỳ của mỗi thành viên của Ban Chấp hành sẽ bắt đầu từ cuối kỳ họp mà Hội
đồng đã bầu thành viên đó cho đến lúc kết thúc khoá họp thường kỳ tiếp theo của
Hội đồng.
(b)
Những thành viên của Ban chấp hành có thể được tái cử, nhưng số được tái cử
không được quá hai phần ba số thành viên.
(c)
Hội đồng sẽ quy định các thể thức bầu cử và tái cử các thành viên Ban chấp
hành, nếu cần.
6(a).
Ban chấp hành có trách nhiệm:
i)
Dự thảo chương trình nghị sự của Hội đồng;
ii)
Đệ trình lên Hội đồng các đề nghị liên quan đến dự thảo chương trình hoạt động
và ngân sách hai năm của Liên hiệp đã được Tổng Giám đốc chuẩn bị;
iii)
(Khoản này hết áp dụng, bỏ)
iv)
Đệ trình lên Hội đồng và cho ý kiến về các báo cáo định kỳ của Tổng Giám đốc,
cũng như những báo cáo thường niên về việc kiểm toán tài khoản;
v)
Dùng mọi biện pháp cần thiết để Tổng Giám đốc thực hiện đúng chương trình của
Liên hiệp phù hợp với các quyết định của Hội đồng và thích ứng với mọi tình
huống nảy sinh giữa hai khoá họp thường kỳ của Hội đồng;
vi)
Hoàn thành mọi trách nhiệm khác được giao phó trong phạm vi của Công ước này.
(b)
Về các vấn đề có liên quan đến các Liên hiệp khác do Tổ chức điều hành, Ban
chấp hành sẽ quyết định sau nghe ý kiến tư vấn của Uỷ ban điều phối của Tổ
chức;
7(a).
Ban chấp hành sẽ họp khoá thường kỳ mỗi năm một lần do Tổng Giám đốc triệu tập.
Cuộc họp nên tiến hành cùng một lúc và cùng một địa điểm với Ủy ban phối hợp
của Tổ chức;
(b)
Ban chấp hành sẽ họp khoá bất thường khi có triệu tập của Tổng Giám đốc, hoặc
do chính Tổng Giám đốc đề xướng, hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch Ban chấp hành
hoặc yêu cầu của một phần tư số thành viên trong Ban chấp hành.
8(a).
Mỗi nước thành viên Ban chấp hành sẽ được sử dụng một phiếu bầu.
(b)
Một nửa số thành viên Ban chấp hành sẽ tạo nên số đại biểu cần thiết để tiến
hành biểu quyết.
(c)
Các quyết định sẽ được biểu quyết theo đa số tương đối của các phiếu bầu.
(d)
Phiếu trắng sẽ không được coi là phiếu bầu.
(e)
Một đại biểu chỉ có thể đại diện cho một nước và bỏ phiếu nhân danh nước đó.
9.
Các nước thành viên Liên hiệp không phải là thành viên của Ban chấp hành được
quyền tham dự các cuộc họp của Ban chấp hành với tư cách quan sát viên.
10.
Ban chấp hành thông qua những quy định của mình.
1(a).
Các nhiệm vụ hành chính của Liên hiệp sẽ do Phòng Quốc tế đảm nhiệm. Phòng này
kế thừa Văn phòng Liên hiệp, phối hợp với Văn phòng của Liên hiệp được thiết
lập bởi Công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
(b).
Phòng Quốc tế chủ yếu phụ trách công việc văn phòng cho tất cả các cơ quan của
Liên hiệp.
(c).
Tổng Giám đốc của Tổ chức là vị công chức cao cấp nhất của Liên hiệp và là đại
diện của Liên hiệp.
2.
Phòng Quốc tế thu thập và phổ biến các thông tin liên quan đến việc bảo hộ
quyền tác giả. Mỗi nước thành viên Liên hiệp thông báo kịp thời cho Phòng Quốc
tế tất cả các luật lệ mới cũng như các văn bản chính thức của nước mình liên
quan đến việc bảo hộ quyền tác giả.
3.
Phòng Quốc tế xuất bản một tạp chí định kỳ hàng tháng.
4.
Phòng Quốc tế sẽ cung cấp cho các nước thành viên Liên hiệp, nếu có sự yêu cầu,
những thông tin về các vấn đề có liên quan đến việc bảo hộ quyền tác giả.
5.
Phòng Quốc tế nghiên cứu và cung cấp dịch vụ nhằm tạo thuận lợi cho việc bảo hộ
quyền tác giả.
6.
Tổng Giám đốc và những nhân viên do Tổng Giám đốc chỉ định được tham gia nhưng
không có quyền bỏ phiếu vào tất cả các cuộc họp của Hội đồng, của Ban chấp hành
và của các ban chuyên gia hay nhóm làm việc khác. Tổng Giám đốc hay nhân viên
do Tổng Giám đốc chỉ định sẽ đương nhiên là thư ký của các cơ quan này.
7(a).
Phòng Quốc tế chịu trách nhiệm chuẩn bị các Hội nghị để nghiên cứu sửa đổi các
điều khoản của Công ước ngoại trừ các Điều từ 22 đến 26, theo chỉ thị của Hội
đồng và với sự cộng tác của Ban chấp hành.
(b).
Phòng Quốc tế có thể tham khảo ý kiến các Tổ chức liên Chính phủ và các Tổ chức
quốc tế phi Chính phủ về việc chuẩn bị các Hội nghị nghiên cứu sửa đổi.
(c).
Tổng Giám đốc và những người do Tổng Giám đốc chỉ định được tham gia vào các
cuộc thảo luận ở các Hội nghị đó, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
8.
Phòng Quốc tế thi hành bất kỳ nhiệm vụ nào khác được giao.
1(a).
Liên hiệp có ngân sách riêng
(b).
Ngân sách của Liên hiệp gồm số thu và số chi riêng của Liên hiệp cùng với phần
đóng góp của Liên hiệp vào ngân sách chi tiêu chung của các Liên hiệp. Khi cần
sẽ có một khoản ngân sách dành cho Hội nghị của Tổ chức.
(c)
Các khoản chi tiêu chung của các Liên hiệp không chỉ có những khoản chi tiêu
dành riêng cho một Liên hiệp mà còn cả các khoản dành cho một hoặc nhiều Liên
hiệp khác cùng do Tổ chức điều hành. Phần của Liên Hiệp trong các khoản chi
tiêu chung cân xứng với những lợi ích do sự chi tiêu này mang lại cho Liên
Hiệp.
2.
Ngân sách của Liên hiệp được hoạch định theo những đòi hỏi thích đáng về sự
phối hợp với các ngân sách của các Liên Hiệp khác cùng do Tổ chức điều hành.
3.
Nguồn ngân sách của Liên hiệp:
i)
Đóng góp của các nước thành viên Liên Hiệp;
ii)
Các phí và các khoản thù lao thu được qua dịch vụ của Phòng Quốc tế đối với
Liên Hiệp;
iii)
Tiền bán và tiền bản quyền các ấn phẩm của Phòng Quốc tế có liên quan đến Liên
Hiệp;
iv)
Quà biếu, tặng theo chúc thư và tiền trợ cấp;
v)
Tiền cho thuê, tiền lợi tức và tiền thu nhập từ các khoản khác.
4(a).
Nhằm mục đích phân bổ sự đóng góp của các nước thành viên cho ngân sách, mỗi
nước thành viên của Liên hiệp được xếp vào một hạng và đóng niên liễm của mình
trên cơ sở số đơn vị được ấn định như sau:
Hạng
1: 25
Hạng
2: 20
Hạng
3: 15
Hạng
4: 10
Hạng
5: 5
Hạng
6: 3
Hạng
7: 1
(b).
Nếu như chưa được xếp hạng, mỗi nước khi nộp văn bản phê chuẩn hay gia nhập, sẽ
nêu rõ mình muốn được xếp vào hạng nào. Thứ hạng có thể thay đổi. Nếu muốn chọn
một hạng thấp hơn thì phải thông báo cho Hội đồng biết vào một trong các khoá
họp thường kỳ của Hội đồng. Sự thay đổi như thế sẽ có hiệu lực vào đầu năm sau
kỳ họp đó.
(c)
Niên liễm của mỗi nước là một khoản tiền có tỷ lệ với số đơn vị tính cho nước
đó trong tổng số tiền do tất cả các nước đóng góp vào ngân sách hàng năm, tương
đương với tỷ lệ giữa các số đơn vị của thứ hạng nước đó chọn với tổng số các
đơn vị của tất cả các nước.
(d)
Kỳ hạn đóng góp là ngày 1 tháng 1 mỗi năm.
(e).
Nước không đóng góp niên liễm của mình thì sẽ không được bỏ phiếu ở bất kỳ cơ
quan nào của Liên hiệp mà nước đó là thành viên, nếu số tiền còn thiếu đó tương
đương hoặc lớn hơn số niên liễm nước đó phải đóng trong hai năm vừa qua. Tuy
nhiên, bất kỳ một cơ quan nào của Liên hiệp đều có thể cho phép nước đó tiếp
tục được bỏ phiếu ở cơ quan đó, và nếu cơ quan đó nhận thấy sự chậm trễ trong
việc trả tiền đóng góp là do hoàn cảnh đặc biệt và không thể tránh khỏi.
(f)
Trong trường hợp một ngân sách chưa được thông qua trước khi bắt đầu tài khoá
mới, thì ngân sách năm trước sẽ tiếp tục được áp dụng theo đúng thể thức tài
chính.
5.
Bảng khai phí và chi phí dịch vụ do Phòng Quốc tế chuyển lên Liên hiệp phải
được Tổng Giám đốc duyệt và báo cáo lên Hội đồng và Ban chấp hành.
6(a).
Liên hiệp có một quỹ hoạt động do các nước thuộc Liên hiệp đóng góp.Nếu quỹ
không đủ chi thì Hội đồng sẽ quyết định tăng mức đóng góp.
(b).
Khoản đóng góp ban đầu hoặc hoặc sau khi tăng cho quỹ nói trên của mỗi nước sẽ
tỷ lệ với phần đóng góp của nước đó trong năm thành lập quỹ hay sau khi quyết
định bổ sung.
(c)
Tỷ lệ và thể thức đóng tiền do Hội đồng quy định theo đề nghị của Tổng Giám đốc
và sau khi nghe ý kiến tư vấn của Ủy ban phối hợp của Tổ chức.
7(a).
Trong Hiệp định về trụ sở được ký kết với nước sở tại của Tổ chức quy định
rằng, nếu quỹ hoạt động không đủ chi, thì nước sở tại sẽ tạm ứng một số tiền.
Mức tiền ứng trước và điều kiện tạm ứng được quy định trong thoả thuận riêng
giữa nước sở tại và Tổ chức. Chừng nào nước sở tại còn có nhiệm vụ ứng tiền
trước, thì nước đó đương nhiên có một ghế trong Ban chấp hành.
(b).
Nước nói ở điểm (a) và Tổ chức đều có quyền tuyên bố bãi bỏ cam kết tạm ứng
bằng một văn bản. Việc bãi bỏ sẽ có hiệu lực sau ba năm kể từ cuối năm đưa ra
thông báo bãi bỏ.
8.
Việc kiểm toán tài khoản được tiến hành theo quy định tài chính bởi một hoặc
nhiều nước Liên hiệp hoặc bởi chuyên gia kiểm toán bên ngoài được Hội đồng chỉ
định với sự chấp nhận của đương sự.
(Sửa đổi:
1. Các điều thuộc quyền sửa đổi của Hội đồng; đề nghị; 2. Thông qua; 3. Có hiệu
lực)
1.
Các đề nghị sửa đổi các Điều 22, 23, 24, 25 và Điều khoản này có thể do bất kỳ
nước thành viên Hội đồng nào hay do Ban chấp hành hoặc do Tổng Giám đốc đưa ra.
Những đề nghị này sẽ được Tổng Giám đốc thông báo cho các nước thành viên của
Hội đồng ít nhất là sáu tháng trước khi đưa ra Hội đồng xem xét.
2.
Mọi sửa đổi các Điều nói ở khoản (l) sẽ do Hội đồng thông qua. Để được thông
qua phải đạt ba phần tư số phiếu bầu, riêng những sửa đổi Điều 22 và khoản này,
để thông qua phải đạt bốn phần năm phiếu bầu.
3.
Mọi sửa đổi ở các Điều nói ở khoản (1) sẽ có hiệu lực một tháng sau khi Tổng
Giám đốc nhận được các văn bản thông báo chấp thuận của ba phần tư số nước
thành viên của Hội đồng ở thời điểm sự sửa đổi đó được thông qua, theo đúng với
các quy định của mỗi nước. Mọi sửa đổi các Điều khoản nói trên, một khi được
chấp thuận sẽ ràng buộc tất cả các nước đã là thành viên của Hội đồng vào thời
điểm sự thay đổi đó có hiệu lực hay sẽ là thành viên sau đó. Riêng những thay
đổi về việc tăng các nghĩa vụ tài chính cho các nước Liên hiệp thì chỉ ràng
buộc những nước đã thông báo rằng mình chấp thuận sửa đổi đó.
(Sửa đổi:
1. Mục đích; 2. Hội nghị; 3. Thông qua)
1.
Công ước này có thể được đệ trình để nghiên cứu sửa đổi với mục đích cải tiến
để kiện toàn hệ thống của Liên hiệp.
2.
Với mục đích này hội nghị đại biểu của các Liên hiệp sẽ lần lượt được họp tại
một trong những nước Liên hiệp.
3.
Ngoài những quy định ở Điều 26 áp dụng cho việc sửa đổi các Điều từ 22 đến 26,
bất kỳ sự điều chỉnh nào trong Đạo luật này, kể cả Phụ lục, phải đạt được sự
nhất trí của các phiếu bầu.
1(a).
Bất kỳ nước nào trong Liên hiệp đã ký Đạo luật này đều có thể phê chuẩn Đạo
luật, và nếu chưa ký vẫn có thể gia nhập Đạo luật. Các văn bản phê chuẩn hay
gia nhập đều phải gửi cho Tổng Giám đốc.
(b)
Mọi thành viên của Liên hiệp đều có quyền tuyên bố trong văn bản phê chuẩn hay
gia nhập của mình rằng sự phê chuẩn hay gia nhập đó không áp dụng cho các Điều
từ 1 đến 21 và Phụ lục. Trong trường hợp nước đó trước đây đã có tuyên bố về
Điều VI.(1) của Phụ lục thì chỉ cần tuyên bố lại trong văn bản phê chuẩn hay
gia nhập của mình rằng sẽ không áp dụng cho các Điều từ 1 đến 20.
(c)
Mọi nước thành viên của Liên Hiệp, theo như điểm (b), tuy trong văn bản phê
chuẩn hay gia nhập đã loại bỏ những điều khoản nói trên, nhưng sau này vẫn có
thể tuyên bố lại phê chuẩn hay gia nhập vào những điều khoản đó.
2(a).
Các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục sẽ có hiệu lực ba tháng sau khi hai điều kiện
sau đây được thoả mãn:
i)
Có ít nhất là 5 nước thành viên Liên hiệp đã phê chuẩn hoặc gia nhập Đạo luật
này mà không có tuyên bố về Đoạn 1(b);
ii)
Các nước Pháp, Tây Ban Nha, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan, và Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ đã bị ràng buộc bởi Công ước Thế giới về bản quyền đã được
điều chỉnh tại Paris ngày 24/7/1971.
(b)
Việc có hiệu lực nói ở khoản (a) áp dụng cho những nước Liên Hiệp đã gửi văn
bản phê chuẩn hay gia nhập không có tuyên bố về khoản 1(b), ít nhất là 3 tháng
trước khi hiệu lực nói trên bắt đầu.
(c)
Đối với những thành viên của Liên hiệp không thuộc diện nói ở khoản (b), khi
phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này mà không có tuyên bố về khoản (1b), thì các
Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục vẫn sẽ có hiệu lực sau ba tháng tính từ ngày Tổng
Giám đốc thông báo việc gửi văn bản phê chuẩn hay gia nhập nói trên, trừ khi
trong văn bản của Tổng Giám đốc có ấn định một ngày khác. Trong trường hợp này
các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục có hiệu lực đối với nước đó kể từ ngày ghi
trong văn bản.
(d)
Các quy định của đoạn từ khoản (a) đến (c) không ảnh hưởng tới việc áp
dụng Điều VI của Phụ lục.
3.
Đối với những nước thành viên của Liên Hiệp đã phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật
này dù có hoặc không có tuyên bố về Điều 1.(b), các Điều từ 22 đến 38 sẽ có
hiệu lực sau ba tháng tính từ ngày Tổng Giám đốc thông báo đã nhận được văn bản
phê chuẩn hay gia nhập nói trên, trừ khi trong văn bản đó có ấn định một ngày
khác sau thời hạn nói trên. Trong trường hợp này các Điều từ 22 đến 38 sẽ có
hiệu lực đối với nước đó kể từ ngày ghi trong văn bản.
(Chấp thuận
và có hiệu lực đối với nước ngoài liên hiệp: 1. Gia nhập; 2. Có hiệu lực)
1.
Các nước ngoài Liên Hiệp có thể gia nhập Đạo luật này, tham gia vào Công ước và
là thành viên của Liên Hiệp. Văn kiện gia nhập gửi cho Tổng Giám đốc.
2(a).
Trừ trường hợp nói ở điểm (b) dưới đây, Công ước này sẽ có hiệu lực đối với một
nước ngoài Liên Hiệp ba tháng sau khi Tổng Giám đốc thông báo việc đã nhận được
văn kiện gia nhập của nước đó, trừ khi trong văn kiện này có nêu rõ một ngày
khác sau thời hạn trên. Trong trường hợp này Công ước có hiệu lực đối với nước
đó kể từ ngày ghi trong văn bản.
(b)
Nếu khoản (a) bắt đầu có hiệu lực trước các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục về Điều
28.2(a), thì nước nói trên, trong khoảng cách giữa hai thời gian đó, sẽ bị ràng
buộc bởi các Điều từ 1 đến 20 của Đạo luật Brussels thay cho các Điều từ 1 đến
21 và Phụ lục của Đạo luật này.
(Ảnh hưởng
của việc chấp thuận Đạo luật nhằm áp dụng Điều 14(2) của Công ước WIPO)
Với
mục đích duy nhất nhằm áp dụng Điều 14.2 của Công ước thành lập Tổ chức, việc
phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này của một nước không bị ràng buộc bởi các
Điều từ 22 tới 38 của Đạo luật Stockholm của Công ước này sẽ được coi là phê
chuẩn hay gia nhập Đạo luật Stockholm nói trên với những giới hạn nêu trong
Điều 28.l.(b).(i) của Đạo luật đó.
1.
Trừ những ngoại lệ ghi ở khoản 2 của Điều này và các Điều khoản 28.1.(b); 33.2
và Phụ lục, việc phê chuẩn hay gia nhập hàm chứa sự chấp thuận toàn vẹn các quy
định và thừa hưởng tất cả những quyền lợi đã nói trong Công ước này.
2(a).
Mọi nước trong Liên hiệp khi phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này, ngoài những
quy định của Điều V.(2) của Phụ lục đều có thể vẫn giữ quyền bảo lưu mà nước đó
đã đưa ra trước đây với điều kiện là phải tuyên bố điều đó khi nộp văn bản phê
chuẩn hay gia nhập của mình.
(b).
Mọi nước ngoài Liên hiệp khi gia nhập Công ước này và tuân thủ quy định ở Điều
V.(2) của Phụ lục, đều có thể tuyên bố rằng mình quyết định, ít ra là tạm thời,
thay thế Điều 8 của Đạo luật này (liên quan đến quyền dịch) bằng những quy định
ở Điều 5 của Công ước của Liên Hiệp năm 1886, được bổ sung ở Paris năm 1896
trên cơ sở nhận thức rõ ràng rằng những quy định nói trên chỉ áp dụng cho việc
dịch sang một ngôn ngữ thông dụng trong nước đó. Tuân thủ quy định ở Điều
I.6.(b) của Phụ lục, mọi nước đều có quyền áp dụng một sự bảo hộ tương đương
với sự bảo hộ ở các nước có bảo lưu nói trên đối với quyền dịch các tác phẩm có
nước gốc là nước áp dụng bảo lưu đó.
(c)
Mỗi nước đều có thể rút lại những bảo lưu nói trên bất kỳ lúc nào bằng một
thông báo cho Tổng Giám đốc.
1.
Mỗi nước đều có thể tuyên bố trong văn bản phê chuẩn hay gia nhập hoặc gửi
thông báo lên Tổng Giám đốc vào bất cứ lúc nào, khẳng định rằng Công ước này sẽ
áp dụng cho toàn bộ hay một phần những lãnh thổ được nêu ra, để phục vụ cho
những quan hệ đối ngoại mà nước đó đảm nhiệm.
2.
Những nước đã tuyên bố hay gửi thông báo trên có thể, bất kỳ lúc nào, thông báo
cho Tổng Giám đốc rằng Công ước này chấm dứt hiệu lực đối với toàn bộ hay một
phần những lãnh thổ đó.
3(a).
Việc tuyên bố nói ở khoản 1 sẽ có hiệu lực vào cùng ngày với sự phê chuẩn hay
gia nhập có ghi lời tuyên bố đó. Văn bản thông báo về khoản 1 có hiệu lực sau
ba tháng tính từ khi Tổng Giám đốc thông báo điều đó.
(b).
Những thông báo nói ở khoản 2 sẽ có hiệu lực sau 12 tháng tính từ khi Tổng Giám
đốc nhận được thông báo.
4.
Không thể coi Điều này có hàm ý rằng mọi nước trong Liên Hiệp đều chấp nhận
hoặc mặc nhiên công nhận thực trạng hiện hành của một lãnh thổ mà ở đó, một
nước khác của Liên hiệp áp đặt việc áp dụng Công ước này bằng một bản tuyên bố
về khoản (1)
1.
Đạo luật này thay thế Công ước Berne ký ngày 9/9/1886 và những Đạo luật đã hiệu
chỉnh sau đó, trong mối quan hệ giữa các nước Liên hiệp và trong giới hạn Đạo
luật này được áp dụng. Các Đạo luật đã có hiệu lực trước đây vẫn tiếp tục được
áp dụng toàn bộ hay trong phạm vi những điều mà đạo luật này không thay thế, có
liên quan các nước thuộc Liên Hiệp nhưng chưa phê chuẩn hoặc gia nhập Đạo luật
này.
2.
Những nước ngoài Liên hiệp khi gia nhập Đạo luật này, tuân thủ những quy định ở
khoản 3 dưới đây, sẽ áp dụng Đạo luật này trong quan hệ với bất cứ nước thành
viên nào của Liên Hiệp chưa bị ràng buộc bởi Đạo luật này hoặc đã bị ràng buộc
nhưng đã có tuyên bố về Điều 28.1.(b). Các nước đó thừa nhận để các nước nói
trên trong quan hệ với mình có thể:
i).
Áp dụng các Điều khoản của Đạo luật mới nhất mà nước đó bị ràng buộc;
ii).
Tuân thủ Điều I(6) của Phụ lục, có quyền điều chỉnh mức bảo hộ cho phù hợp với
quy định của Đạo luật này
3.
Một nước đã nhất trí với quy định trong Phụ lục, có thể áp dụng các quy định đó
đối với những lĩnh vực mình đã chọn, trong mối quan hệ với những nước Liên hiệp
khác chưa bị Đạo luật này ràng buộc với điều kiện là những nước đó đồng ý áp
dụng những quy định nói trên.
1.
Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều nước thành viên Liên hiệp liên quan đến cách
giải thích hoặc áp dụng Công ước này mà không giải quyết được bằng thương
lượng, có thể một trong những nước hữu quan đưa ra Toà án công lý quốc tế bằng
cách nộp đơn khiếu nại theo đúng quy định của Toà án, trừ khi các nước này thoả
thuận tìm một cách giải quyết khác. Nước nguyên cáo sẽ thông báo cho Phòng Quốc
tế về những tranh chấp đã đưa ra Toà và Phòng Quốc tế sẽ thông báo cho các nước
thành viên Liên Hiệp.
2.
Mỗi nước, khi ký kết hay đệ trình văn bản phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này,
có thể tuyên bố mình không chịu ràng buộc bởi những quy định ở khoản (1). Trong
trườngg hợp này, những tranh chấp giữa nước đó với những nước thành viên Liên
hiệp khác sẽ không áp dụng quy định ở khoản (1).
3.
Một nước tuy đã ra tuyên bố về quy định ở khoản (2) có thể vào bất kỳ lúc nào
rút lại tuyên bố đó bằng cách gửi thông báo cho Tổng Giám đốc.
(Chốt lại
các quy định trước: 1. Các Đạo luật trước; 2. Nghị định thư của đạo luật Stockholm)
1.
Một khi các điều từ 1 đến 21 và Phụ lục bắt đầu có hiệu lực, tuân thủ quy địa ở
Điều 29 Bis, không một nước nào có thể
gia nhập hoặc phê chuẩn những Đạo luật trước đó của Công ước.
2.
Sau khi các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục đã có hiệu lực, không nước nào có thể
ra tuyên bố về điều 5 của Nghị định thư về các nước đang phát triển, phụ đính
của Đạo luật Stockholm.
1.
Công ước này có hiệu lực không hạn định về thời gian.
2.
Mỗi nước có thể rút khỏi Đạo luật này bằng việc gửi thông báo cho Tổng Giám
đốc. Sự rút lui này đồng thời cũng là từ bỏ tất cả những Đạo luật trước đó và
chỉ có hiệu quả đối với nước rút lui, còn Công ước vẫn có hiệu lực và được thực
thi đối với những nước thành viên Liên Hiệp khác.
3.
Việc rút lui có hiệu lực sau một năm tính từ ngày Tổng Giám đốc nhận được bản
thông báo.
4.
Không một nước nào được sử dụng khả năng rút lui quy định trong Điều khoản này
trước khi hết thời hạn 5 năm kể từ ngày nước đó trở thành thành viên Liên hiệp.
(Áp dụng
công ước: 1. Nghĩa vụ ban hành các biện pháp cần thiết; 2. Thời điểm nghĩa vụ
tồn tại.)
1.
Mỗi nước thành viên Liên Hiệp sẽ cam kết ban hành những biện pháp cần thiết,
phù hợp với Hiến pháp của mình, nhằm đảm bảo việc áp dụng Công ước này.
2.
Khi một nước bắt đầu bị ràng buộc bởi Công ước này thì nước đó đã có đủ quyền
hạn thực hiện các điều khoản của Công ước này theo luật quốc gia của mình.
1(a).
Đạo luật này được ký thành một bản duy nhất bằng tiếng Pháp và tiếng Anh,
theo quy định ở khoản 2, sẽ được lưu chiểu nơi Tổng Giám đốc.
(b).
Các văn bản chính thức sẽ được Tổng Giám đốc thiết lập sau khi tham khảo ý kiến
của các Chính phủ liên quan, bằng các thứ tiếng Ả- Rập, Bồ Đào Nha, Đức, Tây
Ban Nha, Italia và bằng các thứ tiếng khác do Hội đồng chỉ định.
(c)
Trong trường hợp có sự bất đồng ý kiến về cách giải thích các văn bản khác
nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm văn bản chuẩn.
2.
Đạo luật này để ngỏ cho các nước ký cho đến ngày 31 tháng 01 năm 1972. Đến ngày
đó, văn bản nói ở khoản 1(a) sẽ được lưu chiểu tại Chính phủ Cộng hoà Pháp.
3.
Tổng Giám đốc chuyển hai bản sao có chứng thực sao y bản chính của văn bản đã
được ký của Đạo luật này cho Chính phủ của tất cả các nước thành viên Liên Hiệp
và cho Chính phủ của các nước khác, nếu có yêu cầu.
4.
Tổng Giám đốc đăng ký Đạo luật này với Ban thư ký của Liên Hiệp Quốc.
5.
Tổng Giám đốc sẽ thông báo cho Chính phủ của tất cả các nước thành viên Liên
hiệp về các bên ký kết, những lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay gia nhập và những
tuyên bố có trong các văn bản đó hay những tuyên bố về các Điều 28.1(c);
30.2(a) và (b); và 32.2, sự bắt đầu có hiệu lực của các Điều của Đạo luật này,
những thông báo rút lui, những thông báo về các Điều 30.2(c); 31.(1) và (2);
33.3 và 38.(1) và những thông báo nói ở trong Phụ lục.
1.
Những nước thành viên của Liên hiệp chưa phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật và
chưa bị ràng buộc bởi các Điều từ 22 đến 26 của Đạo luật Stockholm, nếu muốn,
có thể thực thi cho tới ngày 26/4/1975 các quyền lợi được quy định trong các
Điều nói trên như thể đã bị các Điều đó ràng buộc. Nước nào muốn thực thi những
quyền lợi đó phải gửi đến Tổng Giám đốc một văn bản thông báo. Bản thông báo
này có hiệu lực ngay sau khi nhận được, những nước đó sẽ được xem là thành viên
của Hội đồng cho đến thời hạn nói trên.
2.
Chừng nào mà tất cả các nước thành viên Liên hiệp chưa trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức, thì Phòng quốc tế của Tổ chức vẫn thực hiện chức năng
là Văn phòng của Liên hiệp và Tổng Giám đốc là Giám đốc Văn phòng.
3.
Một khi tất cả các nước thành viên Liên hiệp đã là thành viên của Tổ chức thì
các quyền lợi, nghĩa vụ và tài sản của Văn Phòng Liên Hiệp sẽ quy tụ cả về
Phòng quốc tế của Tổ chức.
(Những điều
khoản đặc biệt dành cho các nước đang phát triển)
1.
Những nước được coi là nước đang phát triển theo tập quán của Đại Hội đồng Liên
Hiệp Quốc, nếu thấy hiện nay vì tình hình kinh tế cũng như các nhu cầu về văn
hóa xã hội của mình chưa đủ khả năng ngay lập tức đảm bảo thực hiện tất cả
những quyền quy định trong Đạo luật này, kèm theo Phụ lục như một thể thống
nhất, thì khi phê chuẩn hoặc gia nhập Đạo luật này, hoặc vào một thời điểm sau
đó, theo như quy định của Điều V (1)(c) phải gửi cho Tổng Giám đốc một bản
thông báo tuyên bố là mình sẽ chỉ tuân thủ những quy định ở Điều II, hay Điều
III hoặc là cả hai Điều đó. Nước đó cũng có thể ra tuyên bố theo quy định ở
Điều V(1)(a), thay cho tuyên bố tuân thủ những quy định ở Điều II.
2(a).
Mọi tuyên bố theo quy định ở khoản (1), được thông báo trước khi hết thời hạn
là 10 năm, kể từ ngày bắt đầu có hiệu lực của những Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục
này theo quy định của Điều 28.(2), có giá trị cho đến hết thời hạn nói trên.
Tuyên bố đó có thể được gia hạn toàn bộ hay một phần cho mỗi thời hạn 10 năm
tiếp theo, bằng một thông báo nộp cho Tổng Giám đốc không quá 15 tháng nhưng
không ít hơn 3 tháng trước khi hết thời hạn 10 năm hiện hành.
(b)
Mọi tuyên bố theo quy định ở khoản (1) được thông báo sau khi hết thời hạn 10
năm kể từ ngày bắt đầu có hiệu lực của các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục này theo
quy định của Điều 28.(2) có giá trị cho đến khi hết thời hạn 10 năm hiện hành.
Tuyên bố đó có thể được gia hạn như đã quy định trong câu thứ hai của điểm a
trên đây.
3.
Những nước thành viên Liên Hiệp khi không còn được coi là nước đang phát triển
như đã nói ở khoản (1) sẽ không còn quyền gia hạn tuyên bố của mình như đã quy
định ở khoản (2) và dù có chính thức rút lui tuyên bố hay không, nước đó sẽ
không còn có thể sử dụng các khả năng được nêu trong khoản (1) kể từ ngày hết
hạn thời gian 10 năm hoặc sau khi hết thời hạn ba năm kể từ ngày nước đó không
còn được coi là nước đang phát triển. Hai thời hạn đó thời hạn nào dài hơn sẽ
được áp dụng.
4.
Nếu vào thời điểm tuyên bố theo quy định ở khoản (1) hay (2) không còn giá trị
nữa, nhưng còn tồn tại một số phiên bản đã được sản xuất nhờ vào giấy phép được
cấp theo quy định của Phụ lục này, thì những phiên bản đó sẽ được tiếp tục lưu
hành cho đến khi hết.
5.
Những nước bị ràng buộc bởi những quy định của Đạo luật này và đã nộp một tuyên
bố hay một thông báo theo Điều 31.(1) về việc áp dụng Đạo luật ở một lãnh thổ
nào đó có hiện trạng được coi là tương tự với tình trạng các nước nói ở khoản
(1) đều có thể tuyên bố mhư đã nói ở khoản (1) và thông báo gia hạn như khoản
(2). Chừng nào những tuyên bố hay thông báo này còn có giá trị thì các điều
khoản của Phụ lục vẫn được áp dụng cho lãnh thổ nói trên.
6(a).
Một điều thực tế là khi một nước chấp nhận những quy định nêu trong khoản (1)
thường không cho phép một nước khác được giảm sự bảo hộ dưới mức đã được xác
định theo các Điều từ 1 đến 20 đối với các tác phẩm có nước gốc là nước đã nêu
ở trên.
(b).
Quyền đối xử có đi có lại được quy định ở Điều 30.(2).(b), câu thứ hai sẽ không
được áp dụng với các tác phẩm có nước gốc là nước đã ra tuyên bố về Điều
V(1)(a) cho đến khi hết thời hạn quy định ở Điều I.(3).
1.
Đối với các tác phẩm đã xuất bản dưới dạng in ấn hay các dạng sao in tương tự,
một nước đã tuyên bố là sẽ áp dụng quy định nêu trong Điều khoản này, được phép
thay thế quyền dịch quy định trong Điều 8 bằng một quy chế giấy phép không độc
quyền và bất khả nhượng, do cơ quan có thẩm quyền cấp, theo các điều kiện dưới
đây và phù hợp với Điều IV.
2(a).
Tuân thủ quy định ở khoản (3), sau khi mãn hạn 3 năm hay một thời hạn dài hơn
do luật pháp Quốc gia nói trên quy định kể từ lần xuất bản đầu tiên của tác
phẩm, nếu người sở hữu quyền dịch không dịch hoặc không uỷ quyền dịch tác phẩm
sang một ngôn ngữ thông dụng trong nước đó, thì bất kỳ công dân nào của nước
nói trên đều có thể xin giấy phép để dịch tác phẩm đó sang ngôn ngữ đã nói và
xuất bản bản dịch đó dưới dạng in ấn hay các dạng sao in tương tự.
(b).
Giấy phép có thể cấp theo Điều này nếu tất cả những ấn bản của bản dịch sang
thứ tiếng nói trên đã tiêu thụ hết.
3(a).
Trong trường hợp dịch sang một thứ tiếng không thông dụng trong một hay nhiều
nước phát triển thành viên Liên hiệp, thì thời hạn chỉ là một năm thay cho thời
hạn ba năm quy định ở khoản 2.(a).
(b).
Với sự chấp thuận của toàn bộ các nước phát triển là thành viên Liên hiệp có
cùng một ngôn ngữ thông dụng chung, một nước nêu ở khoản (1) trên đây nếu muốn
dịch một tác phẩm sang ngôn ngữ đó, có thể thay thế thời hạn 3 năm nói trong
khoản 2.(a) bằng một thời hạn ngắn hơn theo thoả thuận trên, tuy nhiên thời hạn
đó không được dưới một năm. Tuy nhiên các điều khoản đưa ra trong câu trên đây
sẽ không được áp dụng trong trường hợp ngôn ngữ đó là tiếng Anh, tiếng Pháp hay
tiếng Tây Ban Nha. Các Chính phủ đã ký kết những thoả thuận nói trên phải thông
báo cho Tổng Giám đốc về những thoả thuận đó.
4(a).
Những giấy phép nói ở Điều này sẽ không được cấp trước khi hết một thời hạn phụ
thêm là 6 tháng, nếu thời hạn chính để được cấp là 3 năm và là 9 tháng, nếu
thời hạn chính để được cấp là 1 năm và được tính:
i).
Từ ngày người xin giấy phép hoàn thành các thủ tục nêu trong Điều IV(1), hoặc
là,
ii).
Nếu không xác định được danh tính và địa chỉ của người sở hữu quyền dịch, thì
kể từ ngày người xin gửi các đơn xin lên nhà chức trách có thẩm quyền cấp giấy
phép đó, theo quy định ở Điều IV(2).
(b).
Trong thời hạn 6 tháng hay 9 tháng nói trên, nếu một bản dịch sang thứ tiếng
đang xin, lại được người sở hữu quyền dịch xuất bản hay cho phép xuất bản, thì
không cấp thêm giấy phép nào nữa theo quy định của Điều này.
5.
Chỉ cấp giấy phép theo Điều này để dùng vào việc giảng dạy, học tập hay nghiên
cứu.
6.
Nếu người sở hữu quyền dịch hoặc người được uỷ thác đã xuất bản hay cho phép
xuất bản bản dịch với giá bán tương đương với giá thông thường được áp dụng taị
nước đó cho các tác phẩm tương tự, nếu là bản dịch đó cùng một ngôn ngữ, cùng
một nội dung như bản dịch đã được cho phép, thì mọi giấy phép được cấp theo
Điều này sẽ bị đình chỉ. Những bản đã in ra trước khi giấy phép hết hiệu lực có
thể được tiếp tục lưu hành cho đến khi hết.
7.
Đối với các tác phẩm mà phần chính là hình ảnh thì giấy phép dịch và xuất bản
dịch phần ngôn ngữ cũng như in lại và xuất bản các hình ảnh chỉ có thể được cấp
nếu các điều kiện nêu ra ở Điều III được thoả mãn.
8.
Không được cấp một giấy phép nào theo Điều này khi tác giả đã thu hồi tất cả
các phiên bản đã lưu hành của tác phẩm của mình.
9(a).
Cũng có thể cấp giấy phép dịch một tác phẩm đã được xuất bản dưới hình thức in
ấn hay sao in, cho một cơ quan phát thanh có trụ sở trong một nước nói ở khoản
(1) sau khi cơ quan đó gửi đơn xin phép cơ quan có thẩm quyền trong nước nói
trên với điều kiện phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
i).
Bản dịch phải được dịch ra từ một ấn phẩm và ấn phẩm đó được mua một cách hợp
pháp theo quy định của luật pháp của nước nói trên;
ii).
Bản dịch chỉ dùng cho mục đích phát sóng phục vụ giảng dạy hay cho phổ biến các
thông tin khoa học, kỹ thuật dành cho các chuyên gia của một ngành riêng biệt
nào đó;
iii).
Bản dịch đó chỉ được dùng riêng vào những mục đích nói ở điểm (ii) thông qua
các buổi phát thanh hợp pháp và dành cho thính giả trên lãnh thổ của các nước
nói trên, kể cả việc phát thanh từ các bản ghi âm hay ghi hình hợp pháp và chỉ
dành riêng cho các buổi phát sóng đó;
iv)
Các bản dịch đó đều không được sử dụng cho mục đích thương mại.
b).
Các bản ghi âm hay ghi hình của một bản dịch do một cơ quan phát sóng thực hiện
theo giấy phép được cấp theo quy định của khoản này theo mục đích và quy định
của điểm (a), và nếu cơ quan sở hữu cho phép, cũng có thể được sử dụng bởi bất
kỳ một cơ quan phát sóng nào khác có trụ sở trong nước mà cơ quan có thẩm quyền
đã cấp giấy phép đó.
c)
Nếu đáp ứng được đầy đủ tất cả các tiêu chuẩn và điều kiện nêu trong điểm (a)
thì giấy phép cũng có thể được cấp cho một cơ quan phát sóng để dịch các văn
bản có trong một tác phẩm nghe nhìn nhằm phát hành với mục đích duy nhất là
phục vụ giảng dạy các cấp.
d)
Tuân thủ những quy định ở những điểm từ (a) tới (c), các qui định ở các điểm
khác trên được áp dụng để cấp và thực thi các giấy phép được cấp theo quy định
của khoản này.
1.
Những nước đã đưa ra tuyên bố công nhận các quy định trong Điều này sẽ được
phép thay thế quyền sao in theo qui định ở Điều 9 bằng một qui chế các phép
không độc quyền và bất khả nhượng, do cơ quan có thẩm quyền cấp với những điều
kiện dưới đây và phù hợp với Điều IV.
2(a).
Nếu một tác phẩm tuân thủ quy định của Điều này theo quy định ở khoản 7 và sau
khi đã hết hạn:
i)
Quy định ở khoản 3, tính từ lần xuất bản đầu tiên của tác phẩm; hoặc là,
ii).
Hết một thời hạn dài hơn do Luật pháp Quốc gia nói ở khoản (1) quy định và cũng
được tính từ ngày đó thì nếu ấn bản đó chưa được chính người giữ quyền sở hữu
hoặc người được uỷ thác phát hành tới công chúng ở nước nói trên với giá tương
đương với giá bán thông thường tại nước đó đối với các tác phẩm tương tự hoặc
chưa đưa ra phục vụ giảng dạycó hệ thống, thì bất cứ người dân nào của nước nói
trên cũng có thể xin phép sao in và xuất bản ấn bản đó để bán cùng một giá hoặc
rẻ hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy một cách có hệ thống.
b).
Có thể cấp giấy phép theo những điều kiện được quy định trong Điều này để sao
in và xuất bản một ấn bản đã được phát hành như đã nói ở điểm (a) nếu trong
vòng 6 tháng tính từ khi hết hạn không còn một ấn bản nào để bán cho công chúng
hoặc phục vụ nhu cầu giảng dạy có hệ thống với giá tương đương với giá bán
thông thường tại nước đó đối với các tác phẩm tương tự.
3.
Thời hạn nói ở khoản 2.(a)(i) là 5 năm. Trừ những trường hợp sau đây:
i)
Thời hạn đối với những tác phẩm khoa học tự nhiên kể cả toán học và công nghệ
là 3 năm.
ii).
Đối với các tác phẩm khoa học viễn tưởng, thơ ca, kịch, âm nhạc và các sách về
nghệ thuật, thời hạn là 7 năm.
4(a).
Không cấp giấy phép sau 3 năm, theo quy định của Điều này nếu chưa hết thời hạn
6 tháng:
i)
Kể từ ngày người xin phép làm xong các thủ tục quy định ở Điều IV(1) hay
ii).
Nếu không xác định được danh tính hay địa chỉ của người sở hữu quyền tái bản,
thì thời hạn 6 tháng được tính kể từ khi người xin phép đã gửi đơn lên cơ quan
có thẩm quyền cấp phép theo quy định ở Điều IV(2).
(b)
Trong những trường hợp khác và nếu Điều IV(2) được áp dụng thì giấy phép không
được cấp trước khi kết thúc thời gian chờ đợi là 3 tháng kể từ ngày gửi đơn xin
cấp giấy phép.
(c)
Nếu trong thời gian 6 hoặc 3 tháng chờ đợi theo quy định ở điểm (a) và (b) tác
phẩm được đem bán như đã nói ở khoản 2(a) thì việc cấp giấy phép theo Điều này
bị đình chỉ.
(d)
Việc cấp giấy phép sẽ bị đình chỉ nếu tác giả đã thu hồi tất cả các ấn bản được
phép sao in và xuất bản.
5.
Việc cấp giấy phép sao in và xuất bản bản dịch một tác phẩm theo Điều này cũng
bị đình chỉ trong những trường hợp sau đây:
i)
Khi bản dịch đó không phải do người sở hữu quyền dịch hoặc người được uỷ thác
xuất bản hoặc
ii)
Khi bản dịch không phải là ngôn ngữ thông dụng ở nước xin phép cấp giấy phép.
6.
Nếu các ấn bản của một tác phẩm được người sở hữu quyền tái bản hoặc người được
uỷ thác phát hành ở một nước nói ở khoản (1) tới công chúng hoặc phục vụ giảng
dạy có hệ thống với một giá tương đương với giá bám thông thường đối với những
tác phẩm tương tự, thì mọi giấy phép đã được cấp theo Điều này sẽ bị đình chỉ
nếu ấn bản đó có cùng một ngôn ngữ và cùng một nội dung như ấn bản đã được xuất
bản theo giấy phép. Những ấn bản đã in ra trước khi giấy phép bị đình chỉ có
thể được tiếp tục lưu hành cho đến khi hết.
7(a).
Tuân thủ quy định ở điểm (b) những điều nói về các tác phẩm trong Điều này chỉ
áp dụng đối với các tác phẩm được xuất bản dưới dạng in ấn hay sao in tương tự.
(b)
Điều này cũng được áp dụng cho việc sao bản dưới hình thức nghe nhìn những
băng, phim được thực hiện một cách hợp pháp và được coi là tác phẩm được bảo
hộ. Nó cũng được áp dụng cho việc dịch văn bản kèm theo sang ngôn ngữ thông
dụng trong nước nơi xin giấy phép với điều kiện các băng, phim nói trên được
thực hiện và xuất bản với mục đích duy nhất là dùng cho giảng dạy có hệ thống.
1.
Mọi giấy phép đã nói ở Điều II và Điều III chỉ có thể được cấp nếu người xin
phép theo đúng các thể thức hiện hành ở nước hữu quan, minh chứng được rằng
mình đã xin sự uỷ thác của người sở hữu quyền dịch và xuất bản, hoặc sao in và
xuất bản nhưng đã bị từ chối, hay là sau khi đã làm hết cách mà không tiếp xúc
được với người sở hữu quyền đó. Đồng thời với việc xin phép người xin cũng phải
thông báo cho bất cứ Trung tâm Thông tin Quốc gia hay Quốc tế nào theo như quy
định ở khoản 2.
2.
Nếu không tiếp xúc được với người sở hữu quyền, thì người xin phải gửi bảo đảm
bằng máy bay bản sao các đơn từ đã nộp cho cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép,
cho Nhà xuất bản có tên in trên tác phẩm, cũng như tới Trung tâm Thông tin Quốc
gia hoặc Quốc tế mà Trung tâm này đã được Chính phủ của Quốc gia nơi Nhà xuất
bản đặt trụ sở hoạt động chỉ định bằng một thông báo gửi cho Tổng Giám đốc về
việc đó.
3.
Tên tác giả phải được nêu rõ trên tất cả các ấn phẩm dịch hay của bản sao in
được xuất bản theo giấy phép theo quy định của Điều II hoặc Điều III. Tên tác
phẩm phải được ghi trên ấn phẩm. Nếu là bản dịch thì tên tác phẩm gốc cũng phải
được ghi trên các ấn bản này.
4(a).
Giấy phép được cấp theo Điều II hay Điều III không được bao hàm việc xuất cảng
các ấn bản. Giấy phép chỉ có giá trị cho phép xuất bản các bản dịch hoặc tái
bản trong nội địa của Quốc gia nơi giấy phép đã được cấp.
(b)
Để làm rõ những quy định ở điểm (a) khái niệm xuất cảng bao gồm cả việc gửi các
ấn bản từ một vùng lãnh thổ nào đó tới một nước đã tuyên bố tuân thủ Điều I(5).
(c)
Khi một cơ quan Chính phủ hay một công sở nào khác của nước đã cấp giấy phép
theo Điều II để dịch sang một thứ tiếng khác không phải là tiếng Anh, tiếng
Pháp hoặc tiếng Tây Ban Nha, gửi các ấn bản dịch đã được xuất bản nhờ giấy phép
đó sang một nước khác, thì việc gửi đó sẽ không được xem là xuất cảng như đã
nói ở điểm (a) nếu như những điều kiện sau đây được thoả mãn:
i)
Những người nhận là các cá nhân, công dân của nước có cơ quan có thẩm quyền đã
cấp giấy phép nói trên hoặc là các tổ chức có các công dân đó;
ii)
Các ấn bản đó chỉ dùng với mục đích giảng dạy hoặc nghiên cứu;
iii)
Việc gửi các ấn bản và việc phân phát cho người nhận không có một tính chất vụ
lợi nào; và,
iv)
Nước nhận các phiên bản đó đã ký một Thoả ước với nước nơi có cơ quan có thẩm
quyền đã cấp giấy phép, để được quyền nhận hoặc phân phát hoặc vừa nhận vừa
phân phát, và Chính phủ của nước cấp giấy phép đã thông báo lên Tổng Giám đốc
về Thoả ước đó.
5.
Trên tất cả các ấn bản xuất bản theo giấy phép cấp theo Điều II hay Điều III
đều phải ghi chú bằng thứ ngôn ngữ thích hợp, nêu rõ là các bản đó chỉ được lưu
hành ở nước hay lãnh thổ giấy phép nói trên quy định.
6(a).
Những biện pháp thích đáng sẽ được áp dụng trên bình diện Quốc gia nhằm:
i)
Giấy phép đó mang lại cho người sở hữu quyền dịch hay quyền tái bản một sự đền
bù cân xứng, phù hợp với mức nhuận bút phải trả cho tác giả trong trường hợp
những giấy phép được hai bên trong hai nước hữu quan liên hệ tự do thoả thuận
với nhau;
ii)
Tiền đền bù được trả và chuyển đến cho tác giả. Nếu Quốc gia đó có sự hạn chế
về trao đổi ngoại tệ thì cơ quan có thẩm quyền sẽ cố gắng hết sức bằng cách vận
dụng các guồng máy quốc tế nhằm đảm bảo việc chuyển tiền nhuận bút bằng một
ngoại tệ chuyển đổi được trên thị trường quốc tế hoặc bằng một số tương đương.
(b).
Những biện pháp thích đáng sẽ được áp dụng trên cơ sở Luật pháp Quốc gia để đảm
bảo có được bản dịch đúng, hoặc bản sao in chính xác của tác phẩm.
1(a).
Những nước được quyền tuyên bố sử dụng những quy định ở Điều II, khi phê chuẩn
hay gia nhập Đạo luật này, thay vì tuyên bố đó, có thể:
i)
Ra tuyên bố về quyền dịch theo quy định của Điều 30(2)(a), nếu nước đó tuân thủ
điều này;
ii)
Ra tuyên bố như đã nói ở câu thứ nhất của Điều 30(2)(b) nếu là một nước không
áp dụng điều khoản 30(2)(a), hoặc nước đó không phải là một nước ngoài Liên
hiệp.
(b).
Trong trường hợp một nước không còn được xem là nước đang phát triển theo Điều
I(1), việc tuyên bố tuân thủ khoản này cũng có hiệu lực cho đến khi hết thời
hạn đã quy định ở Điều I(3).
(c)
Nước nào đã ra tuyên bố tuân thủ khoản này, cho dù nước đó có thu hồi tuyên bố
nói trên, cũng không được tuyên bố tuân thủ Điều II.
2.
Tuân thủ quy định ở khoản (3), nước nào đã tuyên bố tuân thủ Điều II thì sau đó
không được tuyên bố tuân thủ khoản (1) nữa.
3.
Một nước khi không còn được coi là một nước đang phát triển theo Điều I(1) chậm
nhất là hai năm trước khi chấm dứt thời hạn quy định ở Điều I(3) có thể ra
tuyên bố tuân thủ câu đầu của Điều 30(2)(b) cho dù nước đó không phải là một
nước thuộc Liên Hiệp. Tuyên bố này có hiệu lực ngay khi hết thời hạn quy định
theo Điều I(3).
1.
Mỗi nước thuộc Liên hiệp, kể từ ngày thông qua Đạo luật này và vào bất kỳ thời
gian nào trước khi bị ràng buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục này đều có
thể tuyên bố:
i)
Nếu là một nước mà khi bị ràng buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục, được
phép sử dụng những khả năng nêu trong Điều I(1), có thể ra tuyên bố rằng mình
sẽ áp dụng những quy định ở Điều II hay Điều III hoặc là cả hai Điều đó cho
những tác phẩm có nước gốc là một nước theo quy định ở điểm (ii) dưới đây, với
điều kiện nước này chấp nhận việc áp dụng các Điều khoản này cho những tác phẩm
đã nói, hoặc là một nước bị ràng buộc bởi các Điều khoản từ 1 đến 21 và Phụ
lục. Tuyên bố nói trên có thể làm theo quy định của Điều V thay cho Điều II;
ii)
Ra tuyên bố rằng mình chấp nhận để các nước đã tuyên bố tuân thủ điểm (i) trên
đây hoặc đã thông báo tuân thủ Điều I, áp dụng Phụ lục này cho những tác phẩm
xuất xứ từ nước mình.
2.
Những tuyên bố tuân thủ khoản (1) phải là một văn bản và phải gửi cho Tổng Giám
đốc. Tuyên bố đó sẽ có hiệu lực kể từ ngày nộp./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét