CÔNG ƯỚC
CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1]
(Ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)
CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC
Với
lòng mong muốn giải quyết, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác với nhau, mọi
vấn đề liên quan đến luật biển, và ý thức được tầm vóc lịch sử của Công ước là
một cống hiến quan trọng vào việc giữ gìn hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất
cả các dân tộc trên thế giới;
Nhận
thấy rằng, những sự kiện mới nảy sinh kể từ các Hội nghị của Liên hợp quốc về
luật biển được nhóm họp tại Giơnevơ năm 1958 và năm 1960, đã làm tăng thêm sự
cần thiết phải có một Công ước mới về luật biển có thể được mọi người chấp
nhận;
Ý
thức rằng, những vấn đề về các vùng biển có liên quan chặt chẽ với nhau và cần
được xem xét một cách đồng bộ;
Thừa
nhận rằng, điều đáng mong muốn là, bằng Công ước với sự quan tâm đúng mức đến
chủ quyền của tất cả các quốc gia, thiết lập được một trật tự pháp lý cho các
biển và đại dương làm dễ dàng cho việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài
nguyên, việc bảo tồn những nguồn lợi sinh vật của các biển và các đại dương,
việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
Cho
rằng, việc thực hiện các mục tiêu này sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự
kinh tế quốc tế đúng đắn và công bằng, trong đó có tính đến các lợi ích và nhu
cầu của toàn thể loài người và đặc biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các
nước đang phát triển, dù có biển hay không có biển;
Mong
muốn phát triển bằng Công ước, các nguyên tắc trong Nghị quyết 2749 (XXV) ngày
17 tháng 12 năm 1970, trong đó Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đặc biệt trịnh
trọng tuyên bố rằng khu vực đáy biển và đại dương, cũng như lòng đất dưới đáy
các khu vực nằm ngoài giới hạn chung của loài người và việc thăm dò, khai thác
khu vực này sẽ được tiến hành vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc
vào vị trí địa lý của các quốc gia;
Tin
tưởng rằng, việc pháp điển hóa và sự phát triển theo chiều hướng tiến hóa của
Luật biển được thực hiện trong Công ước sẽ góp phần tăng cường hòa bình, an
ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các dân tộc phù hợp với các
nguyên tắc công bằng và bình đẳng về quyền, và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc trên thế giới, phù hợp với
các mục tiêu và các nguyên tắc của Liên hợp quốc như đã được nêu trong Hiến
chương;
Khẳng
định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được xử lý bằng
các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung;
Đã thỏa thuận như sau:
ĐIỀU 1. Sử dụng các thuật ngữ và phạm vi áp dụng
1. Những thuật ngữ được sử dụng trong
Công ước cần được hiểu như sau:
1. “Vùng”
(Zone): là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài
phán quốc gia;
2. “Cơ
quan quyền lực” (Autorité): là cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển;
3. “Các
hoạt động được tiến hành trong Vùng” (activités menées dans la Zone): là
mọi hoạt động thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng;
4. “Ô
nhiễm môi trường biển” (Pullution du milieu marin): là việc con người trực
tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao
gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như
gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây
nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả
việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến
đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị
mỹ cảm của biển;
5. a) “Sự nhận chìm” (immersion) là:
i. mọi sự trút bỏ có ý thức xuống biển
các chất thải hoặc các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi
hoặc công trình khác được bố trí ở biển.
ii. mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương
tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí ở biển.
b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm vào:
i. việc vứt bỏ các chất thải hoặc các
chất khác được sản sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khai thác bình
thường của tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được
bố trí trên biển, cũng như các thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc
các chất khác được chuyên chở hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương tiện
bay, giàn nổi hoặc các công trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ các
chất đó, trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó
tạo ra;
ii. việc tàng chứa các chất với mục đích
không phải chỉ là để thải bỏ chúng với điều kiện là việc tàng chứa này không đi
ngược lại những mục đích của Công ước.
2.1 “Các
quốc gia thành viên” (Etats Parties) là những quốc gia đã chấp nhận sự ràng
buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó.
2. Công ước được áp dụng mulatis
mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể nói
trong Điều 305 khoản 1, điểm b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của Công
ước, theo đúng với các điều kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn
đó, thuật ngữ “quốc gia thành viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này.
Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở
rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia
quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh
hải (merterritoriale)
Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời
trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất của biển này.
Chủ quyền của Công ước và các quy tắc
khác của pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 3. Chiều rộng của lãnh hải
Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều
rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ
sở được vạch ra theo đúng Công ước.
ĐIỀU 4. Ranh giới phía ngoài của lãnh hải
Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một
đường mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng
cách bằng chiều rộng của lãnh hải.
ĐIỀU 5. Đường cơ sở thông thường
Trừ khi có quy định trái ngược của Công
ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước
triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn
đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu
tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cũng
của các mỏm đá, như đã được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển
chính thức công nhận.
1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi
lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương
pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn
định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có
thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía
trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc
gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.
3. Tuyến các đường cơ sở không được đi
chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ
sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo
đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có
những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc
việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
5. Trong những trường hợp mà phương pháp
kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường
cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực
tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ
ràng.
6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một
quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi
biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.
1. Trừ trường hợp đã được quy định ở
Phần IV, các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy
của quốc gia.
2. Khi một đường cơ sở thẳng được vạch
ra theo đúng phương pháp được nói ở Điều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước
đó chưa được coi là nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước
vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.
Nếu một con sông đổ ra biển mà không tạo
thành vụng thì đường cơ sở là một đường thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối
liền các điểm ngoài cùng của ngấn nước triều thấp nhất ở hai bên bờ sông.
1. Điều này chỉ liên quan đến những vịnh
mà bờ vịnh thuộc một quốc gia duy nhất.
2. Trong Công ước, “Vịnh” (baie) cần
được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt
vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm
đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó
được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển.
Tuy nhiên, một vũng lõm chỉ được coi là một vịnh nếu như diện tích của nó ít
nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ
ngang qua cửa vào của vùng lõm.
3. Diện tích của một vùng lõm được tính
giữa ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối
liền các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có
các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn nói trên có đường kính
bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích của
các đảo nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
4. Nếu khoảng cách giữa các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên một vịnh không vượt quá 24 hải
lý, thì đường phân giới có thể được vạch giữa hai ngấn nước triều thấp nhất này
và vùng nước ở phía bên trong đường đó được coi là nội thủy.
5. Khi khoảng cách giữa các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên của một vịnh vượt quá 24 hải
lý, thì được kẻ một đoạn đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao
cho phía trong của nó có một diện tích nước tối đa.
6. Các quy định trên đây không áp dụng
đối với các vịnh gọi là “vịnh lịch sử” và cũng không áp dụng đối với các trường
hợp làm theo phương pháp đường cơ sở thẳng được trù định trong Điều 7.
Để ấn định ranh giới lãnh hải, các công
trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô ra
ngoài khơi xa nhất, được coi là thành phần của bờ biển. Các công trình thiết bị
ở ngoài khơi xa bờ biển và các đảo nhân tạo không được coi là những công trình
thiết bị cảng thường xuyên.
Các vũng tàu được dùng thường xuyên vào
việc xếp dỡ hàng hóa và làm khu neo tàu, bình thường nằm hoàn toàn hoặc một
phần ở ngoài đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải cũng được coi như là bộ
phận của lãnh hải.
ĐIỀU 13. Bãi cạn lúc chìm lúc nổi
1. “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi”
(haut-fonds découvrants) là những vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh,
khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước.
Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách
không vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên
các bãi cạn này có thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh
hải.
2. Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn
toàn ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh
hải, thì chung không có lãnh hải riêng.
ĐIỀU 14. Sự kết hợp các phương pháp để vạch các đường
cơ sở
Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh
khác nhau, có thể vạch ra các đường cơ sở theo một hay nhiều phương pháp được
trù định ở các điều nói trên.
ĐIỀU 15. Việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các
quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc
đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường
trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận
ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những
danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh
giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác.
ĐIỀU 16. Hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý
1. Các đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải được vạch ra theo đúng các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới
hình thành từ các điều đó và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra đúng
theo các Điều 12 và 15, được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác
định được vị trí của nó. Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa
độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng
thủ tục các hải đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên
hợp quốc một bản để lưu chiếu.
Mục 3. ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI TRONG LÃNH HẢI
TIỂU MỤC A. CÁC QUY TẮC
ÁP DỤNG CHO TẤT CẢ CÁC LOẠI TÀU THUYỀN
ĐIỀU 17. Quyền đi qua không gây hại
Với điều kiện phải chấp hành Công ước,
tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng
quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải.
ĐIỀU 18. Nghĩa của thuật ngữ “Đi qua” (Passage)
1. “Đi
qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội
thủy, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội
thủy; hoặc
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc
đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay một công trình cảng trong nội thủy.
2. Việc đi qua phải liên tục và nhanh
chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ
trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một
trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu
thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn.
ĐIỀU 19. Nghĩa của thuật ngữ “đi qua không gây hại”
(Passage inoffensif)
1. Việc đi qua là không gây hại, chừng
nào nó không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven
biển. Việc đi qua không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy
định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của một tàu thuyền nước
ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven
biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt
động nào sau đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại
chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay
dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu
trong Hiến chương Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ
kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho
quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu
các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu
các phương tiện quân sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc
phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay
đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y
tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi
phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ
thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc
gia ven biển;
l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp
quan hệ đến việc đi qua.
ĐIỀU 20. Tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác
Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương
tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch.
ĐIỀU 21. Các luật và quy định của quốc gia ven biển
liên quan đến việc đi qua không gây hại
1. Quốc gia ven biển có thể định ra, phù
hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế,
các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở trong lãnh hải
của mình về các vấn đề sau đây:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao
thông đường biển;
b) Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống
bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật
và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;
f) Gìn giữ môi trường của quốc gia ven
biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc
thủy văn;
h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật
và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển;
2. Các luật và quy định này không áp
dụng đối với cách thiết kế, việc đóng hoặc đối với trang bị của tàu thuyền nước
ngoài, nếu chúng không có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay quy phạm quốc tế
được chấp nhận chung.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng
thủ tục các luật và quy định này.
4. Khi thực hiện quyền đi qua không gây
hại ở trong lãnh hải tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các luật và quy định
này, cũng như tất cả các quy định quốc tế được chấp nhận chung có liên quan đến
việc phòng ngừa đâm va trên biển.
ĐIỀU 22. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia
luồng giao thông ở trong lãnh hải
1. Quốc gia ven biển khi cần bảo đảm an
toàn hàng hải có thể đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi qua không gây hại trong
lãnh hải của mình phải đi theo các tuyến đường do mình ấn định và phải tôn
trọng các cách bố trí phân chia các luồng giao thông do mình quy định nhằm điều
phối việc qua lại các tàu thuyền.
2. Đặc biệt, đối với các tàu xi-teec
(navires-citernes), các tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hại nhân và các tàu
chở các chất hay các nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy hiểm hay
độc hại, có thể bị bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này.
3. Khi ấn định các tuyến đường và quy
định cách bố trí phân chia luồng giao thông theo điều này, quốc gia ven biển
lưu ý đến:
a) Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có
thẩm quyền;
b) Tất cả các luồng lạch thường được sử
dụng cho hàng hải quốc tế;
c) Các đặc điểm riêng của một số loại
tàu thuyền và luồng lạch;
d) Mật độ giao thông.
4. Quốc gia ven biển ghi rõ các tuyến
đường và các cách phân chia luồng giao thông nói trên lên hải đồ và công bố
theo đúng thủ tục.
Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ
chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng
xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua
không gây hại trong lãnh hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng
những biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối
với loại tàu thuyền đó.
ĐIỀU 24. Các nghĩa vụ của quốc gia ven biển
1. Quốc gia ven biển không được cản trở
quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải, ngoài
những trường hợp mà Công ước đã trù định. Đặc biệt khi áp dụng Công ước, quốc
gia ben biển không được:
a) Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài
những nghĩa vụ dẫn đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua
không gây hại của các tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay
về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất định hay
đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định.
2. Quốc gia ven biển thông báo thích
đáng mọi nguy hiểm về hàng hải của mình biết trong lãnh hải của mình.
ĐIỀU 25. Quyền bảo vệ các quốc gia ven biển
1. Quốc gia ven biển có thể thi hành các
biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây
hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội
thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven
biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi
phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép
vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời
đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài
tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần
thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không được phân
biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài.
Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 26. Lệ phí đối với tàu thuyền nước ngoài
1. Không được thu lệ phí đối với tàu
thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải, nếu không phải vì lý do trả công cho những
dịch vụ riêng đối với những tàu thuyền này. Khi thu lệ phí đó không được phân
biệt đối xử.
TIỂU MỤC B. QUY TẮC ÁP
DỤNG CHO TÀU BUÔN VÀ TÀU NHÀ NƯỚC DÙNG VÀO MỤC ĐÍCH THƯƠNG MẠI
ĐIỀU 27. Quyền tài phán hình sự ở trên một tàu nước
ngoài
1. Quốc gia ven biển không được thực
hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải
để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự
xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng
đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại
hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức
ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự
giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để
trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền
của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định
nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước
ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu ở các
khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước
về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của
quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao
hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên
trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các
biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể
thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến
các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay
trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng phần
V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu
nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự
thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà
không đi vào nội thủy.
ĐIỀU 28. Quyền tài phán dân sự đối với các tàu thuyền
nước ngoài
1. Quốc gia ven biển không được bắt một
tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình của
nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu
đó.
2. Quốc gia ven biển không thể áp dụng
các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures conservatoires) về mặt
dân sự đối với con tàu này, nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay các
trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng
biển của quốc gia ven biển.
3. Khoản 2 không đụng chạm đến quyền của
quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do
luật trong nước của quốc gia này quy định đối với tàu thuyền nước ngoài đang
đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy.
ĐIỀU 29. Định nghĩa “tàu chiến” (navire de guerre)
Trong Công ước, « tàu chiến » là mọi tàu
thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc
trưng của các tàu thuyền quân sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải
quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các
sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo các
điều lệnh kỷ luật quân sự.
ĐIỀU 30. Tàu chiến không tuân thủ các luật và quy định
của quốc gia ven biển
Nếu một tàu chiến không tôn trọng các
luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh
hải và bất chấp yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo
cho họ, thì quốc gia ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay
lập tức.
Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm
quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do
một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào những mục
đích không thương mại vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có
liên quan đến việc đi qua lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước hoặc
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A
và ở các Điều 30 và 31, không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến các
quyền miễn trừ mà các tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục
đích không thương mại được hưởng.
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải
của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát
cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các
luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong
lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các
luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá
24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.
EO BIỂN DÙNG CHO HÀNG HẢI QUỐC TẾ
ĐIỀU 34. Chế độ pháp lý của vùng nước các eo biển dùng
cho hàng hải quốc tế
1. Chế độ đi qua các eo biển dùng cho
hàng hải quốc tế mà phần này quy định không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện
nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc
quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng
nước ấy, ở đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời ở
trên các vùng nước đó.
2. Các quốc gia ven eo biển thực hiện
chủ quyền hay quyền tài phán của mình trong những điều kiện do các quy định của
phần này và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 35. Phạm vi áp dụng của phần này
Không một quy định nào của phần này được
đụng chạm đến:
a) Nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi
việc vạch ra một tuyến đường cơ sở thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7
đã gộp vào trong nội thủy những vùng nước trước đây không được coi là nội thủy;
b) Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm
ngoài lãnh hải của các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay
thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc
đi qua đã được quy định toàn bộ hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc
biệt nhằm vào các eo biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực.
Phần này không áp dụng đối với các eo
biển dùng cho hàng hải quốc tế, nếu như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con
đường ở biển cả hay một con đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận
tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn; về các con
đường này, những phần khác tương ứng của công ước có thể được áp dụng, kể cả
các quy định liên quan đến tự do hàng hải và tự do hàng không.
ĐIỀU 37. Phạm vi áp dụng của mục này
Mục này được áp dụng đối với các eo biển
dùng cho hàng hải quốc tế giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền
về kinh tế và giữa một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh
tế.
1. Trong các eo biển nói ở Điều 37, tất
cả các tàu thuyền và phương tiện bay đều được hưởng quyền quá cảnh mà không bị
cản trở, trừ trường hợp hạn chế là quyền đó không được áp dụng cho các eo biển
do lãnh thổ đất liền của một quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo
thành, khi ở ngoài khơi hòn đảo đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một
con đường đi qua một vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về
phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn.
2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện, theo đúng phần này, quyền tự
do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là đi qua liên tục và nhanh
chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh
tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế. Tuy
nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cấm việc đi qua eo
biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề rời khỏi hoặc lại đến
lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của quốc gia đó.
3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm
vi thực hiện quyền quá cảnh qua các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác
có thể áp dụng của Công ước.
ĐIỀU 39. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện
bay trong khi quá cảnh
1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh,
các tàu thuyền và phương tiện bay:
a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm
trễ;
b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để
chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia
ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế
được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
c) Không được có hoạt động nào khác
ngoài những hoạt động cần cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương
thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác
của phần này.
2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền
tuân thủ:
a) Các quy định, thủ tục và tập quán
quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc
quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục và tập quán
quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do
các tàu thuyền gây ra.
3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện
bay:
a) Tôn trọng các quy định về hàng không
do Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay
dân dụng; bình thường các phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện
pháp an toàn do các quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các
phương tiện bay cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài
mà cơ quan có thẩm quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao
thông hàng không đã phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.
ĐIỀU 40. Nghiên cứu và đo đạc thủy văn
Trong khi quá cảnh, các tàu thuyền nước
ngoài, kể cả các tàu thuyền chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học biển hay cho đo
đạc thủy văn, không được dùng để nghiên cứu hoặc đo đạc nếu không được phép
trước của các quốc gia ven eo biển.
1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven
eo biển khi có nhu cầu bảo đảm an toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có
thể ấn định các tuyến đường và quy định các cách phân chia luồng giao thông.
2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh
đòi hỏi và sau khi đã công bố theo đúng thủ tục biện pháp này, có thể ấn định
các tuyến đường mới hay quy định các cách mới phân chia luồng giao thông thay
thế mọi tuyến đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông đã được ấn định hay
quy định trước đó.
3. Các tuyến đường và cách bố trí phân
chia luồng giao thông cần phải phù hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận
chung.
4. Trước khi ấn định hay thay thế các
tuyến đường hoặc trước khi quy định hay thay thế các cách phân chia luồng giao
thông, các quốc gia ven eo biển gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có
thẩm quyền thông qua. Tổ chức này chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách
phân chia luồng giao thông nào đã có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo
biển; khi đó, các quốc gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến
đường và các cách phân chia luồng giao thông này.
5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo
biển các tuyến đường hay cách phân chia luồng giao thông có liên quan đến vùng
nước của nhiều quốc gia ven eo biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để
soạn thảo các đề nghị, có sự tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm
quyền.
6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng
lên các hải đồ tất cả các tuyến đường hay tất cả các cách phân chia luồng giao
thông mà mình đã thiết lập và công bố các hải đồ này theo đúng thủ tục.
7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn
trọng các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông đã được thiết lập
theo đúng điều này.
ĐIỀU 42. Các luật và quy định của quốc gia ven eo biển
liên quan đến việc quá cảnh
1. Với điều kiện chấp hành mục này, các
quốc gia ven eo biển có thể ra các luật và quy định liên quan đến việc đi qua
eo biển về các vấn đề sau:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao
thông trên biển như đã được nêu ở Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường, bằng cách thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc
trút bỏ dầu, cặn dầu và các chất độc hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các
tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa
người lên xuống tàu trái với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay
nhập cư của quốc gia ven eo biển.
2. Các luật và quy định này không được
dẫn đến bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế
giữa các tàu thuyền nước ngoài, việc áp dụng các luật và quy định này không
được có tác dụng ngăn cản, hạn chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện quyền
quá cảnh như đã được xác định trong mục này.
3. Các quốc gia ven eo biển công bổ
những luật và quy định này theo đúng thủ tục.
4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực
hiện quyền quá cảnh qua eo biển phải tuân thủ các luật và quy định này.
5. Trong trường hợp một tàu hay một
phương tiện bay được hưởng quyền miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy
định này, quốc gia mà con tàu mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải
chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo
biển.
Các quốc gia sử dụng một eo biển và các
quốc gia ven eo biển cần thỏa thuận hợp tác với nhau để:
a) Thiết lập và bảo dường các thiết bị
an toàn và bảo đảm hàng hải cần thiết cũng như các thiết bị khác đặt trong eo
biển dùng để làm dễ dàng cho hàng hải quốc tế, và
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra.
ĐIỀU 44. Các nghĩa vụ của các quốc gia ven eo biển
Các quốc gia ven eo biển không được gây
trở ngại cho việc quá cảnh và phải thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với
hàng hải trong eo biển hoặc đối với việc bay trên eo biển mà các quốc gia này
nắm được. Việc thực hiện quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.
1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu
ở Mục 3 của phần II được áp dụng trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ
quá cảnh theo Điều 38, khoản 1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia
với một bộ phận của biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia
khác.
2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây
hại trong các eo biển không thể bị đình chỉ.
ĐIỀU 46. Sử dụng các thuật ngữ
Trong công ước:
a) “Quốc
gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi
một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa.
b) “Quần
đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các
vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến
mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị,
hay được coi như thế về mặt lịch sử.
1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các
đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất
và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường
cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích
nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.
2. Chiều dài của các đường cơ sở này không
vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao
quanh một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở này không được
tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay
xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các
đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ
trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách
không vượt quá chiều rộng lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo không được áp
dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia
khác bị tách rời với biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo
của một quốc gia quần đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận,
thì các thuyền và mọi lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng
theo truyền thống ở trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy
sinh từ các điều ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn
trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng
nước so với diện tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các
bãi đá ngầm bao quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền
đại dương có sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi
đảo đá vôi hay một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi
như là một bộ phận của đất.
8. Các đường cơ sở được vạch ra theo
đúng điều này phải được ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị
trí. Bản kê tọa độ địa lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử
dụng có thể thay thế cho các bản đồ này.
9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng
thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên
hợp quốc một bản để lưu chiểu.
ĐIỀU 48. Đo chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng
đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa
Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp,
vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần
đảo theo đúng Điều 47.
1. Chủ quyền của quốc gia quần đảo mở
rộng ra vùng nước ở phía trong đường cơ sở quần đảo được vạch ra theo đúng Điều
47, được gọi là vùng nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và
khoảng cách xa bờ của chúng thế nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng
trời trên vùng nước quần đảo, cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương
ứng và đến các tài nguyên ở đó.
3. Chủ quyền này được thực hiện theo các
điều kiện nêu trong phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước quần đảo do
phần này quy định không đụng chạm về bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ
pháp lý của vùng nước quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến việc quốc gia
quần đảo thực hiện chủ quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời phía trên,
đáy nước vùng đó và lòng đất tương ứng cũng như đối với các tài nguyên ở đó.
ĐIỀU 50. Hoạch định ranh giới nội thủy
Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc
gia quần đảo có thể vạch những đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy
của mình theo đúng các Điều 9, 10, và 11.
1. Không phương hại đến Điều 49, các
quốc gia quần đảo tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc
gia khác và thừa nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt
động chính đáng của những quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước
quần đảo và quốc gia quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và
các hoạt động này, kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện
các quyền và các hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc
gia nào trong các quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa
các quốc gia đó. Các quyền này không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc
gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn trọng các
dây cáp ngầm hiện có của những quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc
gia quần đảo mà không đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép
bảo dưỡng và thay thế các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước
về vị trí của chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến
hành.
ĐIỀU 52. Quyền đi qua không gây hại
1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và
không phương hại đến Điều 50, tàu thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng
quyền đi qua không gây hại trong vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3
phần II.
2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời
đình chỉ việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực
nhất định thuộc vùng nước quần đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để
đảm bảo an ninh của nước mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử nào về mặt
pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này
chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 53. Quyền đi qua vùng nước quần đảo
1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh
hải tiếp liền, quốc gia quần đảo có thể ấn định các đường hàng hải và các đường
hàng không ở vùng trời phía trên các đường này để các tàu thuyền và phương tiện
bay nước ngoài được đi qua nhanh chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện
bay được hưởng quyền đi qua quần đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường
hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc
các tàu thuyền và phương tiện bay thực hiện không bị cản trở, theo phương thức
hàng hải, hàng không bình thường và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và
hàng không của mình, với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng
giữa một điểm của biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và các đường hàng
không đi qua các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía
trên phải bao gồm tất cả các con đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong
vùng nước quần đảo và vùng trời phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất
cả các luồng lạch thường dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập
nhiều con đường thuận tiện như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và hàng không này
được xác định qua hàng loạt các đường trục liên tục nối liền các điểm vào với
các điểm ra của chúng. Trong quá trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay
không được đi chệch các đường trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền
và phương tiện bay này không được đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng
cách giữa những điểm gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn định các
đường hàng hải theo đúng điều này cũng có thể quy định các cách phân chia luồng
giao thông nhằm bảo đảm an toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp ở
bên trong các con đường này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần
đảo, sau khi đã công bố theo đúng thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải
mới hay quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi
con đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập
từ trước.
8. Các đường hàng hải và cách phân chia
luồng giao thông đó phải phù hợp với quy định quốc tế được chấp nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay thế các đường
hàng hải hoặc khi quy định hay khi thay thế các cách bố trí phân luồng giao
thông, quốc gia quần đảo gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm
quyền để được chấp nhận. Tổ chức quốc tế này chỉ có thể được chấp thuận các
đường hàng hải và các cách bố trí phân chia luồng giao thông mà họ đã có thể
thỏa thuận với quốc gia quần đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy
định hay thay thế các đường hàng hải và các cách phân chia luồng giao thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên
các hải đồ được công bố theo đúng thủ tục các đường trục của các đường hàng hải
mà quốc gia đó ấn định và các cách phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó
quy định.
11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu
thuyền tôn trọng các đường hàng hải và các cách chia phân luồng giao thông được
thiết lập theo đúng điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định
các đường hàng hải hay các đường hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo
có thể thực hiện bằng cách sử dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và
hàng không quốc tế.
Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng
Mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua
vùng quần đảo.
ĐIỀU 55. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền về
kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng
nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý
riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia
ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp
của Công ước điều chỉnh.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc
gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc
thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc
không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này
vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy
định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo,
các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do
Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi
thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven
biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù
hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
ĐIỀU 57. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở
rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
ĐIỀU 58. Các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia
khác trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất
cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều kiện trong
những quy định thích hợp của Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng
hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền
tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền
với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của
Công ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện
bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các
quy tắc thích hợp khác của pháp luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền
kinh tế trong chừng mực mà chúng không mâu thuẫn với phần này.
3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi
thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia
phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các
luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của
Công ước và trong chừng mực mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần
này và với các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
Trong những trường hợp Công ước không
quy định rõ các quyền hay quyền tài phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế
cho quốc gia ven biển hay cho các quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi
ích của quốc gia ven biển với lợi ích của một hay nhiều quốc khác thì sự xung
đột này phải được giải quyết trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi
hoàn cảnh thích đáng, có tính đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan
đó đối với các bên tranh chấp và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế.
ĐIỀU 60. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình
trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc
gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây
dựng, khai thác và sử dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào
các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây
trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán
đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về
mặt các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết
bị và công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các
phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công
trình nói trên cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không
dùng đến nữa cần được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những
quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt
ra về mặt đó. Khi tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi
trường biển, các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích
đáng về vị trí, kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị
hoặc công trình chưa được tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể
lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu
vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có
thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an
toàn của các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng
của những khu vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được.
Các khu vực an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính
chất và chức năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và
không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các
thiết bị và các công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo
nhân tạo, thiết bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc
tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến
nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng
các khu vực an toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung
liên quan đến hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các
công trình và các khu vực an toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân
tạo, thiết bị hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung
quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho
việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải
quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và
công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng
và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới
lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.
ĐIỀU 61. Bảo tồn các nguồn lợi sinh vật
1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng
đánh bắt có thể chấp nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc
quyền về kinh tế của mình.
2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu
khoa học đáng tin cậy nhất mà mình có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo
tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc
quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven
biển và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực
hay thế giới, hợp tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này.
3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì
hay khôi phục các đàn (stocks) hải sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng
suất ổn dịnh tối đa, có tính đến các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể
cả các nhu cầu kinh tế của tập thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các
nhu cầu riêng của các quốc gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức
đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm
quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế
giới.
4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc
gia ven biển chú ý đến tác động của chúng đối với các loài quần hợp với các
loài được khai thác hoặc phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục
các đàn (stocks) của những loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm
việc sinh sản của chúng khỏi nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học có thể sử
dụng, các số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và
các số liệu khác liên quan đến việc bảo tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến
và trao đổi đều đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các
tổ chức phân khu vực hoặc thế giới và khi có điều kiện thì tiến hành với sự
tham gia của tất cả các quốc gia hữu quan, nhất là các quốc gia có công dân
được phép đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế.
ĐIỀU 62. Khai thác tài nguyên sinh vật
1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu
là tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật
của vùng đặc quyền về kinh tế mà không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác định khả năng
của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về
kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể
chấp nhận thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc
các thỏa thuận khác và theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định
nói ở khoản 4, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như
vậy, cần đặc biệt quan tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc
gia đang phát triển nói trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào
hoạt động trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven
biển tính đến tất cả các yếu tố thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các
tài nguyên sinh vật thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích
quốc gia khác của nước mình; các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia
đang phát triển trong khu vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của
số dư, và sự cần thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế
trong các quốc gia nào có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu
vực hoặc đã đóng góp nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks)
hải sản.
4. Công dân của các quốc gia khác khi
tiến hành đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện
pháp bảo tồn và các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và
quy định của quốc gia ven biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công
ước và đặc biệt có thể đề cập các vấn đề sau đây:
a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay
tàu thuyền và phương tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả
khác, trong trường hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là
một sự đóng góp thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát
triển kỹ thuật của công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh
bắt và ấn định tỉ lệ phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm
đàn hải sản riêng biệt hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong
một khoảng thời gian nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công
dân của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực
đánh bắt, kiểu, cỡ và số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và
số lượng tàu thuyền đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật
khác có thể được đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt
phải báo cáo, đặc biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và
sức đánh bắt và thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép
và dưới sự kiểm soát của quốc gia ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể
cả việc lấy mẫu các thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các
số liệu khoa học có liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan
sát viên hay thực tập sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản
phẩm đánh bắt được của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan
đến các xí nghiệp liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào
tạo nhân viên, về chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả
việc đẩy mạnh khả năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo
đúng thủ tục các luật và quy định mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý.
1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc
những đàn (stocks) các loài quần hợp ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của
nhiều quốc gia ven biển, các quốc gia này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung
gian của các tổ chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về
các biện pháp cần thiết nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển
các đàn cá đó mà không phương hại đến các quy định khác của phần này.
2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn
các loài quần hợp đồng thời ở trong vùng đặc quyền về kinh tế và ở trong một
khu vực tiếp liền với vùng đó, quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác
các đàn này ở trong khu vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của
các tổ chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện
pháp cần thiết để bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền.
ĐIỀU 64. Các loài cá di cư xa (Grands migranteurs)
1. Quốc gia ven biển và các quốc gia
khác có công dân chuyên đánh bắt trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở
bảng danh mục của Phụ lục I, cần trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức
quốc tế thích hợp, hợp tác với nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói
trên và đẩy mạnh việc khai thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở
trong cũng như ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có
tổ chức quốc tế thích hợp, thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công
dân khai thác các loài cá đó trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ
chức như thế và tham gia vào khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy
định khác của phần này.
ĐIỀU 65. Loài có vú ở biển (Mammiferes marins)
Không một quy định nào của phần này hạn
chế quyền của một quốc gia ven biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác
các loài có vú ở biển chặt chẽ hơn những quy định của phần này, cũng như hạn
chế thẩm quyền của một tổ chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác
với nhau nhằm bảo đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua
trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý
và nghiên cứu loài cá voi.
ĐIỀU 66. Các đàn cá vào sông sinh sản (Stocks de
poissons anadromes)
1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó
các đàn cá (Poissons anadromes) vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan
tâm đến các đàn cá này và phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào
sông sinh sản cần chăm lo đến việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành
những biện pháp thích hợp quy định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm
bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt
nói ở khoản 3, điểm
b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định
tổng số được phép đánh bắt các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của
họ, sau khi đã tham khảo các quốc gia nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác
các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào
sông sinh sản trong các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng
đặc quyền về kinh tế, trừ các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể
dẫn đến những rối loạn kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn
gốc. Đối với việc đánh bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc
quyền về kinh tế, các quốc gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa
thuậ về các thể thức và điều kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến
các đòi hỏi của việc bảo tồn và các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn
(stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt
đến mức tối thiểu những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến
hành khai thác các loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của
các quốc gia này và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả
các khu vực mà các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia
qua sự thỏa thuận với các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi
phục các đàn cá vào sông sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho
các biện pháp này; các quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt
trong việc khai thác các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến
các đàn cá vào sông sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua
sự thỏa thuận giữa quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di
cư đến các vùng nước hoặc đi qua các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài
của vùng đặc quyền về kinh tế của một quốc gia không phải là quốc gia nguồn
gốc, quốc gia này hợp tác với quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các
đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào
sông sinh sản và các quốc gia khác đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm
áp dụng điều này, nếu có thể được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực.
ĐIỀU 67. Các loài cá ra biển sinh sản (espèces
catadromes)
1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng
nước của mình loài cá ra biển sinh sản sống phần lớn cuộc đời của chúng chịu
trách nhiệm quản lý chúng và chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi
vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các loài cá ra
biển sinh sản trong những vùng nước bên trong các ranh giới ngoài của các vùng
đặc quyền về kinh tế. Trong các vùng đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được
tiến hành theo điều này và các quy định khác của Công ước liên quan đến việc
đánh bắt trong các vùng này.
3. Trong những trường hợp mà các loài cá
ra biển sinh sản, dù đã đến hay chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc
quyền về kinh tế của một quốc gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả
việc khai thác, được quy định qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và
quốc gia hữu quan kia. Thỏa thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các
loài cá được xem xét và có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về
việc bảo tồn các loài này.
ĐIỀU 68. Các loài định cư (espèces sédentaires)
Phần này không áp dụng đối với các loài
định cư, như đã được quy định ở Điều 77, khoản 4.
ĐIỀU 69. Quyền của các quốc gia không có biển
1. Một quốc gia không có biển có quyền
tham gia, theo một thể thức công bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các
tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển
trong cùng một phân khu vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và
địa lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các
Điều 61 và 62.
2. Các điều kiện và các thể thức của
việc tham gia này được các quốc gia hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay
đôi, phân khu vực hay khu vực, đặc biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác
có hại cho cộng đồng những người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các
quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo
đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi,
phân phu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật
của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển
khác hoặc các quốc gia bất lợi về địa lý tham gia vào việc khai thác các tài
nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần
thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia
này một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở
các quốc gia được xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc
gia ven biển cho phép một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ
khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các
quốc gia hữu quan khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân
khu vực hoặc khu vực một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển
không có biển trong cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích
hợp vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh
tế của các quốc gia ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các
hoàn cảnh và điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy
định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát triển không có biển
chỉ có quyền tham gia khai thác các tài nguyên sinh vật theo điều này, trong
các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng
phân khu vực hay khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho
các quốc gia khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh
tế của mình, đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại
đối với cộng đồng những người đánh bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong
các quốc gia có công dân vẫn thường tiến hành việc đánh bắt trong vùng.
5. Các quy định nói trên được áp dụng
không phương hại đến các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực
hay khu vực, mà ở đó các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia không
có biển ở cùng phân khu vực hay khu vực đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên
để khai thác các tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 70. Quyền của các quốc gia bất lợi về địa lý
1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có
quyền tham gia, theo một thể thức công bằng, vào việc khai thác một phần thích
hợp số dư của những tài nguyên sinh vật trong các vùng đặc quyền về kinh tế của
các quốc gia ven biển ở cùng phân khu vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm
kinh tế và địa lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều
này và các Điều 61 và 62.
2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia
bất lợi về địa lý” có nghĩa là các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven
bờ một biển kín hoặc nửa kín, mà vị trí địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc
vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế
của các quốc gia khác trong phân khu vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực
phẩm cung cấp cho dân cư hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia
ven biển không thể có một vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức của việc
tham gia đó được các quốc gia hữu quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận
tay đôi, phân khu vực hay khu vực, đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại
cho cộng đồng những người đánh bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc
gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý,
theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay
đôi, phân khu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh
vật của vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý
khác và các quốc gia không có biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh
vật của vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh
cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu
một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư
ở các quốc gia được xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc
gia ven biển cho phép một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ
khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các
quốc gia hữu quan khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân
khu vực hay khu vực một cách công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển
bất lợi về địa lý trong cùng một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách
thích hợp vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền
về kinh tế của các quốc gia ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính
đến các hoàn cảnh và các điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng
điều quy định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3.
5. Các quốc gia phát triển bất lợi về
địa lý chỉ có quyền tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật, theo điều
này, trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia phát triển ở cùng một
phân khu vực hay khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi
cho các quốc gia khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền
kinh tế của mình, đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác
hại đối với cộng đồng những người đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế
trong các quốc gia có công dân vẫn thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được áp dụng không
phương hại đến các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc
khu vực mà ở đó các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia bất lợi về
địa lý trong cùng khân khu vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để
khai thác các tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 71. Trường hợp các Điều 69 và 70 không thể áp
dụng được
Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với
các quốc gia ven biển có nền kinh tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác
tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 72. Những hạn chế về chuyển giao các quyền.
1. Các quyền khai thác các tài nguyên
sinh vật nêu ở các Điều 69 và 70 không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp
cho các quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia này, dù bằng con
đường cho thuê hay bằng giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên
doanh hay bằng bất cứ một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự
chuyển giao như thế, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác.
2. Điều quy định trên không ngăn cấm các
quốc gia hữu quan nhận của quốc gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp
về kỹ thuật hay tài chính nhằm làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ
theo đúng Điều 69 và 70, với điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng
nói ở khoản 1.
ĐIỀU 73. Thi hành các luật và quy định của quốc gia
ven biển
1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc
chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của
vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần
thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm
việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo
đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn
thủy thủ của chiếc tàu này.
3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù
định đối với những vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng
đặc quyền về kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc
gia hữu quan có thỏa thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào
khác.
4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu
thuyền nước ngoài, quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ
biết, bằng các con đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế
tài có thể sẽ được tuyên bố sau đó.
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc
quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được
thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu
ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận
trong một thời gian hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở
phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở
khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết
sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương
hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ
này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực
giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới
vùng đặc quyền về kinh tế được giải quyết theo đúng điều ước đó.
ĐIỀU 75. Các hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các
ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh
giới được vạch theo đúng Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp
để xác định được vị trí của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh giới ngoài hay
các đường hoạch định ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ
địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng
thủ tục các bản đồ hay bản kê các tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp
quốc một bản để lưu chiểu.
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven
biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia
đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó
cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng
cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài
các giới hạn nói ở các khoản từ 4 đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới
nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với
thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao
gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng,
cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển
xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7,
bằng cách nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất
cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa
hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7,
bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại,
chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy
biển, đường ranh giới ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4,
điểm a), điểm nhỏ i) và
ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường
đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách
không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi
ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp
dụng cho các địa hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của
rìa lục địa, như các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới
ngoài thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác
định bằng hệ tọa độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những
thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200
hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới
thềm lục địa được thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng
về địa lý. Ủy ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề
liên quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới
do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có
tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký
Liên hợp quốc các bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc
địa, chỉ rõ một cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình.
Tổng thư ký công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề
hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc
đối diện nhau.
ĐIỀU 77. Các quyền của các quốc gia ven biển đối với
thềm lục địa
1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền
thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên
thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất
đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không
khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến
hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối
với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng
như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này
bao gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên
không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh
vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt
được, hoặc nằm bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả
năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy
biển.
1. Các quyền của quốc gia ven biển đối
với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên
hay của vùng trời trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các
quyền của mình đối với thềm lục địa không gây thiệt hại đến hàng hải hay các
quyền và các tự do khác của các nước khác đã được công ước thừa nhận, cũng
không được cản trở việc thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch
được.
ĐIỀU 79. Các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa
1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các
dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này.
2. Trong điều kiện thi hành các biện
pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm
lục địa và ngăn chặn, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia
ven biển không được cản trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp
đó.
3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần
được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.
4. Không một quy định nào ở phần này
đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện đối với các
đường dây cáp hay các đường ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng
như, không đụng chạm đến đường tài phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn
được đặt, hoặc sử dụng trong khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục địa của mình
hay việc khai khác tài nguyên thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các
đảo nhân tạo, thiết bị hay công trình thuộc quyền tài phán của quốc gia này.
5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm,
các quốc gia phải tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt
họ cần lưu ý không làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn
đó.
ĐIỀU 80. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở
thềm lục địa
Điều 60 áp dụng mutatis mutandis (với
những sửa đổi cần thiết và chi tiết) đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công
trình ở thềm lục địa.
ĐIỀU 81. Việc khoan ở thềm lục địa
Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép
và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.
1. Quốc gia ven biển nộp các khoản đóng
góp bằng tiền hay bằng hiện vật về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không
sinh vật của thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải.
2. Các khoản đóng góp được nộp hàng năm
tính theo toàn bộ sản phẩm thu hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm
năm đầu khai thác điểm đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của
khối lượng sản phẩm khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này
tăng lên 1% cho đến năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức
7%. Sản phẩm không bao gồm các tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc
khai thác.
3. Quốc gia đang phát triển nào là nước
chuyên nhập khẩu một khoáng sản được khai thác từ thềm lục địa của mình được
miễn các khoản đóng góp đối với loại khoáng sản đó.
4. Các khoản đóng góp này được thực hiện
thông qua Cơ quan quyền lực; cơ quan này phân chia các khoản đó cho các quốc
gia thành viên, theo tiêu chuẩn phân chia công bằng có tình đến lợi ích và nhu
cầu của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia chậm phát triển
nhất hay các quốc gia không có biển.
ĐIỀU 83. Hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các
quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau
1. Việc hoạch định ranh giới thềm lục
địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện
bằng con đường thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38
của Quy chế tòa án quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới một thỏa thuận trong
một thời hạn hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần
XV.
3. Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận
nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan trên tinh thần hiều biết, và hợp tác, làm
hết sức mình để đi đến các giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và để
không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai
đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối
cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực
giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới
thềm lục địa được thực hiện theo đúng điều ước đó.
ĐIỀU 84. Các hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các
ranh giới ngoài của thềm lục địa và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra
theo đúng Điều 83 được ghi rõ lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định
được vị trí của nó, có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch
đinh ranh giới này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các
điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng
thủ tục các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký liên
hợp quốc một bản để lưu chiểu, và đối với các bản đồ hay các bản kê các tọa độ
địa lý vị trí của ranh giới ngoài của thềm lục địa, thì gửi đến Tổng thư ký của
Cơ quan quyền lực một bản để lưu chiểu.
Phần này không đụng chạm đến quyền của
quốc gia ven biển được khai thác lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào hầm, bất
kể độ sâu của các vùng nước ở nơi ấy là bao nhiêu.
ĐIỀU 86. Phạm vi áp dụng của phần này
Phần này áp dụng cho tất cả những vùng
biển không nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một
quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo.
Điều này không hạn chế về bất cứ phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các
quốc gia được hưởng trong vùng đặc quyền về kinh tế theo Điều 58.
1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các
quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện
trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác
của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có
biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn
ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc
các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần
VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều
đã được nêu ở Mục 2;
f) Tự do nghiên cứu khoa học với các
điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII.
2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền
tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các
quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các
hoạt động trong Vùng.
ĐIỀU 88. Sử dụng biển cả vào mục đích hòa bình
Biển cả được sử dụng vào các mục đích
hòa bình
ĐIỀU 89. Tính bất hợp pháp của những yêu sách về chủ
quyền đối với biển cả
Không một quốc gia nào có thể đòi đặt
một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc vào chủ quyền của mình
1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện
cho phép tàu thuyền mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu
thuyền trên lãnh thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho tàu thuyền
được quyền treo cờ của nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà
chúng được phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và
các con tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo
cờ nước mình thì cấp cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích
đó.
ĐIỀU 92. Điều kiện pháp lý của tàu thuyền
1. Các tàu thuyền chỉ hoạt động dưới cờ
của một quốc gia và, trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng
trong các hiệp ước quốc tế hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của
quốc gia này khi ở biển cả. Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay
trong một dịp đậu lại, trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu
hay có thay đổi đăng ký.
2. Một tàu thuyền hoạt động dưới cờ của
nhiều quốc gia mà nó sử dụng theo sở thích của mình thì không thể sử dụng đối
với mọi quốc gia thứ ba, bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể được coi
như là một tàu thuyền không có quốc tịch.
Các điều trên không đề cập vấn đề các tàu
được dùng vào dịch vụ chính thức của Liên hợp quốc, của các cơ quan chuyên môn
của Liên hợp quốc hay Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế.
ĐIỀU 94. Các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang
cờ
1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành
quyền tài phán và sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật
và xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình.
2. Đặc biệt mọi quốc gia:
a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên
và đặc điểm của các tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước
nhỏ không nằm trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;
b) Thi hành quyền tài phán theo đúng
luật trong nước mình đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước mình, cũng như
đối với thuyền trưởng, sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành chính, kỹ thuật
và xã hội liên quan đến tàu thuyền.
3. Mọi quốc gia phải có các biện pháp
cần thiết đối với các tàu thuyền mang cờ của nước mình để đảm bảo an toàn trên
biển, nhất là về:
a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và
khả năng đi biển của nó;
b) Thành phần, điều kiện làm việc và
việc đào tạo các thủy thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể áp dụng được;
c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng
hoạt động tốt của hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng ngừa đâm va.
4. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp
cần thiết để đảm bảo rằng:
a) Tàu thuyền nào cũng phải được một
viên thanh tra hàng hải có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau
đó, trong những khoảng thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải
đồ, các tài liệu về hàng hải, cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an
toàn hàng hải đòi hỏi;
b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao
cho một thuyền trưởng và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt
là việc điều động, hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ
có trình độ chuyên môn cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước,
máy móc và trang bị của tàu thuyền;
c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức
độ cần thiết, đoàn thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy
tắc quốc tế có thể áp dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các
tai nạn đâm va, việc ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và
việc duy trì thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện
5. Khi thi hành các biện pháp nói ở các
khoản 3 và 4, mỗi quốc gia buộc phải tuân thủ các quy tắc, thủ tục và tập quán
quốc tế đã được chấp nhận chung và thi hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo
cho các quy tắc, thủ tục và tập quán nói trên được tôn trọng.
6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn
để nghĩ rằng quyền tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền
đã không được thi hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà
tàu mang cờ. Khi được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều
tra và nếu cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết.
7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra
do một hay nhiều nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra
được tiến hành trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự
cố hàng hải nào xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của
nước mình và đã gây ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của
một quốc gia khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền
và công trình thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc gia
mà tàu mang cờ và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên biển hay một
sự cố hàng hải thuộc loại này.
ĐIỀU 95. Quyền miễn trừ của các tàu chiến trên biển cả
Các tàu chiến trên biển cả được hưởng
quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc
gia mà tàu mang cờ.
Các tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà
nước khai thác và chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương
mại trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ
quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.
ĐIỀU 97. Quyền tài phán hình sự về tai nạn đâm va hoặc
bất cứ sự cố hàng hải nào
1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm
va hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách
nhiệm kỷ luật thuộc về thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong
đoàn thủy thủ của con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ
luật họ trước các nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang
cờ hoặc là của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch.
2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp
bằng chỉ huy hay giấy chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất
có thẩm quyền công bố, với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các
bằng hay chứng chỉ đó không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.
3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc
tàu, ngay cả trong khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương
cục của quốc gia mà tàu mang cờ.
1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng
của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà
không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành
khách trên tàu, phải:
a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn
trên biển;
b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những
người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ,
trong chừng mực mà người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng
phải xử lý như thế;
c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm
va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi
có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần
nhất mà tàu mình sẽ cập bến.
2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều
kiện dễ dàng cho việc thành lập và hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm
kiếm và cứu trợ thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng
không, và nếu có thể, thì hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn
khổ của những dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên.
Mọi quốc gia đều thi hành các biện pháp
có hiệu quả để ngăn ngừa và trừng trị việc chuyên chở nô lệ trên các tàu được
phép mang cờ của nước mình, và để ngăn ngừa việc lạm dụng sắc cờ của mình vào
mục đích nói trên. Mọi người nô lệ ẩn náu ở trên một chiếc tàu, dù con tàu này
mang cờ của bất kỳ quốc gia nào, cũng được tự do ipso-facto (ngay tức khắc).
ĐIỀU 100. Nghĩa vụ hợp tác để trấn áp nạn cưới biển
Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau,
bằng mọi khả năng của mình, để trấn áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi
nào khác không thuộc quyền tài phán của quốc gia nào.
ĐIỀU 101. Định nghĩa cướp biển
Một trong những hành động sau đây là
hành động cướp biển:
a) Mọi hành động trái phép dùng hành
động hay bắt giữ hoặc bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên
một chiếc tàu hay một phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng
tư, và nhằm:
i. Chống lại một chiếc tàu hay một
phương tiện bay khác, hay chống lại những người hay của cải ở trên con tàu hoặc
phương tiện bay đỗ ở biển cả;
ii. Chống lại một chiếc tàu hay một
phương tiện bay, người hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài phán của
một quốc gia nào;
b) Mọi hành động tham gia có tính chất
tự nguyện vào việc sử dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người
tham gia biết từ những sự việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu
hay phương tiện bay cướp biển;
c) Mọi hành động nhằm xúi giục người
khác phạm những hành động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ
định làm dễ dàng cho các hành động đó.
Những hành động cướp biển, như đã được
xác định ở Điều 101, của một tàu chiến hay một tàu Nhà nước hay một phương tiện
bay của Nhà nước bị đoàn thủy thủ hay đội bay nổi loạn làm chủ, được coi là
hành động của các tàu hay phương tiện bay tư nhân.
ĐIỀU 103. Định nghĩa một tàu hay một phương tiện bay
cướp biển
Những tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm
soát nó thực sự, chủ trương sử dụng để phạm một trong những hành động được nêu
ở Điều 101, được coi là những tàu hay phương tiện bay cướp biển. Những chiếc
tàu hay phương tiện bay đã được dùng để phạm những hành động nói trên cũng được
coi là tàu hay phương tiện bay cướp biển chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm
soát của những người gây ra những hành động đó.
ĐIỀU 104. Giữ hay mất quốc tịch của một con tàu hay
một phương tiện bay cướp biển
Một con tàu hay một phương tiện bay đã
trở thành cướp biển có thể giữ quốc tịch của mình. Việc giữ hay mất quốc tịch
do luật trong nước của quốc gia đã trao quốc tịch đó điều chỉnh.
ĐIỀU 105. Bắt giữ một chiếc tàu hay phương tiện bay
cướp biển
Mọi quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi
nào khác không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, đều có thể bất giữ
một chiếc tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển, hoặc một chiếc
tàu hay một phương tiện bay bị chiếm đoạt sau một hành động cướp biển và đang
nằm trong tay bọn cướp biển, và đều có thể bắt giữ người và của cải ở trên con
tàu hay phương tiện bay đó. Các tòa án của quốc gia đã tiến hành việc bắt đó có
thể công bố các hình phạt cũng như các biện pháp áp dụng đối với chiếc tàu,
phương tiện bay hay của cải, trừ những người lương thiện trong cuộc.
ĐIỀU 106. Trách nhiệm trong trường hợp bắt giữ một
cách độc đoán
Khi bắt giữ một chiếc tàu hay một phương
tiện bay bị tình nghi là cướp biển mà không có lý do đầy đủ, quốc gia nào đã
tiến hành việc bắt giữ đó phải chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất hay thiệt
hại nào do hành động đó gây ra đối với quốc gia mà tàu mà phương tiện bay đó
mang quốc tịch.
ĐIỀU 107. Các tàu và phương tiện bay có đủ tư cách để
thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển
Chỉ có các tàu chiến hay phương tiện bay
quân sự, hoặc các tàu thuyền hay phương tiện bay khác mang các dấu hiện bên
ngoài chứng tỏ rõ ràng là của một cơ quan Nhà nước và được tiến hành nhiệm vụ
này, mới có thể thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển.
ĐIỀU 108. Buôn bán trái phép các chất ma túy và các
chất kích thích
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau
để trấn áp việc buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích do
các tàu đi lại ở biển cả tiến hành, vi phạm các công ước quốc tế.
2. Mọi quốc gia khi đã có lý do chính
đáng để cho rằng một tàu mang cờ của nước mình đang buôn bán trái phép các chất
ma túy và các chất kích thích đều có thể yêu cầu các quốc gia khác hợp tác để
chấm dứt việc buôn bán đó.
ĐIỀU 109. Phát sóng không được phép từ biển cả
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau
để trấn áp phát sóng không được phép từ biển cả.
2. Trong Công ước “phát sóng không được
phép” là các cuộc phát thanh và vô tuyến truyền hình nhằm vào quảng đại quần
chúng từ một chiếc tàu hay một thiết bị ở biển cả vi phạm các quy chế quốc tế,
trừ việc phát các tín hiệu cấp cứu.
3. Người nào tiến hành truyền các cuộc
phát sóng không được phép đều có thể bị truy tố trước tòa án của:
a) Quốc gia mà chiếc tàu phát sóng mang
cờ;
b) Quốc gia đăng ký của thiết bị;
c) Quốc gia mà người nói trên là công
dân;
d) Mọi quốc gia mà ở đó các cuộc phát
sóng có thể thu được;
e) Mọi quốc gia có các đài thông tin vô
tuyến được phép đã bị nhiễu do các cuộc phát sóng đó.
4. Ở biển cả, một quốc gia có quyền tài
phán ở theo đúng khoản 3, có thể theo đúng Điều 110, bắt bất kỳ người nào hay
giữ bất kỳ chiếc tàu nào truyền các cuộc phát sóng không được phép và tịch thu
phương tiện phát sóng.
1. Trừ những trường hợp mà việc can
thiệp là căn cứ vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một
tàu nước ngoài ở trên biển cả không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ
như đã nêu ở các Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những
lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó:
a) Tiến hành cướp biển;
b) Chuyên chở nô lệ;
c) Dùng vào các cuộc phát sóng không
được phép, quốc gia mà chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán theo Điều 109;
d) Không có quốc tịch; hay
e) Thật ra là cùng quốc tịch với chiếc
tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ chối treo cờ của
mình.
2. Trong những trường hợp nêu ở khoản 1,
tàu chiến có thể kiểm tra các giấy tờ cho phép mang cờ. Vì mục đích này, tàu
chiến có thể phái một chiếc xuồng, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan, đến gần
chiếc tàu bị tình nghi. Sau khi kiểm tra các tài liệu, nếu vẫn còn nghi vấn thì
có thể tiếp tục điều tra trên tàu với một thái độ hết sức đúng mực.
3. Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ
sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy
ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành động nào làm cho nó bị
tình nghi.
4. Các điều quy định này được áp dụng
mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với các phương
tiện bay quân sự.
5. Các điều quy định này cũng được áp dụng
đối với tất cả các tàu thuyền hay phương tiện bay khác đã được phép một cách
hợp lệ và mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng được sử dụng cho một
cơ quan Nhà nước.
1. Việc truy đuổi một tàu nước ngoài có
thể được tiến hành nếu những nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia ven biển
có những lý do đúng đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các luật và quy
định của quốc gia đó. Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu nước ngoài hay
một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong vùng nước quần
đảo, trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy đuổi, và chỉ có
thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp với điều
kiện là việc truy đuổi này không bị gián đoạn. Không nhất thiết là chiếc tàu ra
lệnh cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp dừng
lại cũng phải có mặt tại các vùng biển ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài này nhận
được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy định ở
Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các quyền, mà
việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.
2. Quyền truy đuổi được áp dụng matatis
mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với những hành động vi
phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có thể áp dụng, theo đúng Công
ước, cho vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả các vùng an toàn bao
quanh các thiết bị ở thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã xảy ra trong các vùng
nói trên.
3. Quyền truy đuổi chấm dứt khi chiếc
tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một
quốc gia khác.
4. Việc truy đuổi chi được coi như bắt
đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử dụng được mà mình
có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những trong chiếc
xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng
chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của lãnh
hải, hay tùy theo trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh
tế hay ở trên thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát
tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc tàu nói
trên nhận biết được.
5. Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực
hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện
bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các tàu hay phương
tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ
này.
6. Trong trường hợp mà chiếc tàu bị một
phương tiện bay truy đuổi:
a) Các khoản 1 đến 4 được áp dụng
mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết và chi tiết);
b) Phương tiện bay nào phát lệnh dừng
lại phải tự mình truy đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc tàu hay phương tiện
bay khác của quốc gia ven biển; sau khi được phương tiện bay nói trên thông
báo, đã đến những vị trí để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như phương tiện đầu
tiên không thể tự mình giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho việc bắt một chiếc
tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát hiện chiếc tàu này
đã vi phạm hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn phải xác định đồng
thời xem nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng lại và việc truy
đuổi này phải không hề bị gián đoạn.
7. Không thể đòi hủy lệnh giữ một chiếc
tàu bị bắt ở địa điểm thuộc quyền tài phán của một quốc gia và bị dẫn độ về một
cảng của quốc gia này để cho các nhà đương cục có thẩm quền tiến hành điều tra
với lý do duy nhất là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu đó đã đi có hộ tống qua
một phần của vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả.
8. Một chiếc tàu đã bị bắt dừng lại hay
bị bắt ở ngoài lãnh hải trong những hoàn cảnh không chứng minh được cho việc sử
dụng quyền truy đuổi thì được bồi thường về mọi tổn thất hay tổn hại nếu có.
ĐIỀU 112. Quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm
1. Mọi quốc gia có quyền đặt các dây cáp
hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.
2. Điều 79, khoản 5, được áp dụng đối
với đường dây cáp và ống dẫn ngầm này.
ĐIỀU 113. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị
đứt đoạn hay bị hư hỏng
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy
định cần thiết để coi là hành động vi phạm có thể bị trừng phạt: một chiếc tàu
mang cờ của quốc gia đó hay một người thuộc quyền tài phán của quốc gia đó đã
cố ý hay do cẩu thả mà làm cho một đường dây cáp cao thế hay một đường ống dẫn
ngầm ngoài biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng một đường dây cáp điện báo hay điện
thoại ngầm trong chừng mực có nguy cơ làm rối loạn hay làm gián đoạn thông tin
điện báo hay điện thoại. Điều quy định này cũng áp dụng cho bất kỳ hành động
nào có thể gây nên tình trạng các đường dây cáp hay ống dẫn ngầm nói trên bị
cắt đứt hoặc hư hỏng hay cố ý nhằm gây nên tình trạng đó. Tuy nhiên, điều quy
định này không áp dụng khi việc làm đứt đoạn hay hư hỏng đường dây cáp và ống
dẫn là hành động của những người, sau khi đã thi hành tất cả các biện pháp
phòng ngừa cần thiết để tránh gây ra tình trạng đó, chỉ hành động nhằm mục đích
chính đáng cứu lấy sinh mạng hay con tàu của họ.
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy
định cần thiết để trong trường hợp một dây cáp hay một ống dẫn ngầm ở biển cả
bị đứt đoạn hay hư hỏng do việc đặt một dây cáp hay một ống dẫn ngầm khác của
một người có quyền tài phán của mình, người này phải chịu những phí tổn để sửa
chữa những thiệt hại mà mình gây ra.
ĐIỀU 115. Bồi thường những thiệt hại gây ra do việc
tránh làm hư hỏng một dây cáp hay ống dẫn ngầm
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy
định cần thiết để người chủ của con tàu nào đưa ra được chứng cứ chứng minh
rằng đã chịu mất một chiếc neo, một tấm lưới hay một phương tiện đánh bắt khác
nhằm trành làm hư hỏng một dây cáp hay một ống dẫn ngầm, thì được người người
sở hữu của dây cáp hay một ống dẫn ngầm bồi thường, với điều kiện là người chủ
của con tàu đó đã dùng mọi biện pháp đề phòng hợp lý.
Mục 2. BẢO TỒN VÀ QUẢN LÝ CÁC TÀI NGUYÊN SINH VẬT CỦA
BIỂN CẢ
ĐIỀU 116. Quyền đánh bắt ở biển cả
Tất cả các quốc gia đều có quyền cho
công dân của mình đánh bắt ở biển cả, với điều kiện:
a) Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công
ước;
b) Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng
như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được trù định, đặc biệt là
trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67; và
c) Tuân theo mục này
Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ định ra
các biện pháp có thể cần thiết để áp dụng đối với các công dân của mình nhảm
bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả hoặc hợp tác với các quốc gia khác
trong việc định ra các biện pháp như vậy.
ĐIỀU 118. Sự hợp tác của các quốc gia trong việc bảo
tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển
Các quốc gia hợp tác với nhau trong việc
bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật ở biển cả. Các quốc gia có công dân khai
thác tài nguyên sinh vật khác nhau ở trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên
sinh vật giống nhau, thương lượng với nhau để có những biện pháp cần thiết
trong việc bảo tồn các tài nguyên đó. Nhằm mục đích đó, nếu cần, các nước này
hợp tác để lập ra các tổ chức đánh bắt phân khu vực hoặc khu vực.
ĐIỀU 119. Việc bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả
1. Khi quy định khối lượng cho phép đánh
bắt và thi hành các biện pháp khác để bảo tồn các tài nguyên sinh vật ở biển
cả, các quốc gia phải:
a) Dựa trên những số liệu đáng tin cậy
nhất của mình, quan tâm đến việc khôi phục hay duy trì các đàn (stocks), những
loài khai thách ở những mức độ đảm bảo năng suất ổn định tối đa, có chú ý tới
những yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả những nhu cầu đặc biệt của
những quốc gia đang phát triển và có tính đến những phương pháp đánh bắt, đến
quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy phạm quốc tế tối
thiểu thường được kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực, khu vực hay thế
giới;
b) Quan tâm đến những tác động của các
biện pháp này đối với những loài quần vợt với các loài bị khai thác hay phụ
thuộc vào chúng, để duy trì và khôi phục các đàn (stocks) của các loài quần hợp
hay phụ thuộc này ở mức độ mà việc sinh sản của chúng không có nguy cơ bị tổn
hại nghiêm trọng.
2. Các thông tin khoa học sẵn có, những
số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến khả năng của nghề cá và các
dữ kiện khác liên quan đến việc bảo tồn và các đàn cá được phổ biến và trao đổi
đều đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền phân khu vực, khu
vực hay thế giới, và nếu được, với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu
quan.
3. Các quốc gia hữu quan chăm lo sao cho
những biện pháp bảo tồn và việc áp dụng những biện pháp đó không dẫn đến một sự
phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với bất cứ ngư dân
nào, bất kể họ là công dân của quốc gia nào.
ĐIỀU 120. Các loài có vú ở biển
Điều 65 cũng áp dụng cho việc bảo tồn và
quản lý các loài có vú ở biển cả.
1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có
nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
2. Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3,
lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo
được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ
đất liền khác.
3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp
cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc
quyền về kinh tế và thềm lục địa.
Trong Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một vũng hay một vùng biển do
nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một biển khác hay với đại dương
qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay các lãnh hải và các vùng đặc
quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành.
ĐIỀU 123. Sự hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín
hay nửa kín
Các quốc gia ở ven bở một biển kín hay
nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các
nghĩa vụ của họ theo Công ước. Vì mục đích này, trực tiếp hoặc qua trung gian
của một tổ chức khu vực thích hợp, các quốc gia này cố gắng:
a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn,
thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển;
b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền
và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi
trường biển;
c) Phối hợp các chính sách khoa học của
họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong
vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác
hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng điều này.
QUYỀN CỦA CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN ĐI RA BIỂN VÀ TỪ
BIỂN VÀO, VÀ TỰ DO QUÁ CẢNH
ĐIỀU 124. Sử dụng các thuật ngữ
1. Trong Công ước:
a) “Quốc
gia không có biển” (Etat sans littoral) có nghĩa là mọi quốc gia không có
bờ biển;
b) “Quốc
gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có hay không có bờ biển, ở
giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận chuyển quá cảnh phải đi
qua quốc gia đó;
c) “Vận
chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh người, hàng hóa, của
cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia quá
cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không có việc chuyển tải,
việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay đổi phương thức vận
chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh hay bắt đầu kết thúc trên
lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển;
d) “Phương
tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu
đi biển, tàu chạy trên hồ, trên sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa phương bắt
buộc, là những người khuân vác hoặc súc vật kéo.
2. Các quốc gia không có biển và các
quốc gia quá cảnh có thể thỏa thuận xếp vào các phương tiện vận chuyển các ống
dẫn và ống dẫn khí đốt và các phương tiện khác ngoài các phương tiện đã nêu ở
khoản 1.
ĐIỀU 125. Quyền đi ra biển và từ biển vào, và tự do
quá cảnh
1. Các quốc gia không có biển có quyền
đi ra biển và từ biển vào để sử dụng các quyền được trù định trong Công ước, kể
cả các quyền liên quan đến tự do trên biển cả và liên quan đến di sản chung của
loài người. Vì mục đích ấy, các quốc gia đó được hưởng tự do quá cảnh qua lãnh
thổ của các quốc gia quá cảnh bằng mọi phương tiện vận chuyển.
2. Các điều kiện và thể thức sử dụng
quyền tự do quá cảnh được thỏa thuận giữa các quốc gia không có biển và các
quốc gia quá cảnh hữu quan qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực.
3. Trong việc sử dụng chủ quyền toàn vẹn
trên lãnh thổ của mình, các quốc gia quá cảnh có quyền ra tất cả mọi biện pháp
cần thiết để đảm bảo rằng, các quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định
trong phần này vì lợi ích của quốc gia không có biển, không hề đụng chạm đến
lợi ích chính đáng của quốc gia quá cảnh.
ĐIỀU 126. Loại trừ việc áp dụng điều khoản tối huệ
quốc
Các quy định của Công ước cũng như các
điều ước đặc biệt liên quan đến việc sử dụng quyền ra biển và đi từ biển vào
trù định các quyền và các điều kiện thuận lợi cho các quốc gia không có biển do
vị trí địa lý đặc biệt của quốc gia đó, bị loại trừ khỏi việc áp dụng điều
khoản tối huệ quốc.
ĐIỀU 127. Các thuế quan, thuế và các khoản lệ phí khác
1. Việc vận chuyển quá cảnh không phải
nộp thuế quan, thuế hay mọi khoản lệ phí khác, ngoài các khoản thuế trả cho các
dịch vụ đặc biệt liên quan đến việc vận chuyển đó.
2. Các phương tiện vận chuyển quá cảnh
và các điều kiện thuận lợi khác cho việc quá cảnh dành cho quốc gia không có
biển và được quốc gia này sử dụng, không phải chịu các thứ thuế hay các khoản
lệ phí cao hơn các khoản phải trả cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển
của quốc gia quá cảnh.
ĐIỀU 129. Sự hợp tác trong việc đóng và cải tiến các
phương tiện vận chuyển
Khi trong các quốc gia quá cảnh không có
các phương tiện vận chuyển cho phép sử dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc
khi các phương tiện hiện có, kể cả các trang thiết bị cảng, không thích đáng về
bất cứ một phương diện nào, quốc gia quá cảnh và quốc gia không có biển hữu
quan có thể hợp tác để đóng hay cải tiến các phương tiện hiện có.
1. Quốc gia quá cảnh thi hành mọi biện
pháp thích hợp để tránh mọi tình trạng chậm trễ hay những khó khăn có tính chất
kỹ thuật trong việc vận chuyển quá cảnh.
2. Các nhà đương cục có thẩm quyền của
quốc gia quá cảnh không có biển, trong trường hợp có tình trạng chậm trễ hay
khó khăn, hợp tác để nhanh chóng loại trừ các nguyên nhân của tình trạng đó.
ĐIỀU 131. Việc đối xử bình đẳng ở trong các cảng biển
Các tàu mang cờ của một quốc gia không
có biển được hưởng trong các cảng biển sự đối xử bình đẳng như các tàu nước
ngoài khác.
ĐIỀU 132. Việc dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi
hơn cho việc quá cảnh
Công ước không có hàm ý rút bớt những
điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn những điều mà Công ước đã trù định và đã được
sự thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên hay đã được một quốc gia thành viên
chấp nhận. Công ước cũng tuyệt đối không cấm các quốc gia thành viên trong
tương lai dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn.
ĐIỀU 133. Sử dụng các thuật ngữ
Trong phần này
a) “Tài nguyên” (ressources) là tất cả
các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí in situ (ở ngay tại chỗ)
trong Vùng, nằm ở đáy biển hay lòng đất dưới đáy biển này, kể cả các khối đá
kim (nodules polymétalliques);
b) Các tài nguyên, một khi đã được khai
thác từ Vùng, được gọi là “các khoáng sản” (minéraux)
ĐIỀU 134. Phạm vi áp dụng của phần này
1. Phần này được áp dụng đối với Vùng
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng do
phần này điều chỉnh.
3. Việc gửi lưu chiểu các bản đồ hay bản
kê các tọa độ địa lý xác định vị trí các ranh giới nêu ở Điều 1, khoản 1, cũng
như việc công bố các bản đồ hay bản kê tọa độ đó, do phần VI điều chỉnh.
4. Không một điều nào của quy định này
đụng chạm đến việc xác đinh ranh giới ngoài của thềm lục địa theo đúng phần VI
hay đến hiệu lực của các điều ước liên quan đến việc hoạch định ranh giới giữa
các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau.
ĐIỀU 135. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời
nói trên
Phần này cũng như các quyền được hưởng
hay được thực hiện theo phần này không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của vùng
nước ở phía trên Vùng hay đến chế độ pháp lý của vùng trời ở phía trên vùng
nước này.
Mục 2. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ VÙNG
ĐIỀU 136. Di sản chung của loài người
Vùng và tài nguyên của nó là di sản
chung của loài người.
ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên
của nó
1. Không một quốc gia nào có thể đòi hỏi
thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng
hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không một tự nhiên
nhân hay pháp nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc
tài nguyên của Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các
quyền thuộc quyền chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt nào được thừa
nhận.
2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền
lực là người thay mặt có tất cả các quyền đối với các tài nguyên của Vùng.
Những tài nguyên này không thể chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã được
khai thác từ Vùng thì chỉ có thể chuyển nhượng theo đúng phần này và phù hợp
với các nguyên tắc, quy định và các thủ tục của Cơ quan quyền lực.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân
hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các
khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi,
giành được hay được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.
ĐIỀU 138. Cách xử sự chung của các quốc gia liên quan
đến Vùng
Trong cách xử sự chung liên quan đến
Vùng, các quốc gia tuân theo phần này, các nguyên tắc được nêu trong Hiến
chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm
giữ gìn hòa bình và an ninh, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau.
ĐIỀU 139. Nghĩa vụ chăm lo đến việc tôn trọng Công ước
và trách nhiệm trong trường hợp có thiệt hại
1. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ
quan tâm đến việc bảo đảm cho các hoạt động trong Vùng, dù do bản thân các quốc
gia đó, do các xí nghiệp Nhà nước của họ hoặc do các tự nhiên nhân hay pháp
nhân mang quốc tịch của họ hoặc chịu sự kiểm soát thật sự của họ hay các công
dân của họ, được tiến hành theo đúng với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có
nghĩa vụ như vậy với các hoạt động trong vùng.
2. Không phương hại đến các quy tắc của
pháp luật quốc tế và đến Điều 22 của Phụ lục III, một quốc gia thành viên hay
một tổ chức quốc tế phải chịu những trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu
sót của mình đối với những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần này; các quốc
gia thành viên hay các tổ chức quốc tế khi cùng hành động thì phải liên đới
chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các
thiệt hại do một thiếu sót như vậy của một người do quốc gia này bảo trợ theo Điều
153; khoản 2, điểm b, nếu quốc gia này đã thi hành tất cả các biện pháp cần
thiết và thích hợp để bảo đảm việc tôn trọng thật sự phần này của các phụ lục
có liên quan, như đã trù định trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4 khoản 4 của Phụ
lục III.
3. Các quốc gia thành viên là hội viên
của các tổ chức quốc tế cần thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc
áp dụng điều này đối với các tổ chức đó.
ĐIỀU 140. Lợi ích của loài người
1. Các hoạt động trong vùng được tiến
hành, như đã được ghi nhận rõ ràng trong phần này, là vì lợi ích của toàn thể
loài người, không phụ thuộc vào vị trí của các quốc gia, dù là quốc gia có biển
hay không có biển, và có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia
đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được nền độc lập đầy đủ hay một
chế độ tự trị khác được Liên hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV)
và các nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng.
2. Cơ quan quyền lực bảo đảm việc phân
chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và
các lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng qua một bộ máy
thích hợp theo đúng Điều 160 khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại.
ĐIỀU 141. Sử dụng vùng vào những mục đích hoàn toàn
hòa bình
Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù
quốc gia có biển hay không có biển, sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa
bình, không phân biệt đối xử và không phương hại đến các điều quy định khác của
phần này.
ĐIỀU 142. Các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc
gia ven biển
1. Trong trường hợp các vỉa tài nguyên
của Vùng trải rộng ra ngoài ranh giới của Vùng, thì những hoạt động tiến hành
trong Vùng cũng được mở rộng như thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi ích
chính đáng của quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với các vỉa tài nguyên
nói trên.
2. Một phương thức tham khảo ý kiến với
quốc gia hữu quan, và nhất là phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh bất
kỳ sự xâm phạm nào đến các quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà các
hoạt động tiến hành trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên ở
phía trong các ranh giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven
biển thì cần phải có sự đồng ý trước của quốc gia này.
3. Phần này cũng như các quyền được thừa
nhận hay được sử dụng theo phần này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia ven
biển được thi hành những biện pháp phù hợp với các quy định tương ứng của phần
XII có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm
trọng và sắp xảy ra đối với vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi ích có
liên quan do một tình trạng ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh từ tất
cả các hoạt động tiến hành trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác gây ra bởi
các hoạt động đó.
ĐIỀU 143. Việc nghiên cứu khoa học biển
1. Việc nghiên cứu khoa học biển trong
Vùng được tiến hành nhằm những mục đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích của
toàn thể loài người theo đúng phần XIII.
2. Cơ quan quyền lực có thể thực hiện
các công trình nghiên cứu khoa học biển đối với Vùng và các tài nguyên của Vùng
và có thể ký các hợp đồng nhằm mục đích này. Cơ quan quyền lực tạo điều kiện
thuận lợi, khuyến khích việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng; phối hợp, phổ
biến các kết quả của các công trình nghiên cứu và phân tích đó khi chúng sẵn
sàng sử dụng được.
3. Các quốc gia thành viên có thể tiến
hành các công trình nghiên cứu khoa học biển trong Vùng. Các quốc gia này tạo
điều kiện dễ dàng cho việc hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học biển trong
vùng, bằng cách:
a) Tham gia các chương trình quốc tế và
khuyến khích việc hợp tác về nghiên cứu khoa học biển do nhân viên của các nước
và nhân viên của Cơ quan quyền lực thực hiện;
b) Quan tâm đến việc các chương trình,
được soạn thảo qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua
trung gian của các tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát
triển và các quốc gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của
họ;
ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và
nhân viên của Cơ quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên
cứu tiến hành trong Vùng;
c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết
quả nghiên cứu và phân tích, khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung
gian của Cơ quan quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.
ĐIỀU 144. Chuyển giao kỹ thuật.
1. Theo đúng Công ước, Cơ quan quyền lực
thi hành các biện pháp để:
a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức
khoa học liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng; và
b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến
khích việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến
thức khoa học nói trên, sao cho mọi quốc gia thành viên đều được hưởng.
2. Vì mục đích này, Cơ quan quyền lực và
các quốc gia thành viên hợp tác để thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật và các
kiến thức khoa học liên quan đến những hoạt động tiến hành trong Vùng sao cho
Xí nghiệp và tất cả các quốc gia thành viên đều có thể được hưởng. Đặc biệt, Cơ
quan quyền lực và các quốc gia thành viên đề xuất hoặc khuyến khích:
a) Các chương trình để chuyển giao cho
Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật liên quan đến các
hoạt động tiến hành trong Vùng, nhất là trù định cho Xí nghiệp và các quốc gia
đang phát triển, những điều kiện thuận lợi để nắm được các kỹ thuật thích hợp
theo những thể thức và các điều kiện công bằng hợp lý;
b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến
bộ về kỹ thuật của Xí nghiệp và những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang
phát triển, đặc biệt là tạo điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các
quốc gia này được đào tạo về khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia
đầy đủ vào các hoạt động tiến hành trong vùng.
ĐIỀU 145. Bảo vệ môi trường biển
Đối với các hoạt động tiến hành trong
Vùng, các biện pháp cần thiết phải được thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ
có hiệu quả môi trường biển chống lại những tác hại có thể do các hoạt động đó
gây ra. Vì mục đích đó, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ
tục thích hợp, đặc biệt nhằm để:
a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô
nhiễm môi trường biển, kể cả vùng duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác
đe dọa môi trường đó, cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân
bằng sinh thái của môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết
phải bảo vệ môi trường chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan,
nạo vét, đào, loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các
thiết bị, ống dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên
thiên nhiên của Vùng và phòng ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở
biển.
ĐIỀU 146. Bảo vệ sự sống của con người
Đối với các hoạt động tiến hành trong
Vùng, những biện pháp cần thiết phải được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ có
hiệu quả sự sống của con người. Vì mục đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra các quy
tắc, quy định và thủ tục thích hợp để bổ sung cho pháp luật quốc tế hiện tại
như đã ghi trong các hiệp ước về vấn đề này.
1. Các hoạt động được tiến hành trong
Vùng cần phải được quan tâm một cách hợp lý đến các hoạt động khác đang được
thực hiện trong môi trường biển.
2. Các điều kiện sau đây được áp dụng
cho các thiết bị được sử dụng cho các hoạt động tiến hành trong Vùng:
a) Các thiết bị này chỉ được xây lắp, bố
trí và tháo gỡ theo đúng với phần này và trong các điều kiện do các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực đề ra. Việc xây lắp, bố trí và tháo
gỡ chúng phải được thông báo đúng thủ tục và cần phải duy trì các phương tiện
thường trực để báo hiệu sự có mặt của các thiết bị đó;
b) Các thiết bị này không được đặt ở các
vị trí có thể gây trở ngại cho việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận
là thiết yếu đối với hàng hải quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật
độ đánh cá tập trung;
c) Các thiết bị này được các vùng an
toàn bao quanh; các vùng an toàn này được đánh dấu một cách thích hợp để bảo
đảm an toàn cho bản thân và các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí
của các Vùng an toàn này được xác định sao cho chúng không tạo thành một vành
đai cản trở các tàu thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp,
hay cản trở giao thông trên các đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được dùng vào những
mục đích hoàn hòa bình;
e) Các thiết bị này không có quy chế của
các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến
việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi
trường biển được tiến hành với sự chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến
hành trong Vùng.
ĐIỀU 148. Sự tham gia của các quốc gia đang phát triển
vào các hoạt động tiến hành trong Vùng
Việc tham gia của các quốc gia đang phát
triển vào các hoạt động tiến hành trong Vùng được khuyến khích, như đã được trù
định rõ ràng trong phần này, với sự chú ý thích đáng đến các nhu cầu và lợi ích
đặc biệt của các quốc gia này, và nhất là nhu cầu đặc biệt của các quốc gia
đang phát triển không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, cần vượt qua
những trở ngại do vị trí bất lợi của họ gây ra, đặc biệt là vì họ ở xa Vùng và
việc họ đến Vùng và rời khỏi Vùng đều khó khăn.
ĐIỀU 149. Các di vật khảo cổ và lịch sử
Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử
tìm thấy ở trong Vùng, đều được bảo tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn thể
loài người, đặc biệt quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi
xuất xứ hoặc của quốc gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về
lịch sử hay khảo cổ.
Mục 3. KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN CỦA VÙNG
ĐIỀU 150. Chính sách chung liên quan đến các hoạt động
tiến hành trong Vùng
Các hoạt động tiến hành trong Vùng, như
đã được trù định rõ ràng trong phần này, phải làm sao tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển hài hòa nền kinh tế thế giới và sự mở rộng một cách cân đối
nền thương mại quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển toàn diện của
tất cả các quốc gia, và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và nhằm:
a) Khai thác các tài nguyên của Vùng;
b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc
chắn và hợp lý các tài nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt
động tiến hành trong Vùng có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo đúng
những nguyên tắc đúng đắn về bảo tồn.
c) Tăng cường các khả năng tham gia vào
các hoạt động này, đặc biệt là phù hợp với Điều 144 và Điều 148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự
phần vào các thu nhập và việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các
quốc gia đang phát triển theo đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng
khoáng sản khai thác từ Vùng để cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn
khác, bảo đảm cung cấp cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành
giá cả đúng và ổn định đối với các khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như
các khoáng sản từ các nguồn khác, có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho
người tiêu thụ, bảo đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành
viên, bất kể chế độ xã hội và kinh tế hay địa lý của họ như thế nào, có những
khả năng to lớn hơn trong việc tham gia khai thác các tài nguyên của Vùng, và
ngăn cản việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển,
theo đúng Điều 151, khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu
nhập về xuất khẩu của họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong số các khoáng
sản được khai thác trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại
khoáng sản này, trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động
tiến hành trong Vùng gây ra;
i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của
toàn thể loài người;
j) Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc
với các thị trường để nhập khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu
những sản phẩm đầu tiên được rút ra từ những khoáng sản này, không thuận lợi
hơn những điều kiện thuận lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và
các sản phẩm đầu tiên khai thác được từ các nguồn khác.
ĐIỀU 151. Chính sách về sản xuất
1. a) Không phương hại đến những mục
tiêu đã được nêu ở Điều 150 và nhằm áp dụng điểm h) của điều đó, qua trung gian
của các cấp thẩm quyền hiện có, hay nếu cần thì, trong khuôn khổ của những dàn
xếp hay hiệp định mới với sự tham gia của tất cả các bên hữu quan, kể cả người
sản xuất và người tiêu thụ, Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp cần thiết
để tạo thuận lợi cho sự gia tăng, sự hoạt động có hiệu quả và sự ổn định của
các thị trường đối với những sản phẩm đầu tiên rút ra từ các khoáng sản khai
thác trong Vùng, với giá cả có lợi cho người sản xuất và đúng mức đối với người
tiêu thụ. Tất cả các quốc gia thành viên hợp tác vì mục đích này.
b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia
vào bất kỳ hội nghị sản phẩm nào bàn về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó,
tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự.
Cơ quan quyền lực có quyền trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp
định nào đạt được khi kết thúc những hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có
liên quan đến việc sản xuất trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ
cơ quan nào được lập ra theo dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng các
quy tắc có liên quan đến cơ quan đó.
c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa
vụ được giao phó theo các dàn xếp hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho
các dàn xếp hay hiệp định đó được áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử
đối với toàn bộ việc sản xuất các khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như
thế, Cơ quan quyền lực hành động một cách phù hợp với các điều khoản của các
hợp đồng hiện hành và các quy định của những kế hoạch làm việc của Xí nghiệp đã
được chuẩn y.
2. a) Trong giai đoạn quá độ được định
rõ ở khoản 3, việc sản xuất hàng hóa chỉ có thể bắt đầu dưới danh nghĩa một kế
hoạch làm việc đã được chuẩn y, nếu người khai thác đã xin phép Cơ quan quyền
lực và đã được Cơ quan quyền lực cho phép sản xuất; Việc cho phép này không thể
xin hay cấp trước thời hạn dự kiến bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế oạch làm
việc quá 5 năm, trừ khi Cơ quan quyền lực quy định một thời hạn khác trong các
quy tắc, quy định và thủ tục của mình, căn cứ vào tính chất và tiến trình thực
hiện các dự án;
b) Trong đơn xin phép của mình, người
khai thác ghi rõ số lượng kền hàng năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc
đã được chuẩn y. Đơn này gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép,
sẽ được người khai thác thực hiện và đã được tính toán một cách hợp lý để cho
phép người khai thác bắt đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự
định.
c) Để áp dụng các điểm a và b, Cơ quan
quyền lực định ra các quy phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép
sản xuất theo số lượng được ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này
và những số lượng được phép trước đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất
nào trong giai đoạn quá độ, mức cao nhất về sản lượng kền được tính toán theo
đúng khoản 4 cho năm mà giấy phép được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở
thành bộ phận hữu cơ của kế hoạch làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của người khai thác
bị từ chối theo điểm d, người này bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ
quan quyền lực.
3. Giai đoạn quá độ bắt đầu 5 năm trước
ngày mùng 1 tháng Giêng của năm dự tính bắt đầu việc sản xuất hàng hóa đầu tiên
với danh nghĩa của một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Trong trường hợp việc
bắt đầu sản xuất hàng hóa bị hoãn đến một năm nào đó sau năm đã dự kiến thì
thời điểm bắt đầu của giai đoạn quá độ và mức tối đa của sản lượng tính toán
ban đầu được điều chỉnh lại cho phù hợp. Giai đoạn quá độ kết thúc sau 25 năm,
hoặc cho đến khi kết thúc Hội nghị xét duyệt lại được nêu ở Điều 155, hay cho
đến ngày mà các thỏa thuận hay hiệp định mới đề cập ở khoản 1 có hiệu lực, thời
hạn nào gần nhất thì được sử dụng, nếu các thỏa thuận hay hiệp định đó đã trở
nên hết hiệu lực hay không còn tác dụng vì một lý do nào đó, thì những quyền
được trù định trong điều này đối với phần còn lại của giai đoạn quá độ được
trao lại cho Cơ quan quyền lực.
4. a) Mức sản xuất tối đa có hiệu lực
cho bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ có được do tổng của:
i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường
biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu
tiên và giá trị của đường biểu diễn đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn
quá độ, các giá trị đó được tính theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của
đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá
trị của đường biểu diễn này cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu
tiên; những giá trị này được tính toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a này:
i. Những giá trị của đường biểu diễn xu
hướng được sử dụng để tính toán mức sản lượng kền tối đa là những giá trị tiêu
thụ kền hàng năm thể hiện trên một đường biểu diễn xu hướng độc lập nên trong
năm cấp giấy phép sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra theo phép hồi quy
tuyến tính lô-ga-rít các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự hàng năm tương ứng
với giai đoạn 15 năm gần nhất mà người ta có các số liệu, thời gian được coi là
biến số thiên độc lập. Đường biểu diễn xu hướng này được gọi là đường biểu diễn
xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất tăng hàng năm được thể
hiện trên đường biểu diễn xu hướng dưới 30% để xác định các số lượng đã nói ở
điểm a, người ta thay đường biểu diễn này bằng một đường biểu diễn xu hướng lập
ra sao cho nó cắt đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm biểu thị giá trị tiêu
thụ cho năm đầu của thời kỳ 15 năm được xem xét, và để cho độ dốc của nó phù
hợp với một sự gia tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản lượng tối đa được quy
định cho một năm nào đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ trường hợp nào cũng
không thể vượt quá số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng ban
đầu cho năm xem xét đó và giá trị của đường biểu diễn này cho năm ngay trước
khi bắt đầu giai đoạn quá độ.
5. Đối với mức sản xuất ban đầu của Xí
nghiệp, Cơ quan quyền lực dành cho Xí nghiệp một số lượng 38.000 tấn kền trên
số lượng được ấn định là sản lượng tối đa theo đúng khoản 4;
6. a) Trong một năm nào đó, một người
khai thác có thể sản xuất dưới mức sản xuất hàng năm các khoáng sản lấy từ các
khối đa kim đã ghi trong giấy phép sản xuất của mình hoặc vượt qua mức đó, tối
đa là 8%, miễn là tổng sản lượng không vượt quá sản lượng ghi trong giấy phép.
Bất kỳ sự vượt quá nào trong khoảng từ 8% đến 20% đối với một năm nào đó hay
bất kỳ sự vượt quá nào đối với một năm tiếp theo 2 năm liên tiếp trong đó mức
sản xuất ấn định bị vượt, đều phải thương lượng với Cơ quan quyền lực; Cơ quan quyền lực có thể đòi người khai thác
phải xin một giấy phép sản xuất bổ sung.
b) Cơ quan quyền lực chỉ xét các đơn yêu
cầu sản lượng bổ sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các đơn xin sản
xuất đang chờ giải quyết và đã xem xét đúng mức đến các khả năng còn có những
đơn vị khác nữa.
Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ
quan quyền lực là trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt
quá tổng sản lượng được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan
quyền lực không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối
lượng vượt quá 46.500 tấn kền trong một năm.
7. Sản lượng các kim loại khác như đồng,
cô-ban và măng-gan rút ra từ các khối đa kim được khai thác theo một giấy phép
sản xuất, không được vượt quá mức có thể đạt được, nếu như những người khai
thác đã lấy ra từ các khối đa kim này số lượng kền tối đa tính đúng theo điều
này. Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục theo đúng Điều
17 của Phụ lục III, trong đó có trù định các thể thức thi hành những khoản này.
8. Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến
các tập quán kinh tế không chính đáng được trù định trong khuôn khổ và các hiệp
định thương mại nhiều bên tương ứng, được áp dụng vào công việc thăm dò và khai
thác khoáng sản trong Vùng. Để giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi điều quy
định này, các quốc gia thành viên tham gia vào các hiệp định thương mại nhiều
bên nói trên dựa vào các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù định trong
các hiệp định đó.
9. Cơ quan có quyền hạn chế mức sản xuất
các khoáng sản trong Vùng, ngoài các khoáng sản rút ra từ các khối đa kim, theo
các điều kiện và phương pháp mà Cơ quan quyền lực cho là thích hợp, bằng cách
thông qua các quy tắc theo đúng Điều 161, khoản 8.
10. Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa
trên ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, Đại hội đồng định ra một chế độ bù
trừ hoặc thi hành các biện pháp trợ giúp khác, có tác dụng tạo điều kiện dễ
dàng cho việc điều chỉnh kinh tế, kể cả việc hợp tác với các cơ quan chuyên
trách hay các tổ chức quốc tế khác, đề giúp đỡ các nước đang phát triển mà nền
kinh tế và thu nhập xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước những tác động
bất lợi do một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác từ Vùng bị hạ
giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản đuộc khai thác từ Vùng bị hạ
giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này của họ giảm sút, trong
chừng mực mà việc hạ giá hay giảm sút khối lượng này do các hoạt động trong
Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực tiến hành nghiên cứu về những vấn đề của các
quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nhằm giảm đến mức tối thiểu
những khó khăn của họ, và để giúp đỡ họ tiến hành điều chỉnh kinh tế theo yêu
cầu của họ.
ĐIỀU 152. Việc thi hành các quyền hạn và chức năng
1. Cơ quan quyền lực tránh mọi sự phân
biệt đối xử trong khi thi hành quyền hạn và chức năng của mình, nhất là khi Cơ
quan quyền lực cho phép tiến hành các hoạt động trong Vùng.
2. Tuy nhiên, theo các điều được quy
định rõ ràng của phần này, Cơ quan quyền lực có thể dành sự qua tâm đặc biệt
đối với các quốc gia đang phát triển, và đặc biệt là những quốc gia không có
biển hay bất lợi về địa lý trong số các quốc gia phát triển này.
ĐIỀU 153. Hệ thống thăm dò và khai thác
1. Các hợp đồng tiến hành trong Vùng
được Cơ quan quyền lực thay mặt cho toàn thể loài người tổ chức, thực hiện và
kiểm soát theo đúng điều này, và theo đúng các quy định tương ứng khác của phần
này và phụ lục liên quan đến các hoạt động đó, cũng như, các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng
theo đúng khoản 3 do các thành phần sau đây tiến hành:
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ quan quyền lực, các
quốc gia thành viên hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự nhiên nhân hay pháp
nhân có quốc tịch của các quốc gia thành viên hay do quốc gia đó hoặc các công
dân của các quốc gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự bảo trợ của các quốc
gia này hoặc của bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể trên đáp ứng các điều
kiện được quy định trong phần này và ở Phụ lục III;
3. Các hoạt động tiến hành trong Vùng
phải theo một kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản, được lập ra theo
đúng phụ lục III và được Hội đồng chuẩn y, sau khi được Ủy ban pháp lý và kỹ
thuật xem xét. Trong trường hợp các hoạt động tiến hành trong vùng theo giấy
phép của Cơ quan quyền lực do các thể hay cá nhân nói ở khoản 2, điểm b thực
hiện, kế hoạch làm việc mang hình thức của một hợp đồng, theo đúng Điều 3 của
Phụ lục III. Hợp đồng có thể trù định các thỏa thuận về liên doanh theo đúng
Điều 11 của Phụ lục III.
4. Cơ quan quyền lực thực hiện kiểm soát
cần thiết đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, để bảo đảm tôn trọng các
quy định tương ứng của phần này và của các phụ lục có liên quan, các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như, các kế hoạch làm việc được
chuẩn y theo đúng khoản 3. Các quốc gia thành viên giúp đỡ Cơ quan quyền lực
bằng cách thi hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm tôn trọng các văn
bản này theo đúng Điều 139.
5. Bất kỳ lúc nào, Cơ quan quyền lực
cũng có quyền thi hành mọi biện pháp được trù định trong phần này để bảo đảm
tôn trọng phần này và để có thể thi hành các chức năng kiểm soát và ra quy định
của mình theo phần này hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực có quyền kiểm
tra tất cả các thiết bị được sử dụng để tiến hành các hoạt động trong Vùng và
được đặt ở trong Vùng.
6. Mọi hợp đồng được ký kết theo đúng
khoản 3 đều trù định việc bảo đảm danh nghĩa.
Do vậy, chỉ có thể xét lại, tạm hoãn hay
hủy bỏ hợp đồng theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
Cứ 5 năm một lần kể từ khi Công ước có
hiệu lực, Đại hội đồng lại tiến hành một cuộc xem xét chung và có hệ thống xem
chế độ quốc tế của Vùng do Công ước lập ra đã hoạt động trong thực tiễn như thế
nào. Dựa vào kết quả của cuộc xem xét này, Đại hội đồng có thể thi hành hay
khuyến nghị cho các cơ quan khác thi hành các biện pháp phù hợp với các quy
định, thủ tục được trù định trong phần này và các phụ lục có liên quan và cho
phép cải tiến sự hoạt động của chế độ.
ĐIỀU 155. Hội nghị xét duyệt lại
1. 15 năm sau ngày mùng 1 tháng Giêng
của năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên theo một kế hoạch làm việc đã được
chuẩn y, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị để xét duyệt lại các quy định
của phần này và các phụ lục có liên quan, điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai
thác tài nguyên của Vùng. Dưới ánh sáng của kinh nghiệm thu được trong giai
đoạn qua, hội nghị sẽ xem xét cụ thể:
a) Các quy định trong phần này điều
chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng có đạt được những mục
tiêu của chúng về mọi mặt không, và nhất là xem toàn thể loài người có được
hưởng lợi do các quy định đó đem lại không;
b) Xem trong thời hạn 15 năm này, các
khu vực dành riêng có được khai thác một cách có hiệu quả và cân đối so với các
khu vực không được dành riêng không;
c) Xem việc khai thác và sử dụng Vùng và
các tài nguyên của Vùng có được tiến hành theo cách tạo thuận lợi cho việc phát
triển hài hòa của nền kinh tế thế giới và việc mở rộng cân đối nền thương mại
quốc tế không;
d) Xem sự độc quyền hóa các hoạt động
tiến hành trong Vùng được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các chính sách đã nêu ở các
Điều 150 và 151 có được tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho phép phân chia một
cách công bằng những mối lợi thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng,
với sự quan tâm đặc biệt đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát
triển không.
2. Hội nghị xét duyệt quan tâm đến việc
giữ vững nguyên tắc di sản chung của loài người, chế độ quốc tế nhằm khai thác
công bằng di sản đó vì lợi ích của tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển, và sự tồn tại của một Cơ quan quyền lực có trách nhiệm tổ
chức tiến hành và kiểm soát các hoạt động trong vùng. Hội nghị cũng quan tâm
đến việc duy trì các nguyên tắc đã được nêu trong phần này có liên quan đến
việc loại trừ mọi yêu sách và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một khu vực nào đó
của Vùng, đến các quyền của các quốc gia và thái độ chung của họ có quan hệ đến
Vùng, cũng như việc tham gia của họ vào các hoạt động được tiến hành trong Vùng
theo đúng Công ước, đến việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng,
việc chỉ sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình, những phương diện kinh tế
của các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc nghiên cứu khoa học biển, việc
chuyển giao kỹ thuật, việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ sự sống của con
người, các quyền của các quốc gia ven biển, chế độ pháp lý của vùng nước và
vùng trời phía trên Vùng và sự phù hợp giữa các hoạt động tiến hành trong Vùng
và các hoạt động khác trong môi trường biển.
3. Thủ tục ra quyết định áp dụng trong
Hội nghị cũng là thủ tục đã áp dụng ở Hội nghị về luật biển lần thứ ba của Liên
hợp quốc. Hội nghị sẽ cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về tất cả các điểm
sửa đổi nếu có, bằng consensus (thỏa thuận), và chỉ biểu quyết các vấn đề đó,
sau khi đã cố gắng hết sức mà không đi đến consensus (thỏa thuận).
4. Năm năm sau khi bắt đầu hội nghị xét
duyệt lại, nếu không đi đến được thỏa thuận về hệ thống thăm dò và khai thác
tài nguyên của Vùng thì trong vòng 12 tháng sau đó, Hội nghị có thể quyết định
theo đa số ba phần tư các quốc gia thành viên thông qua và đưa ra cho các quốc
gia thành viên phê chuẩn hay tham gia đối với những điều sửa đổi dẫn đến sự
thay đổi hay sửa đổi hệ thống, mà Hội nghị xét thấy cần thiết và thích hợp.
Những điều sửa đổi này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia thành viên 12
tháng sau ngày gửi lưu chiểu những văn kiện phê chuẩn hay tham gia ba phần tư
quốc gia thành viên.
5. Những điểm sửa đổi được hội nghị xét
duyệt lại thông qua điều này, sẽ không đụng chạm đến các quyền đã có được theo
các hợp đồng hiện hành.
TIỂU MỤC A. NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 156. Thành lập Cơ quan quyền lực
1. Một Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy
biển được lập ra, hoạt động theo sự điều chỉnh của phần này.
2. Tất cả các quốc gia thành viên là
những thành viên ipso facto (tất nhiên) của Cơ quan quyền lực.
3. Các quan sát viên ở Hội nghị lần thứ
3 của Liên hợp quốc về luật biển đã ký vào Định ước cuối cùng và không nằm
trong phạm vi Điều 305, khoản 1, điểm c, d, e hay f có quyền tham dự vào các
công việc của Cơ quan quyền lực với tư cách quan sát viên theo đúng các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền lực đặt trụ sở ở
Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền lực có thể lập ra các
trung tâm hay các cơ quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần thiết để thi hành chức
năng của mình.
1. Cơ quan quyền lực là tổ chức mà qua
đó, các quốc gia thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến hành trong
Vùng, đặc biệt là nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo đúng phần
này.
2. Cơ quan quyền lực nắm các quyền hạn
và chức năng Công ước giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan quyền lực có những
quyền hạn và chức năng nói trên đối với những hoạt động tiến hành trong Vùng.
3. Cơ quan quyền lực được thành lập trên
nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các thành viên.
4. Để bảo đảm cho mỗi thành viên các
quyền và lợi ích do tư cách thành viên mà có, tất cả các thành viên của Cơ quan
quyền lực phải làm tròn một cách trung thực những nghĩa vụ của họ theo phần
này.
ĐIỀU 158. Các cơ quan của Cơ quan quyền lực
1. Một đại hội đồng, một Hội đồng và một
Ban thư ký được lập ra là những cơ quan chính của Cơ quan quyền lực.
2. Một Xí nghiệp được lập ra là cơ quan
mà thông qua đó, cơ quan quyền lực thi hành các chức năng được nêu ở Điều 170,
khoản 1.
3. Các cơ quan phụ trợ được coi là cần
thiết có thể được thành lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan chính của Cơ quan quyền
lực và Xí nghiệp có nhiệm vụ thi hành những quyền hạn và chức năng đã được giao
phó. Trong khi thi hành các quyền hạn và chức năng này, mỗi cơ quan tránh những
hành động có thể đụng cham hoặc làm hại cho việc thi hành các quyền hạn và chức
năng riêng đã được giao phó cho một cơ quan khác.
ĐIỀU 159. Cơ cấu, thủ tục và biểu quyết
1. Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành
viên của Cơ quan quyền lực. Mỗi thành viên có một đại diện ở Đại hội đồng,
người này có thể có những người thay thế và cố vấn đi theo.
2. Đại hội đồng họp thường kỳ hàng năm,
và họp bất thường theo quyết định của Đại hội đồng hay do Tổng thư ký triệu tập
theo yêu cầu của Hội đồng hay của đa số các thành viên của Cơ quan quyền lực.
3. Các khóa họp của Đại hội đồng được
tiến hành tại trụ sở của Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại hội đồng có quyết định
khác.
4. Đại hội đồng thông qua quy chế nội bộ
của mình. Mỗi khi khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu ra chủ tịch và
số ủy viên cần thiết khác của cơ quan chỉ đạo. Những người này lãnh trách nhiệm
cho đến khi bầu cử một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường kỳ tiếp theo.
5. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa
số thành viên của Đại hội đồng.
6. Mỗi thành viên của Đại hội đồng có
một phiếu.
7. Các quyết định về những vấn đề thủ
tục kể cả việc triệu tập một khóa họp bất thường của Đại hội đồng được thông
qua theo đa số thành viên có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định về các vấn đề nội dung
phải được hai phần ba thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là
đa số này phải gồm đa số các thành viên tham dự khóa họp. Trong trường hợp còn
nghi ngờ không rõ có phải là một vấn đề nội dung hay không, thì vấn đề bàn cãi
đó được coi như là một vấn đề nội dung, trừ trường hợp Cơ quan quyền lực có
quyết định khác theo đa số cần thiết đối với những quyết định về các vấn đề nội
dung.
9. Khi một vấn đề nội dung sắp được đem
ra biểu quyết lần đầu thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có ít nhất một phần năm
số thành viên của Đại hội đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn việc biểu quyết về
điểm này trong một thời hạn không được quá 5 ngày. Quy tắc này chỉ có thể được
áp dụng một lần đối với cùng một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được
làm cho vấn đề bị hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất một phần tư số thành
viên của Đại hội đồng thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên Chủ tịch Đại hội đồng,
yêu cầu các Đại hội đồng lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị đưa ra Đại hội đồng
yêu cầu Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc
tế về luật biển có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được hoãn đến khi Viện phát
biểu ý kiến. Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà chưa nhận được ý kiến
tư vấn thì Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại để biểu quyết về đề
nghị đã bị hoãn lại đó.
ĐIỀU 160. Các quyền hạn và chức năng
1. Đại hội đồng, cơ quan duy nhất bao
gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực, được coi là cơ quan tối cao
của Cơ quan quyền lực; Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm trước nó, như đã
được quy định rõ ràng trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn cứ vào các quy
định tương ứng của Công ước quyết định chính sách chung của Cơ quan quyền lực
về bất kỳ vấn đề gì hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền
lực.
2. Ngoài ra, Đại hội đồng còn có các
quyền hạn và chức năng sau đây:
a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo
đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng
cử viên do Hội đồng đề nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu
ra các ủy viên của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì thành lập các cơ quan
phụ trợ để có thể làm tròn các chức năng của mình theo đúng phần này. Về cơ cấu
của các cơ quan phụ trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên tắc phân bổ
công bằng theo địa lý về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt và đến sự
cần thiết bảo đảm cho các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên có trình
độ và thông thạo trong những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần đóng góp của các thành
viên vào ngân sách hành chính của Cơ quan quyền lực theo một ba-rem đã được sử
dụng cho ngân sách thông thường của Liên hợp quốc, cho đến khi Cơ quan quyền
lực có được các khoản thu nhập lấy từ các nguồn khác đủ để trang trải các chi
phí hành chính của mình;
f) i. Dựa vào kiến nghị của Hội đồng,
xem xét và phê chuẩn các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc phân
chia công bằng từ các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác thu
được từ những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng như những đóng góp được trù
định ở Điều 82, có quan tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu của các nước
đang phát triển và các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được
hưởng một chế độ tự trị khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các kiến nghị
của Hội đồng, thì gửi trả lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội đồng xem xét
lại dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê chuẩn các quy tắc,
qui định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả những điều sửa đổi
đối với văn bản này, mà Hội đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều 162, khoản 2,
điểm c, ii. Các quy tắc, quy định và thủ tục này nhằm vào việc thăm dò, khảo
sát và khai thác trong Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và vấn đề hành chính
nội bộ của Cơ quan quyền lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng quản trị của
Xí nghiệp, vào vấn đề chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan quyền lực;
g) Quyết định việc phân chia công bằng
các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác có được từ các hoạt động
tiến hành trong Vùng, một cách phù hợp với Công ước và các quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực;
h) Xem xét và phê chuẩn dự trù ngân sách
hàng năm của Cơ quan quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên;
i) Xem xét và báo cáo định kỳ của Hội
đồng và của Xí nghiệp, cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng yêu cầu
Hội đồng và bất kỳ cơ quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên;
j) Cho tiến hành các cuộc nghiên cứu và
soạn thảo các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến các hoạt
động tiến hành trong vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật quốc tế theo
hướng tiến bọ và pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những vấn đề có tính chất
chung có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là những
vấn đề nảy sinh đối với các quốc gia đang phát triển, cũng như đối với những
vấn đề mà các hoạt động này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị trí địa lý
của họ, nhất là các quốc gia không có biển và các quốc gia có hoàn cảnh địa lý
bất lợi;
l) Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa vào
ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ hay thi hành
các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh
kinh tế như đã trù định trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các
đặc quyền gắn liền với tư cách thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất kỳ vấn đề gì hay việc
gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực và quyết định một cách phù hợp với
việc phân chia các quyền và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ quan
nào sẽ giải quyết một vấn đề gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát cho
các cơ quan đó.
ĐIỀU 161. Cơ cấu, thủ tục và bỏ phiếu
1. Hội đồng gồm 36 ủy viên của Cơ quan
quyền lực do Đại hội đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số
các quốc gia thành viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản phẩm
cơ bản thuộc các loại khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức tiêu
thụ hay mức nhập khẩu của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời gian 5
năm lại đây có số liệu thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có một
quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu thụ
lớn nhất;
b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số
tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của
các công dân nước mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất
cho việc chuẩn bị và thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc
chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên
này, ít nhất phải có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số
tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của
các công dân nước mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho
việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy
viên này, ít nhất phải có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ
thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn trong số
các quốc gia thành viên đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc biệt.
Những lợi ích đặc biệt phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc
gia có dân số đông, của các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý
bất lợi, của các quốc gia trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại
khoáng sản sẽ được khai thác trong Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất
các khoáng sản đó và của các quốc gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên
tắc phân bổ công bằng theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội đồng;
tất nhiên là theo quy định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia
được bầu làm ủy viên. Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la –
tinh, châu Á, Đông Âu (xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy viên của Hội đồng theo
đúng khoản 1, Đại hội đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của các quốc gia không có
biển và của các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý
với sự đại diện của họ tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc gia ven biển,
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu
ở khoản 1, điểm a, b, c hay d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ
ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có
đại diện ở Hội đồng sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình
làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong
một khóa họp thường lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên của Hội đồng được bầu
với nhiệm kỳ là bốn năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên của Hội đồng
lần đầu, một nữa số ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản 1 có nhiệm
kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của Hội đồng có thể được
tái cử, nhưng cần phải chú ý thích đang đến việc bảo đảm sự luân phiên của các
ủy viên.
5. Hội đồng thi hành chức trách của mình
ở trụ sở của Cơ quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt động của Cơ
quan quyền lực và, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi năm họp ba
lần.
6. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa
số ủy viên của Hội đồng.
7. Mỗi ủy viên của Hội đồng có một
phiếu.
8. a) Các quyết định về các vấn đề thủ
tục được thực hiện theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ phiếu.
b) Các quyết định về những vấn đề nội
dung được đề ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và
Điều 191, được thông qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu,
với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng;
c) Các quyết định về những vấn đề nội
dung được đặt ra liên quan đến các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa
số ba phần tư các ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện
là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1;
Điều 162, khoản 2, điểm a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm
u, trong những trường hợp một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó
không thực hiện hợp đồng; Điều 162, khoản 2, điểm w, với điều kiện các lệnh
được đưa ra theo điểm này chỉ có thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được một quyết
định phù hợp với điểm d, xác nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z; Điều 163,
khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều 11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về những vấn đề nội
dung được đặt ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc
thông qua các điều sửa đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus
(thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ
“consensus” (thỏa thuận) có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức
nào. Trong 14 ngày tiếp sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch
phải xem xét xem có ý kiến phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội
đồng nhận thấy rằng có một ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba
ngày, Chủ tịch lập và triệu tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên
của Hội đồng, dưới sự chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến
bất đồng và dự thảo một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa
thuận). Ủy ban hòa giải nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo cáo lên
Hội đồng trong vòng 14 ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban không có khả năng đề
xuất một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận) thì phải
trình bày trong báo cáo của mình những lý do của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định về những vấn đề không
được liệt kê ở trên mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy
định và thủ tục của đó, nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi
trong các quy tắc, quy định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy định được xác
định bởi một quyết định của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa
thuận).
g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một
vấn đề có thuộc phạm vi của các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi
như thuộc quy định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng
trường hợp, theo đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
9. Hội đồng định ra một thử tục cho phép
một thành viên của Cơ quan quyền lực không có đại diện ở Hội đồng được tham dự
vào một cuộc họp của Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc
khi Hội đồng xét một vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện
của thành viên này có thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được
quyền bỏ phiếu.
ĐIỀU 162. Các quyền hạn và chức năng
1. Hội đồng là cơ quan chấp hành của Cơ
quan quyền lực có quyền căn cứ vào Công ước và chính sách chung do Đại hội đồng
xác định, định ra các chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải theo đối với
mọi vấn đề hay mọi việc thuộc thẩm quyền của mình.
2. Ngoài ra, Hội đồng còn:
a) Giám sát và tổ chức phối hợp việc áp
dụng phần này đối với tất cả các vấn đề và các việc thuộc thẩm quyền của Cơ
quyền lực và lưu ý Đại hội đồng về những trường hợp không tuân thủ;
b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách
các ứng cử viên vào chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng
cử viên vào các chức vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có
lưu ý đúng mức đến các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan
phụ trợ xét thấy cần thiết để thi hành các chức năng của mình theo đúng phần
này. Đối với thành phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là
các ủy viên phải có trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các
cơ quan đó phụ trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo
địa lý và đến các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội bộ của mình,
đặc biệt là xác định cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết
các hiệp định với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm
quyền của mình và với điều kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và
chuyển các báo cáo đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm
cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo
đúng Điều 6 của Phụ lục III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc
trong thời hạn 60 ngày sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và kỹ
thuật trình lên trong một phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế
hoạch làm việc, thì kế hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận, nếu không có
ủy viên nào của Hội đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một
kháng nghị bằng văn bản rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi
ở Điều 6 của Phụ lục III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa
giải được trù định ở Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết thúc
thủ tục đó mà vẫn còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc coi như
được Hội đồng chuẩn y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này bằng consensus
(thỏa thuận), không kể quốc gia hay các quốc gia đưa ra kế làm việc hay bảo trợ
người đưa ra kế hoạch đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế
hoạch làm việc hay không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm
việc theo đa số ba phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều
kiện là đa số này bao gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí
nghiệp đưa lên theo đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với
những sửa đổi cần thiết về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát đối với những
hoạt động tiến hành trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy
định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch
hóa kinh tế, theo đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần thiết và
thích hợp để bảo vệ các quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế
bất lợi nói trong quy định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch
hóa kinh tế, làm các kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ
hay định ra các biện pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
điều chỉnh kinh tế đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những
quy tắc, quy định và thủ tục về việc phân chia công bằng những mối lợi về tài
chính và những mối lợi kinh tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong
Vùng, cũng như về các khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý
đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển và của các dân tộc
chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong
khi chờ đợi Đại hội đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực và mọi điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những
kiến nghị của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên
quan khác. Những quy tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát
và khai thác trong Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội bộ
của quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác các
khối đa kim. Các quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi tài nguyên
ngoài các khối đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm kể từ ngày Cơ
quan quyền lực nhận được đơn của một trong các ủy viên của mình về vấn đề này.
Các quy tắc, quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời đến khi được Đại hội
đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà
Đại hội đồng phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh toán tất cả
các khoản tiền do Cơ quan quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các
hoạt động được thực hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn giữa những người
yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường
hợp được trù định trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của
Cơ quan quyền lực lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về
chính sách phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ
quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về
việc đình chỉ thi hành các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo
Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường
hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng quyết định
của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét
xử theo điểm u, và có những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần
thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh
và tùy theo tình hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề
phòng mọi thiệt hại nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt
động tiến hành trong Vùng;
x) Không cho các người ký kết hợp đồng
hay xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho
rằng điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển;
y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên
trách việc dự thảo những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan
đến:
i. Việc quản lý tài chính theo đúng các
Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính được trù định
trong Điều 134 và Điều 17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích hợp để điều
khiển và giám sát một đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến
hành trong Vùng để xác định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực và các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan
quyền lực có được tuân thủ không.
ĐIỀU 163. Các cơ quan của Hội đồng
1. Các cơ quan của Hội đồng thành lập
gồm có:
a) Một Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy viên do Hội đồng
bầu ra trong số các ứng cử viên do các quốc gia thành viên giới thiệu. Tuy
nhiên, nếu cần thiết, Hội đồng có thể quyết định mở rộng các thành phần của Ủy
ban này hay ủy ban kia, nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và về hiệu
quả.
3. Các ủy viên của mỗi ủy ban phải có
trình độ chuyên môn cần thiết trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của ủy ban.
Để bảo đảm cho các ủy ban thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc gia thành
viên cử các ứng cử viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên môn cần
thiết trong các lĩnh vực tương ứng.
4. Khi lựa chọn, cần phải tính đến sự
cần thiết phải phân bổ các thành viên công bằng theo địa lý và đại diện được
cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc gia thành viên nào có
thể giới thiệu quá một ứng cử viên vào cùng một ủy ban. Không ai có thể được
bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của ủy ban được bầu với
nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường hợp một ủy viên của một
ủy ban bị chết, bất lực hay từ chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì Hội đồng bầu
một ủy viên của cùng khu vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi ích để tiêp
tục hoàn thành nhiệm kỳ của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của các ủy ban không được
có lợi ích tài chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và
khai thác ở Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà họ là ủy viên,
họ không được phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu nào thuộc sở
hữu công nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14 của Phụ
lục III, cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết được do chức
trách của họ ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải làm tròn chức năng
của mình theo đúng các nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng quyết định.
10. Mỗi ủy ban soạn thảo và trình lên
Hội đồng thông qua các quy tắc và quy định cần thiết để ủy ban hoạt động được
tốt.
11. Các thủ tục ra quyết định của các ủy
ban do các quy tắc, quy định và các thủ tục của cơ quan quyền lực quy định. Nếu
có thể được thì những kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo một bản trình
bày tóm tắt những ý kiến khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường, các ủy ban làm việc ở
trụ sở của Cơ quan quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần thiết để hoàn thành
chức năng của mình một cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi hành chức năng của
mình, nếu có thể được thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy ban khác hay mọi
cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên môn của Liên
hợp quốc hoặc mọi tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem xét.
ĐIỀU 164. Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế
1. Các ủy viên của ủy ban kế hoạch hóa
kinh tế cần có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt khai thác mỏ, quản
lý các tài nguyên khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh tế quốc tế. Hội
đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình độ nghiệp vụ
cần thiết một cách đồng bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải có ít nhất hai
công dân của quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc
xuất khẩu các loại khoáng sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, đề xuất
các biện pháp thực hiện các quyết định được thông qua theo đúng Công ước có
liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu
và giá cả của các khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác
động đến các dữ kiện này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng
như của các nước xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số
các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra
những ảnh hưởng bất lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên
hay các quốc gia thành viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích
hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để đệ trình lên
Đại hội đồng, như được trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có
lợi cho các nước đang phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây
nên những ảnh hưởng bất lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị
cần thiết để thực hiện, trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các
biện pháp giúp đỡ đã được Đại hội đồng chấp nhận.
ĐIỀU 165. Ủy ban pháp lý và kỹ thuật
1. Các ủy viên của Ủy ban pháp lý và kỹ
thuật phải có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt thăm dò, khai thác
và chế biến tài nguyên khoáng sản, về hải dương học và về việc bảo vệ môi
trường biển hoặc về những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến các hoạt
động khai thác quặng ở biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác. Hội
đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp vụ
cần thiết một cách đồng bộ.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, soạn thảo
các kiến nghị lên Hội đồng về việc thi hành các chức năng của Cơ quan quyền
lực;
b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính
thức và bằng văn bản có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo
đúng Điều 153, khoản 3 và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban
chỉ dựa vào những quy định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và
trình lên Hội đồng một báo cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát
các hoạt động tiến hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác
với mọi thực thể hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay
các quốc gia hữu quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác động về sinh thái
của các hoạt động đã tiến hành hoặc đang tiến hành trong Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về
việc bảo vệ môi trường biển, có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được
thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng
các quy tắc, quy định và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến
tất cả các yếu tố thích hợp, kể các việc đánh giá những tác động về sinh thái
của các hoạt động tiến hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những
quy tắc, quy định và thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi
mà mình xét thấy cần thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên
quan đến việc bố trí một chương trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc,
đánh giá và phân tích định kỳ bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận
đối với những nguy cơ hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về
mặt ô nhiễm môi trường biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và
được tôn trọng, và việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi
chương trình này được Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng
nhân danh cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên
quan đến đáy biển xét xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này và
các phụ lục có liên quan đến phần này;
j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về
các biện pháp thi hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển được giao giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong
trường hợp khẩn cấp, Hội đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các
hoạt động nếu cần, nhằm phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây
ra cho môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu tiên
xem xét các kiến nghị này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho
những người ký kết hợp đồng hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những
lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm
trọng cho môi trường biển;
m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng
liên quan đến việc chỉ đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi
các hoạt động tiến hành trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các
quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện
của mọi hợp đồng đã ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không;
n) Tính toán sản lượng tối đa và thay
mặt Cơ quan quyền lực cấp giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến
khoản 7, một khi Hội đồng đã tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải
chọn, trong số những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của
Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu của mọi quốc gia thành
viên mọi bên hữu quan khác, các ủy viên của Ủy ban, khi thực hiện chức trách
giám sát và thanh tra của mình phải cho một đại diện của quốc gia hay của bên
hữu quan này tham dự.
1. Ban thư ký của Cơ quan quyền lực gồm
có một Tổng thư ký và số nhân viên theo sự cần thiết của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký do Đại hội đồng bầu ra
trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm và có thể
được bầu lại.
3. Tổng thư ký là viên chức cao nhất của
Cơ quan quyền lực và hoạt động với tư cách này trong tất cả các cuộc họp của
Đại hội đồng và Hội đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư ký thực hiện mọi
chức trách hành chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký trình lên Đại hội đồng
một báo cáo hàng năm về hoạt động của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 167. Nhân viên của Cơ quan quyền lực
1. Nhân viên của Cơ quan quyền lực bao
gồm những người có trình độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ quan quyền
lực cần để thi hành các chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất trong vấn đề tuyển
lựa và xác định các điều kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Cơ quan quyền
lực có những nhân viên phục vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông và
liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ này, phải tính đến tầm quan trọng của việc tuyển
lựa trên cơ sở địa lý càng rộng rãi càng tốt.
3. Nhân viên do Tổng thư ký bổ nhiệm.
Các điều kiện và thể thức bổ nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù hợp với các
quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 168. Tính chất quốc tế của Ban thư ký
1. Trong khi thực hiện chức trách của
mình, Tổng thư ký và nhân viên không được xin hay nhận chỉ thị của bất kỳ một
chính phủ nào hay một nguồn nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư ký và
nhân viên tránh mọi hành vi không phù hợp với tư cách các viên chức quốc tế và
họ chỉ chịu trách nhiệm đối với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành viên cam
kết tôn trọng tính chất quốc tế thuần túy của các chức trách của Tổng thư ký và
nhân viên của Cơ quan quyền lực và cam kết không tìm cách gây ảnh hưởng đến họ
trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Mọi hoạt động thiếu trách nhiệm của một viên
chức được đưa ra trước một tòa án hành chính được chỉ định theo các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực.
2. Tổng thư ký và nhân viên không được
có những lợi lộc tài chính trong một hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò
và khai thác tiến hành trong Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với Cơ quan
quyền lực, họ không được tiết lộ một bí mật nào, một số liệu nào thuộc sở hữu
công nghiệp và đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14, Phụ lục
III và một thông tin mật nào khác mà họ biết do các chức trách của họ ngay cả
sau khi đã thôi việc cũng vậy.
3. Nếu một viên chức của Cơ quan quyền
lực có những thiếu sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì, theo yêu cầu của
một quốc gia thành viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó, hay theo yêu cầu của một
tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo Điều 153,
khoản 2, điểm b bị thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền lực sẽ truy tố
viên chức này trước một tòa án được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham gia vào việc tố tụng,
nếu tòa án kiến nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên đó.
4. Các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực trù định các thể thức áp dụng điều này.
ĐIỀU 169. Tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức
quốc tế và các tổ chức phi chính phủ
1. Đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền
của Cơ quan quyền lực, Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng phê chuản, ký các
thỏa thuận để tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ
chức phi chính phủ được Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã
ký với họ một thỏa thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự
với tư cách là quan sát viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan
quyền lực, theo đúng quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định
ra để cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp
thích hợp.
3. Tổng thư ký có thể phân phát cho các
quốc gia thành viên các báo cáo bằng văn bản của các tổ chức phi chính phủ nói
ở khoản 1 về các vấn đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và có liên quan đến công
việc của Cơ quan quyền lực.
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan
quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2,
điểm a, cũng như các hoạt động vận chuyển, chế biến và buôn bán các khoáng sản
được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực
là pháp nhân quốc tế, Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được trù định trong Phụ
lục IV. Xí nghiệp hoạt động theo đúng Công ước và các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực, cũng như theo đúng chính sách chung do Đại hội đồng
quyết định, và Xí nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và chịu sự kiểm
soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ quan chính đóng tại
trụ sở của Cơ quan quyền lực.
4. Theo đúng Điều 173, khoản 2 và Điều
11 của Phụ lục IV, Xí nghiệp có những nguồn tài chính cần thiết để thực hiện
các chức năng của mình, và có các kỹ thuật đã được chuyển giao theo Điều 144 và
theo các quy định thích hợp khác của Công ước.
TIỂU MỤC F.TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC
ĐIỀU 171. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực
Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền
lực gồm có:
a) Các khoản đóng góp của các thành viên
của Cơ quan quyền lực được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực
thu được, theo Điều 13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển
khoản theo Điều 10 của Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều 174;
e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các
quốc gia thành viên hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo
đúng Điều 151, khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các
nguồn.
ĐIỀU 172. Ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
Tổng thư ký lập dự án ngân sách hàng năm
của Cơ quan quyền lực và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem xét dự án đó và đệ
trình lên Đại hội đồng với những kiến nghị của mình để Đại hội đồng phê chuẩn
theo Điều 160, khoản 2, điểm h.
ĐIỀU 173. Chi phí của Cơ quan quyền lực
1. Những khoản đóng góp nói ở Điều 171,
điểm a được nộp vào một tài khoản đặc biệt và dùng để trang trải các khoản cho
hành chính của Cơ quan quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các
khoản thu từ các nguồn khác đủ để trang trải các khoản chi này.
2. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền
lực trước tiên dùng để thanh toán những khoản chi hành chính. Ngoài những khoản
đóng góp nói ở Điều 171, điểm a, quỹ còn lại sau khi thanh toán các chi phí
hành chính có thể dùng, đặc biệt để:
a) Phân chia theo đúng Điều 140 và Điều
160, khoản 2, điểm g;
b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở
Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc gia đang phát
triển theo đúng Điều 151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l.
ĐIỀU 174. Quyền vay vốn của Cơ quan quyền lực
1. Cơ quan quyền lực có quyền vay vốn.
2. Đại hội đồng ấn định giới hạn của
quyền này trong quy chế tài chính được thông qua theo Điều 160, khoản 2, điểm
f.
3. Hội đồng thực hiện quyền vay vốn này.
4. Các quốc gia thành viên không chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 175. Kiểm tra tài chính hàng năm
Mỗi năm các báo cáo sổ sách và tài khoản
của Cơ quan quyền lực, kể cả các bản quyết toán tài chính hàng năm được một
kiểm soát viên độc lập do Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
TIỂU MỤC G. QUY CHẾ
PHÁP LÝ, CÁC ĐẶC QUYỀN VÀ QUYỀN MIỄN TRỪ
Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế
và có quyền về pháp lý cần thiết để thi hành chức năng và đạt tới các mục đích
của mình.
ĐIỀU 177. Các đặc quyền và quyền miễn trừ
Để có thể thực hiện các chức năng của
mình, Cơ quan quyền lực được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên
những đặc quyền và quyền miễn trừ được trù định trong tiểu mục này. Những đặc
quyền và quyền miễn trừ liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của Phụ
lục IV.
ĐIỀU 178. Quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu
tài sản
Cơ quan quyền lực cũng như tài sản và
của cải của mình đều được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài
sản, trừ phạm vi mà Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong
một trường hợp đặc biệt.
ĐIỀU 179. Quyền miễn trừ khám xét và miễn mọi hình thức
sai áp khác
Những của cải và tài sản của Cơ quan
quyền lực, dù chúng nằm ở đâu và người giữ chúng là ai, đều được miễn khám xét,
trưng thu, tịch thu, tước đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo một biện pháp
của cơ quan hành pháp hay lập pháp.
ĐIỀU 180. Quyền miễn trừ mọi sự kiểm soát, hạn chế,
quy định hay lệnh tạm hoãn nợ
Tài sản và của cải của Cơ quan quyền lực
được miễn mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ nào.
ĐIỀU 181. Hồ sơ và các thông tin chính thức của Cơ
quan quyền lực
1. Hồ sơ của Cơ quan quyền lực dù chúng
được cất giữ ở đâu đều bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu thuộc sở hữu công nghiệp,
các thông tin thuộc bí mật công nghiệp của Cơ quan quyền lực và các thông tin
tương tự, cũng như các hồ sơ về nhân sự không được để trong các cơ quan lưu trữ
đại chúng.
3. Đối với các thông tin chính thức, mỗi
quốc gia thành viên dành cho Cơ quan đối xử ít nhất cũng thuận tiện như đối với
các tổ chức quốc tế khác.
Đại biểu các quốc gia thành viên tham dự
các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng hoặc của các cơ quan của Đại hội
đồng hay của Hội đồng, cũng như Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực,
được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ về tài phán và tịch
thu tài sản đối với các hành động của họ trong khi thi hành các chức vụ của
mình, trừ phạm vi quốc gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ
ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã
được quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện,
công chức và nhân cấp tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều
kiện nhập cư, các thủ tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc
gia, cũng như các điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối
đoái và về di chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
ĐIỀU 183. Miễn thuế hay lệ phí và miễn thuế quan
1. Trong khi thi hành chức năng của
mình, Cơ quan quyền lực cùng với của cải, tài sản và thu nhập của mình, cũng
như những hoạt động và giao dịch được Công ước này cho phép, đều được miễn mọi
thứ thuế trực thu và các tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu
để sử dụng trong công vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực
không thể yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ mà họ
được hưởng.
2. Đối với những việc mua của cải hay
trả tiền dịch vụ của Cơ quan quyền lực hay nhân danh Cơ quan quyền lực có một
giá trị lớn, cần thiết cho việc thực hiện chức năng của Cơ quan quyền lực và
nếu giá các loại tài sản đó hay giá dịch vụ đó bao gồm cả thuế, lệ phí hay thuế
quan, thì các quốc gia thành viên sẽ cố gắng hết sức thi hành những biện pháp
thích hợp để miễn hay hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay thuế quan. Các của
cải nhập khẩu hay mua theo chế độ miễn trừ được quy định ở điều này không được
bán, chuyển nhượng bằng cách nào khác trên lãnh thổ của quốc gia thành viên đã
cho phép miễn thuế, trừ khi việc đó được tiến hành theo các điều kiện đã thỏa
thuận với quốc gia thành viên này.
3. Các quốc gia thành viên không được
thu một loại thuế trực thu hay gián thu nào đánh vào tiền lương, tiền thù lao
hay vào các khoản tiền khác mà Cơ quan quyền lực trả cho Tổng thư ký và cho các
nhân viên của mình, cũng như cho các chuyên gia thực hiện những nhiệm vụ do Cơ
quan quyền lực giao, trừ khi họ là công dân của các nước đó.
TIỂU MỤC H. ĐÌNH CHỈ
VIỆC HƯỞNG CÁC QUYỀN VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA CÁC THÀNH VIÊN
ĐIỀU 184. Đình chỉ quyền bỏ phiếu
Trong việc thanh toán các khoản đóng góp
của mình cho Cơ quan quyền lực, một quốc gia thành viên nộp chậm, thì không
được tham gia vào các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn thiếu bằng hoặc cao
hơn tổng số tiền phải đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại hội đồng có thể cho
phép thành viên này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét thấy việc thiếu sót
này là do những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
ĐIỀU 185. Đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền
vốn có của các thành viên
1. Một quốc gia vi phạm phần này một
cách nghiêm trọng và kéo dài thì có thể bị Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội
đồng đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của thành viên.
2. Không một quyết định nào có thể được
thi hành theo khoản 1, chừng nào mà Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển không xác nhận rằng quốc gia thành viên hữu quan đã vi phạm phần
này một cách nghiêm trọng và kéo dài.
Mục 5. GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ Ý KIẾN TƯ VẤN
ĐIỀU 186. Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đáy biển của Tòa án quốc tế về luật biển
Mục này, phần XV và Phụ lục VI điều
chỉnh quy chế của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển và các
cách thức mà Viện thi hành thẩm quyền của mình,
ĐIỀU 187. Thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển
Theo phần này và các phụ lục có liên
quan, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển có thẩm quyền xét
xử những loại tranh chấp về những hoạt động tiến hành trong Vùng sau đây:
a) Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng phần này và các phụ lục có
liên quan;
b) Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia
thành viên và Cơ quan quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động hay thiếu sót của Cơ
quan quyền lực hay của một quốc gia thành viên được viện dẫn là đã vi phạm các
quy định của phần này hay các phụ lục có liên quan hay các quy tắc quy định hay
thủ tục đã được Cơ quan quyền lực thông qua theo đúng các quy định này; hoặc
ii. Các hành động của Cơ quan quyền lực
được viện dẫn là đã vượt quá thẩm quyền của mình hay đã lạm quyền;
c) Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết
một hợp đồng, dù các bên này là các quốc gia thành viên, là Cơ quan quyền lực
hay Xí nghiệp, hay các xí nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp
nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b, liên quan đến:
i. Việc giải thích hay thi hành một hợp
đồng hay một kế hoạch làm việc; hoặc
ii. Các hành động hay thiếu sót của một
bên ký kết hợp đồng liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng và làm ảnh
hưởng đến bên khác hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi ích chính đáng của các
bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền
lực và một người yêu cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2,
điểm b và đã thoản mãn các điều kiện được quy định ở Điều 4, khoản 6 và Điều
13, khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay
đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi thương lượng về hợp đồng;
e) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền
lực và một quốc gia thành viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân
hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2,
điểm b, khi thấy rằng, theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh chấp này có
đụng đến trách nhiệm của Cơ quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công
ước đã trù định rõ ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
1. Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên đề cập ở Điều 187, điểm a có thể được đưa ra trước:
a) Một viện đặc biệt của Tòa án quốc tế
về luật biển được lập ra theo đúng các Điều 15 và 17 của Phụ lục VI, theo yêu
cầu của các bên tranh chấp; hay
b) Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36
của Phụ lục VI, theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng một hợp đồng nêu ở Điều 187, điểm c điểm nhỏ i theo
yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào, được đưa ra trước trọng tài thương mại
bắt buộc, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài thương
mại xét xử một vụ tranh chấp như thế không có thẩm quyền phán xét về một điểm
giải thích Công ước. Nếu vụ tranh chấp bao hàm một điểm giải thích Phần XI và
các phụ lục có liên quan, về các hoạt động tiến hành trong Vùng thì điểm này
phải được chuyển lên cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển
quyết định.
b) Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến
hành một thủ tục trọng tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu
cầu của một trong những bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của
mình phụ thuộc vào một quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển, thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện
nói trên quyết định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết
định của Viện;
c) Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy
định về thủ tục trọng tài có thể áp dụng cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng
tài được thực hiện theo quy chế trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế
trọng tài nào khác có thể được trù định trong các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 189. Giới hạn thẩm quyền liên quan đến các quyết
định của Cơ quan quyền lực
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển không có thẩm quyền phán xét đối với việc Cơ quan quyền lực, theo
đúng phần này, thi hành các quyền tùy ý quyết định của mình; trong bất kỳ
trường hợp nào, Viện này cũng không thể thay thế cho Cơ quan quyền lực trong
việc thi hành các quyền tùy ý quyết định nói trên. Không phương hại đến Điều
191, khi thi hành thẩm quyền được thừa nhận theo Điều 187, Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển không được phán xét đối với các vấn đề xem
một quy tắc, quy định hay một thủ tục của Cơ quan quyền lực có phù hợp với Công
ước hay không và không thể tuyên bố quy tắc, quy định hay thủ tục này là vô
hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ giới hạn trong việc xác định xem việc áp dụng quy
tắc, quy định hay thủ tục của Cơ quan quyền lực trong những trường hợp riêng
biệt có ngược lại với những nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên tranh chấp hay
với các nghĩa vụ của họ theo Công ước không và xét xử những trường hợp kháng
cáo về việc không đủ thẩm quyền hay lạm quyền, cũng như những yêu cầu bồi
thường thiệt hại và những yêu cầu đền bù khác do một trong các bên kiện bên kia
vì thiếu sót trong việc thi hành nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa vụ của họ
theo Công ước.
ĐIỀU 190. Sự tham gia tố tụng và ra trước tòa của các
quốc gia thành viên đã nhận bảo trợ
1. Quốc gia thành viên bảo trợ cho một
tự nhiên nhân hay pháp nhân tham gia vào một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187
được nhận thông báo về vụ tranh chấp và có quyền tham gia vào trình tự tố tụng
bằng cách trình bày những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời.
2. Khi một vụ kiện do một tự nhiên nhân
hay pháp nhân được một quốc gia thành viên khác bảo trợ, đệ đơn kiện một quốc
gia thành viên về một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187, điểm c, thì quốc gia bị
đơn có thể yêu cầu quốc gia bảo trợ ra trước tòa nhân danh bên nguyên. Nếu
không ra trước tòa được, thì quốc gia bị đơn có thể ủy quyền cho một pháp nhân
mang quốc tịch của mình thay mặt.
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển đưa ra các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng, hay Hội
đồng về những vấn đề pháp lý được đặt ra trong những thời hạn ngắn nhất.
BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn
giữ môi trường biển.
ĐIỀU 193. Quyền thuộc chủ quyền của các quốc gia khai
thác các tài nguyên thiên nhiên của mình
Các quốc gia có quyền thuộc chủ quyền
khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi trường của
mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình.
ĐIỀU 194. Các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển
1. Các quốc gia, tùy theo tình hình, thi
hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, tất cả các biện pháp phù hợp với Công ước,
cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, sử dụng các
phương tiện thích hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa các chính sách của
mình về mặt này.
2. Các quốc gia thi thành mọi biện pháp
cần thiết để cho các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của
mình không gây tác hại do ô nhiễm cho các quốc gia khác và cho môi trường của họ
và để cho nạn ô nhiễm nảy sinh từ những tai nạn hay từ các hoạt động thuộc
quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không lan ra ngoài các khu vực mà
mình thi hành các quyền thuộc chủ quyền theo đúng Công ước.
3. Các biện pháp được sử dụng để thi hành
phần này cần phải nhằm vào tất cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường biển.
Nhất là, chúng bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến mức cao nhất:
a. Việc thải bỏ từ khí quyển xuống hay
đi qua khí quyển do nhận chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là các
chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất liền;
b. Ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra, đặc
biệt là những biện pháp nhằm đề phòng các sự cố và đối phó với các trường hợp
khẩn cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển, ngăn ngừa những
hành động thải bỏ, dù cố ý hay không, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc,
trang bị và việc khai thác các tàu thuyền;
c. Ô nhiễm bắt nguồn từ các thiết bị hay
phương tiện được sử dụng để thăm dò hay khai thác các tài nguyên thiên nhiên
của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển này, đặc biệt là các biện pháp nhằm
phòng ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an toàn
cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị
và việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần nhân viên được
sử dụng ở đó;
d. Ô nhiễm xuất phát từ các thiết bị hay
phương tiện khác hoạt động trong môi trường biển, đặt biệt là những biện pháp
nhằm phòng ngừa những sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, bảo đảm an
toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang
bị và khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần nhân viên được
sử dụng ở đó.
4. Khi thi hành các biện pháp phòng
ngừa, hạn chế , hay chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia tránh chấp cứ
sự can thiệp vô lý nào vào các hoạt động của các quốc gia khác đang thi hành
các quyền hay đang thực hiện nghĩa vụ của họ theo đúng Công ước.
5. Các biện pháp được thi hành theo đúng
phần này bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống sinh
thái hiếm hoi hay mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các loài và các sinh
vật biển khác đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt.
Khi thi hành các biện pháp để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia phải làm sao để không
đùn đẩy, trực tiếp hay gián tiếp, thiệt hại hay các nguy cơ từ vùng này sang
vùng khác và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm
khác.
ĐIỀU 196. Sử dụng các kỹ thuật hay du nhập các loài
ngoại lai hoặc mới
1. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp
cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển từ việc sử
dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của
mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô tình vào một bộ phận môi trường biển các
ngoại lai hoặc mới có thể gây ra ở đó các thay đổi đáng kể và có hại.
2. Điều này không ảnh hưởng đến việc áp
dụng các quy định của Công ước có liên quan đến các biện pháp nhằm ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Mục 2. HỢP TÁC TRÊN PHẠM VI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 197. Hợp tác trên phạm vi thế giới hoặc khu vực
Các quốc gia hợp tác trên phạm vi thế
giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy
tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính
chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, có
tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực.
ĐIỀU 198. Thông báo về một nguy cơ gây thiệt hại sắp
xảy ra hay thông báo về một thiệt hại thực sự
Quốc gia nào biết được trường biệt môi
trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu những thiệt hại hay đã chịu những
thiệt hại do ô nhiễm thì phải lập tức thông báo cho các quốc gia khác mà mình
xét thấy có nguy cơ phải chịu những tổn thất này cũng như cho các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền.
ĐIỀU 199. Kế hoạch khẩn cấp chống ô nhiễm
Trong các trường hợp đã nêu ở Điều 198,
các quốc gia ở trong khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng của mình, và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau đến mức cao nhất nhằm loại trừ ảnh
hưởng của ô nhiễm và nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại.
Nhằm mục đích này, các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc tiến các kế
hoạch khẩn cấp để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 200. Công tác nghiên cứu, các chương trình nghiên
cứu và trao đổi thông tin và các dữ kiện
Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm đẩy mạnh công
tác nghiên cứu, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học và khuyến khích
việc trao đổi các thông tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi trường biển. Các quốc
gia cố gắng tham gia tích cực vào các chương trình khu vực và thế giới nhằm thu
được những kiến thức cần thiết để xác định tính chất và phạm vi ô nhiễm, đối
tượng có nguy cơ bị ô nhiễm, những con đường mà nạn ô nhiễm đi qua, những nguy
hiểm mà nạn ô nhiễm chứa đựng và những phương thức khắc phục có thể có.
ĐIỀU 201. Tiêu chuẩn khoa học để soạn thảo các quy
định
Lưu ý đến các thông tin và các dữ kiện
thu được trong khi áp dụng Điều 200, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm lập ra các tiêu
chuẩn khoa học thích hợp để xây dựng và soạn thảo các quy tắc và quy phạm, cũng
như các tập quán và thủ tục được kiến nghị nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 202. Giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển
trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật
Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia cần:
a. Đẩy mạnh các chương trình giúp đỡ cho
các quốc gia đang phát triển trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, kỹ thuật và
trong các lĩnh vực khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này đặc biệt gồm có:
i. Đạo tạo nhân viên khoa học và kỹ
thuật của các quốc gia này;
ii. Tạo điều kiện dễ dàng cho việc tham
gia của các quốc gia này vào các chương trình quốc tế thích hợp;
iii. Cung cấp cho các quốc gia này cơ sở
vật chất và những điều kiện thuận lợi cần thiết;
iv. Tăng cường khả năng tự sản xuất cơ
sở vật chất nói trên cho các quốc gia đó;
v. Giúp đỡ các ý kiến tư vấn và phát
triển các phương tiện vật chất liên quan đến các chương trình nghiên cứu, các
chương trình giám sát liên tục, chương trình giáo dục và các chương trình khác;
b. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc
biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để giúp các quốc gia này giảm bớt đến
mức tối thiểu những ảnh hưởng của các tai biến lớn có nguy cơ gây ra một nạn ô
nhiễm nghiêm trọng cho môi trường biển;
c. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc
biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để xây dựng các đánh giá về sinh thái
học.
ĐIỀU 203. Việc đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang
phát triển
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển hoặc để hạn chế đến mức tối thiểu các ảnh hưởng của nó, các tổ
chức quốc tế dành sự đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển về:
a. Việc trợ cấp vốn và các phương tiện
giúp đỡ kỹ thuật thích hợp; và
b. Việc sử dụng các cơ sở chuyên môn của
mình.
Mục 4. GIÁM SÁT LIÊN TỤC VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ SINH THÁI
ĐIỀU 204. Giám sát liên tục các nguy cơ ô nhiễm và ảnh
hưởng của ô nhiễm
1. Các quốc gia cần cố gắng hết sức mình
và phù hợp với các quyền của các quốc gia khác, trực tiếp hoặc qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để quan sát, đo đạc, đánh giá và phân
tích, bằng các phương pháp khoa học được thừa nhận, các nguy cơ ô nhiễm môi
trường biển hay những ảnh hưởng của vụ ô nhiễm này.
2. Đặc biệt, các quốc gia phải thường
xuyên giám sát những tác động của mọi hoạt động mà họ cho phép hay họ tiến hành
để xác định xem các hoạt động này có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường biển hay
không.
ĐIỀU 205. Việc công bố các báo cáo
Các quốc gia công bố các báo cáo về kết
quả thu được trong khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng thời gian thích hợp,
cung cấp các báo cáo như vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và các tổ
chức quốc tế này cần phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng các báo cáo này.
ĐIỀU 206. Đánh giá những tác dụng tiềm tàng của các
hoạt động
Khi các quốc gia có những lý do xác đáng
để cho rằng các hoạt động đã dự tính thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát
của mình có quy cơ gây ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm thay đổi đáng kể
và có hại đối với môi trường biển, thì trong chừng mực có thể, các quốc gia này
cần đánh giá các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối với môi trường đó
và cần báo cáo lại những kết quả của những đánh giá này theo cách đã được quy
định ở Điều 205.
ĐIỀU 207. Ô nhiễm bắt nguồn từ đất
1. Các quốc gia thông qua các luật và
quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ
đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và
các thiết bị thải đổ, có lưu ý đến các quy tắc và quy phạm cũng như các tập
quán và thủ tục được kiến nghị và chấp nhận trên phạm vi quốc tế.
2. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp
có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
3. Các quốc gia có cố gắng điều hòa các
chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
4. Đặc biệt khi hành động qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc
gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục
được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự nạn ô nhiễm bắt nguồn từ đất đối với môi trường biển, có tính đến các đặc
điểm khu vực, đến khả năng kinh tế của các quốc gia đang phát triển và các đòi
hỏi về phát triển kinh tế của các quốc gia này. Các quy tắc và quy phạm cũng
như các những tập quán và thủ tục được kiến nghị này tùy theo sự cần thiết mà
qua từng thời kỳ, được xem xét lại.
5. Các luật, quy chế và các biện pháp
cũng như các quy tắc, quy phạm và các tập quán, thủ tục được kiến nghị đã nêu ở
khoản 1, 2 và 4, bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến hết mức việc trút vào
môi trường biển các chất độc, có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không thể
phân hủy được.
ĐIỀU 208. Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy
biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra
Các quốc gia ven biển thông qua các luật
và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường biển
trực tiếp hay gián tiếp do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài
phán quốc gia gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình
thuộc quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và 80.
Các quốc gia thi hành mọi biện pháp khác
có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp này
không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và
thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế.
Các quốc gia cố gắng điều hòa các chính
sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc
gia thông qua các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến
nghị, trên phạm vi thế giới và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô
nhiễm môi trường biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán
và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được
xem xét lại.
ĐIỀU 209. Ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong
Vùng gây ra
1. Các quy tắc, quy định và thủ tục quốc
tế được thông qua theo đính Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra. Các quy tắc, quy
định và thủ tục này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét
lại.
2. Trong điều kiện tuân theo các quy
định thích hợp của mục này, các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển này sinh từ các hoạt động tiến
hành trong Vùng của các tàu thuyền hay xuất phát từ các thiết bị, công trình
hay các phương tiện khác, tùy theo trường hợp, treo cờ của các quốc gia đó,
đăng ký ở trên lãnh thổ hay thuộc quyền của họ. Các luật và quy định này không
được kém hiệu lực hơn các quy tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói ở khoản 1.
ĐIỀU 210. Ô nhiễm do sự nhận chìm
Các quốc gia thông qua các luật và quy
định để phòng ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do sự nhận chìm.
Các quốc gia thi hành tất cả các biện
pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp phải bảo
đảm rằng không một sự nhận chìm nào có thể được tiến hành mà không được phép
của các nhà đương cục có thẩm quyền của các quốc gia.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao; các quốc
gia cố gắng thông qua trên phạm vi thế giới và khu vực các quy tắc và quy phạm
cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm này. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị
này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Việc nhận chìm ở trong lãnh hải và trong
vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa không thể được tiến hành nếu
không được sự đồng ý rõ ràng trước quốc gia ven biển; quốc gia ven biển có
quyền cho phép, quy định và kiểm soát sự nhận chìm này, sau khi đã xem xét đúng
mức vấn đề với các quốc gia khác mà do những hoàn cảnh địa lý nên việc nhận
chìm này có thể có những tác hại đối với họ.
Các luật và quy định cũng như các biện
pháp quốc gia không được kém hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm có tính chất
thế giới để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
ĐIỀU 211. Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra
Hành động qua trung gian của tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, các quốc gia thông
qua các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển do các tàu thuyền gây ra và quan tâm tạo điều kiện dễ dàng cho
việc định ra, cũng theo cách nói trên, nếu cần, các cách bố trí đường giao
thông cho tàu thuyền nhằm hạn chế đến mức tối thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn có
thể làm cho môi trường biển kể cả vùng duyên hải bị ô nhiễm, và do đó mà đụng
chạm đến những lợi ích có liên quan của các quốc gia ven biển. Các quy tắc và
quy phạm này, cũng theo cách như thế, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ
được xem xét lại.
Các quốc gia thông qua các luật và quy
định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền mà
mình cho mang cờ hay cho đăng ký gây ra. Các luật và quy định này không được
kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung và được
xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao chung.
Nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia khi đặt ra các điều kiện đặt biệt cho
các tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công trình
cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều kiện này
và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. Để điều hòa chính sách
về mặt này, khi hai hay nhiều quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện như vậy
dưới một hình thức giống nhau, cần ghi rõ trong thông báo các quốc gia nào tham
gia vào các thỏa thuận như vậy. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một
chiếc tàu mà mình cho mang cờ hay đăng ký, khi tàu có mặt ở trong lãnh hải của
một quốc gia tham gia vào những thỏa thuận chung này, phải cung cấp, theo yêu
cầu của quốc gia này, những thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu này có hướng về một
quốc gia thuộc cùng khu vực tham gia vào các thỏa thuận này không và, nếu đúng,
cần xác định xem chiếc tàu này có đáp ứng đầy đủ các điều kiện do quốc gia này
đặt ra liên quan đến việc đi vào trong các cảng của mình không. Điều này được
áp dụng không phương hại đến việc tiếp tục thực hiện quyền đi qua không gây hại
của một chiếc tàu hay đến việc áp dụng Điều 25, khoản 2.
Trong việc thi hành chủ quyền đối với
lãnh hải của mình, các quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy định
để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền nước
ngoài gây ra, kể cả các tàu thuyền đang thực hiện quyền đi qua không gây hại.
Các luật và quy định này, theo đúng với Mục 3 của phần II, không được cản trở
việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm thực hiện việc áp dụng đã nói ở mục
6, các quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy định nhằm ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế
của mình; các luật và quy định đó phải phù hợp và đem lại hiệu lực cho các quy
tắc và quy định quốc tế được chấp nhận chung và được xây dụng qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
a. Khi các quy tắc và quy phạm quốc tế nói
ở khoản 1 không cho phép đáp ứng một cách thích đáng với những tình huống đặc
biệt và nếu một quốc gia ven biển có lý do chính đáng để cho rằng một khu vực
đặc biệt và được xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, đòi
hỏi phải thông qua các biện pháp bắt buộc đặc biệt để ngăn ngừa ô nhiễm do tàu
thuyền gây ra, vì những lý do kỹ thuật được thừa nhận do những đặc điểm hải
dương học và sinh thái học của khu vực đó cũng như do việc sử dụng hay việc bảo
vệ các tài nguyên của khu vực đó và do đặc điểm riêng của luồng giao thông, thì
quốc gia này, sau khi thông qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền,
đã tham khảo ý kiến thích đáng với mọi quốc gia hữu quan, có thể gửi lên tổ
chức này một thông báo liên quan đến khu vực xem xét bằng cách đưa ra những
chứng minh khoa học và kỹ thuật, cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị thu nhận
cần thiết để chứng minh. Trong thời hạn 12 tháng sau khi nhận được thông báo,
tổ chức quyết định xem tình hình trong khu nvực được xem xét có đáp ứng các
điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức quyết định đúng là như vậy, thì quốc gia
ven biển có thể thông qua cho khu vực này các luật và quy định nhằm ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra đem lại hiệu lực cho các
quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng hải quốc tế mà tổ chức đã đưa ra áp
dụng cho những khu vực đặc biệt.Các luật và quy định này chỉ được áp dụng đối
với các tàu thuyền nước ngoài sau một thời hạn là 15 tháng kể từ ngày thông báo
cho tổ chức;
Quốc gia ven biển công bố các giới hạn
của các khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng này;
Khi làm thông báo kể trên, quốc gia ven
biển cần đồng thời nói rõ cho tổ chức rằng họ có ý định thông qua, cho khu vực
mà họ đề cập, những luật và quy định bổ sung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm môi trường do tàu thuyền gây ra hay không. Các luật và quy dịnh bổ sung
này có thể đề cập việc thải bỏ hay những tập quán hàng hải, nhưng không bắt
buộc các tàu thuyền nước ngoài phải tôn trọng các tiêu chuẩn khác về mặt thiết
kế, cấu trúc và trang bị, ngoài các quy tắc và quy phạm quốc tế đẵ được chấp
nhận chung; các luật và quy định bổ sung này có thế áp dụng cho tàu thuyền nước
ngoài, sau 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức này, với điều kiện là tổ
chức này, trong một thời hạn là 12 tháng, kể từ ngày được thông báo, đã chuẩn y
các luật và quy định bổ sung nói trên.
Các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở
điều này còn cần trù định nghĩa vụ phải thông báo ngay lập tức cho các quốc gia
ven biển mà vùng duyên hải hay các lợi ích liên quan của họ có nguy cơ bị những
tai nạn trên biển tác động đến, nhất là những tai nạn dẫn đến hay có nguy cơ
dẫn đến những việc thải bỏ.
ĐIỀU 212. Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay
qua bầu khí quyển
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển, các quốc
gia thông qua các luật và quy định áp dụng ở vùng trời thuộc chủ quyền của mình
và áp dụng cho các tàu thuyền mang cờ của mình hay cho các tàu thuyền hoặc các
phương tiện bay mà mình cho đăng ký, có tính đến các quy tắc quy phạm, cũng như
những tập quán và thủ tục được kiến nghị, và đã được chấp nhận trên phạm vi
quốc tế vá có tính đến an toàn hàng không.
Các quốc gia thi hành các biện pháp khác
có thể cấn thiết để ngăn giữ, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian
cảu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc
gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục
được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự nạn ô nhiễm này.
ĐIỀU 213. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm
xuất phát từ đất
Các quốc gia đảm bảo việc áp dụng các
luật và quy định và thi hành theo đúng Điều 207; Các quốc gia thông qua luật và
quy định và thi hành các biện pháp cần thiết khác để đem lại hiệu lực cho các
quy tắc và quy phạm quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt nguồn từ đất.
Các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các
luật và quy định đã được thông qua theo đúng Điều 208; họ thông qua các luật và
các quy định và thi hành các biện pháp cấn thiết khác để đem lại hiệu lực cho
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do các hoạt động liên quan đến đáy biển
và thuộc quyền tài phán của mình, trực tiếp hay gián tiếp gây ra, hay xuất phát
từ các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình được đặt dưới quyền tài phán
của mình theo các Điều 60 và 80.
Việc áp dụng quy tắc, quy định và thủ
tục quốc tế được xây dựng theo đúng Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển gây ra bởi các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này
điều chỉnh.
ĐIỀU 216. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm
do việc nhận chìm
Các luật và quy định được thông qua theo
đúng Công ước và các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng
qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao nhằm ngăn ngừa,hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bởi việc nhận
chìm do các đối tượng sau đây thi hành:
Quốc gia ven biển, đối với việc nhận
chìm nằm trong giới hạn của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế hay trên
thềm lục địa của mình;
Quốc gia mà tàu mang cờ, đối với các tàu
thuyền mang cờ của mình hay các tàu hay phương tiện bay mà mình cho đăng ký;
Bất kỳ quốc gia nào, đối với việc đưa ra
chất cặn bã hay các chất khác lên lãnh thổ của mình hay lên các công trình cảng
cuối cùng ra khơi.
Theo điều này, không quốc gia nào được
khởi tố, khi vụ kiện đã được một quốc gia khác khởi tố cũng theo đúng điều này.
ĐIỀU 217. Các quyền hạn của các quốc gia mà tàu mang
cờ
Các quốc gia quan tâm đến việc tàu
thuyền mang cờ của mình hay được mình cho đăng ký tôn trọng các quy tắc và quay
phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, cũng như các luật và quy
định mà các quốc gia này đã thông qua theo đúng Công ước để ngăn ngừa hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra và họ thông qua các quy
luật và quy định, và thi hành các biện pháp cần thiết để đem lại hiệu lực cho
các quy luật và quy định đó. Quốc gia mà tàu mang cờ phải quan tâm đến việc các
quy tắc, quy phạm, luật và quy định này được áp dụng một cách có hiệu quả, bất
kể việc vi phạm xảy ra ở đâu.
Đặc biệt, các quốc gia thi hành các biện
pháp thích hợp để cấm các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho
đăng ký chuẩn bị nhổ neo, chừng nào chúng không tuân theo đúng các quy tắc và
quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1, kể các quy định liên quan đến cách thiết kế,
cấu trúc, và trang bị của tàu thuyền.
Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu
thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký phải có đủ các chứng từ
cấn thiết và được cấp theo các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1. Các
quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ nước mình phải được kiểm tra
định kỳ xác minh xem lời ghi chú ở trên các chứng từ này có phù hợp với tình
trạng thực tế của con tàu hay không. Các quốc gia khác chấp nhận các chứng từ
này cũng có giá trị như là những chứng từ mà mình cấp, trừ khi có lý do xác
đáng để cho rằng tình trạng con tàu trong một chừng mực quan trọng không phù
hợp với các ghi chú ở trên các chứng từ này.
Nếu một con tàu vi phạm các quy tắc và
quy định được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua
một hội nghị ngoại giao chung, quốc gia cho tàu mang cờ, với điều kiện không
phương hại tới các Điều 218, 220 và 228, phải lập tức tiến hành mọi cuộc điều
tra và, nếu thấy cần thì, khởi tố đối với vụ vi phạm được suy đoán đó, bất kể
nơi xảy ra vụ vi phạm này hay vị trí mà nạn ô nhiễm do vụ vi phạm gây ra đã xảy
ra hoặc được xác nhận là ở đâu.
Khi tiến hành điều tra vụ vi phạm, quốc
gia mà tàu mang cờ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của mọi quốc gia khác mà sự hợp
tác có thể có ích để làm sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc. Các quốc gia cố
gắng đáp ứng các yêu cầu thích hợp của các quốc gia mà tàu mang cờ.
Theo yêu cầu bằng văn bản của một quốc
gia,các quốc gia phải tiến hành điều tra về mọi vi phạm do tàu thuyền mang cờ
của họ có thể đã phạm phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành không chậm
trễ việc truy tố về nội dung chính của sự vi phạm đã được suy đoán theo đúng
luật trong nước của mình, nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng cứ để tiến hành công
việc này.
Quốc gia mà tàu mang cờ thông báo ngay
cho quốc gia yêu cầu và tổ chức quốc tế có thẩm quyền về vụ việc đã được khởi
tố và kết quả của nó. Tất cả các quốc gia đều được tiếp xúc với những thông tin
đã được thông báo đó.
Những chế tài được trù định trong các
quy luật và quy định của quốc gia đối với các tàu thuyền mang cờ của mình cần
phải nghiêm khắc để hạn chế các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu.
ĐIỀU 218. Các quyền hạn của quốc gia có cảng
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt ở trong
một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng có
thể mở một cuộc điều tra và, khi có các chứng cứ để chứng minh, có thể khởi tố
đối với bất kỳ sự thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoại nội thủy, lãnh hải
hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, vi phạm các luật và quy phạm quốc tế có
thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao chung.
Quốc gia có cảng không thể khởi tố theo
khoản 1 đối với một vụ vi phạm do việc thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở
ngoài nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hoặc là quốc
gia mà tàu mang cờ hay quốc gia đã chịu, hay có nguy cơ phải chịu, các tổn thất
do việc thải đổ này gây ra yêu cầu.
Khi một con tàu tự ý có mặt trong một
cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng cố gắng
chấp nhận những đơn yêu cầu điều tra của bất kỳ quốc gia nào khác về việc thải
đổ có khả năng gây ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể đã xảy ra trong nội
thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia yêu cầu, và có thể đã
gây ô nhiễm hay có nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này. Quốc gia có cảng cũng
cố gắng chấp nhận đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà tàu mang cờ về những vi
phạm như thế, bất kể các vụ vi phạm này có thể xảy ra ở đâu.
Hồ sơ điều tra do quốc gia có cảng tiến
hành theo điều này được chuyển cho quốc gia mà tàu mang cờ hay cho quốc gia ven
biển theo yêu cầu của các quốc gia này. Bất kỳ việc nào do quốc gia có cảng
khởi tố dựa trên cơ sở của cuộc điều tra này, có thể bị đình chỉ theo yêu cầu
của quốc gia ven biển, với điều kiện phải tuân theo các quy định của Mục 7, khi
vụ vi phạm đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của
quốc gia ven biển này. Khi đó những chứng cứ, hồ sơ về sự việc, cũng như mọi sự
bảo lãnh hay đảm bảo tài chính đã được gửi cho những nhà đương cục của quốc gia
có cảng phải được chuyển cho quốc gia ven biển. Sau khi chuyển giao hồ sơ, quốc
gia có cảng không theo đuổi vụ kiện nữa.
ĐIỀU 219. Các biện pháp kiểm tra khả năng đi biển nhằm
tránh ô nhiễm
Với điều kiện tuân thủ Mục 7, khi các
quốc gia, theo yêu cầu hay tự ý mình xác định rằng một con tàu đang ở một trong
các cảng của mình hay ở một trong các công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi
của mình đã vi phạm các qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng liên quan
đến khả năng đi biển của tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra thiệt hại cho
môi trường biển, cần thi hành các biện pháp hành chính trong phạm vi khả năng
của mình để ngăn không cho chiếc tàu này rời bến. Các quốc gia này chỉ cho phép
chiếc tàu này đi vào xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi đã loại trừ
các nguyên nhân gây ra vi phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu này tiếp
tục hành trình của mình ngay lập tức.
ĐIỀU 220. Các quyền hạn của quốc gia ven biển
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt trong cảng
hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi với điều kiện tuân thủ Mục 7,
quốc gia có cảng có thể khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi với các luật và quy
định mà mình đã thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng các qui tắc và quy
phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu
thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay trong vùng đặc quyền
kinh tế của mình.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng cho
rằng chiếc tàu trong lúc đi qua lãnh hải của mình đã vi phạm các luật và quy
định mà mình đã thông qua theo đúng công ước hay các nguyên tắc và quy phạm
quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu
thuyền gây ra thì quốc gia này có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu đã
gây ra vụ vi phạm, nhưng không làm phương hại đến việc áp dụng các quy định
thích hợp của Mục 3 thuộc phần II, và, khi có các chứng cứ để chứng minh được
điều đó thì có thể khởi tố và đặc biệt có thể ra lệnh giữ chiếc tàu theo đúng
luật trong nước của mình, với điều kiện phải tuân thủ theo quy định của Mục 7.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng để
cho rằng một con tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trong lãnh hải của
mình đã vi phạm các quy tắc và quy phạm quốc tế đó và đem lại hiệu lực cho
chúng, quốc gia này có thể yêu cầu con tàu cung cấp các thông tin liên quan đến
lý lịch và cảng đăng ký của tàu, cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của tàu và
các thông tin thích hợp cần thiết khác để xác định có phải một vụ vi phạm đã
xảy ra không.
Các quốc gia thông qua các luật và qui
định và thi hành các biện pháp cần thiết cho các tàu thuyền mang cờ của mình
đáp ứng các yêu cầu về thông tin đã nêu ở khoản 3.
Khi một quốc gia có các lý do xác đáng
để cho rằng một chiếc tàu đi trong đặc quyền kinh tế hay trong lãnh hải của
mình đã gây ra một vụ vi phạm trong vùng đặc quyền kinh tế đã nêu ở khoản 3 dẫn
đến những việc thải đổ nghiêm trọng vào môi trường biển, đã gây ra hoặc có nguy
cơ gây ra ở môi trường biển này một vụ ô nhiễm đáng kể, quốc gia có thể tiến
hành kiểm tra cụ thể con tàu để xác minh xem có phải đã có sự vi phạm không,
nếu như con tàu từ chối không đưa ra các thông tin, hay nếu những thông tin
được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng với sự thật, và nếu các hoàn cảnh của sự việc
lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi có chứng cứ chứng tỏ rằng một chiếc
tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay lãnh hải của một quốc gia đã gây ra
trong vùng đặc quyền về kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những
việc thải đổ gây hoặc có nguy cơ gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho vùng
duyên hải hay cho các lợi ích có liên quan của quốc gia ven biển hay cho tất cả
tài nguyên của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, thì quốc gia
đó, với điều kiện tuân thủ Mục 7 và nếu có các chứng cứ chứng minh được điều
trên, có thể tiến hành khởi tố, nhất là ra lệnh giữ con tàu lại theo đúng luật
trong nước của mình.
Mặc dù đã có khoản 6, trong mọi trường
hợp mà các thủ tục thích hợp đã được đặt ra qua trung gian của tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, hoặc do thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn trọng các nghĩa vụ
liên quan đến việc nộp tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một khoản bảo đảm tài
chính thích hợp khác, nếu như quốc gia ven biển có bị các thủ tục đó ràng buộc,
thì quốc gia đó cho phép chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 cũng được áp
dụng vào các luật và quy định quốc gia được thông qua theo điều 211, khoản 6.
ĐIỀU 221. Các biện pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm tiếp
theo sau một tai nạn xảy ra trên biển
Không một qui định nào của phần này đụng
đến các quyền của các quốc gia, theo pháp luật quốc tế, kể cả tập quán lẫn theo
công ước, định ra và tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải các biện pháp cân xứng
với những thiệt hại mà các quốc gia này đã thật sự phải chịu đựng hay bị đe dọa
phải chịu nhằm bảo vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có liên quan của mình, kể
cả việc đánh bắt hải sản, chống nạn ô nhiễm hay đe dọa ô nhiễm do một tai nạn
xảy ra trên biển hoặc do những hành vi gắn liền với một tai nạn như vậy gây ra
mà người ta có căn cứ để chờ đợi những hậu quả tai hại.
Trong điều này, thì “tai nạn trên biển”
có nghĩa là một vụ đâm va, mắc cạn hay sự cố hàng hải khác hoặc sự kiện xảy ra
ở trên hay ở một con tàu gây ra những thiệt hại về vật chất hay đe dọa sắp gây
ra những thiệt hại về vật chất cho một chiếc tàu hay hàng hóa của nó.
Trong giới hạn của vùng trời thuộc chủ
quyền của mình hay đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hoặc các tàu hay
phương tiện bay được mình cho đăng ký, các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các
luật, quy định mà mình đã thông qua theo đúng điều 212, khoản 1, theo đúng các
quy định khác của Công ước, thông qua các luật và qui định, thi hành các biện
pháp khác để phát huy hiệu lực của các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng,
được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một
hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có
nguồn gốc từ bầu khí quyển hay xuyên qua bầu khí quyển, theo đúng tất cả các
quy tắc và quy phạm quốc tế tương ứng liên quan đến an toàn hàng không.
ĐIỀU 223. Các biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc triển khai một vụ kiện
Khi có một vụ kiện do áp dụng phần này,
các quốc gia thi hành các biện pháp để tạo thuận lợi cho việc nghe nhân chứng
và thu nhận các chứng cứ do các nhà đương cục của một quốc gia khác hay do tổ
chức quốc tế có thẩm quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham
gia các phiên tòa của các đại biểu chính thức của tổ chức này, của quốc gia mà
tàu mang cờ hay của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn ô nhiễm nảy sinh
từ mọi vi phạm. Các đại biểu chính thức tham gia các phiên tòa này có quyền và
nghĩa vụ do luật trong nước hay pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 224. Việc thi hành các quyền cảnh sát
Chỉ có những nhân viên chính thức có đủ
tư cách, cũng như các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự hay các tàu thuyền
hoặc các phương tiện bay khác có mang những dấu hiệu bên ngoài chứng tỏ rõ ràng
rằng chúng thuộc một cơ quan nhà nước và được phép tiến hành công việc đó, có
thể thi hành các việc cảnh sát đối với các tàu thuyền nước ngoài theo phần này.
Khi thi hành quyền cảnh sát của mình đối
với tàu thuyền nước ngoài theo Công ước, các quốc gia không được gây ra nguy
hiểm cho an toàn hàng hải, không được gây ra một rủi ro nào cho một con tàu hay
dẫn con tàu đó về một cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng không gây ra rủi ro quá
đáng cho môi trường biển.
ĐIỀU 226. Các cuộc điều tra có thể được tiến hành đối
với tàu thuyền nước ngoài
a) Các quốc gia không được giữ một chiếc
tàu nước ngoài lâu quá mức cần thiết để tiến hành các cuộc điều tra đã được trù
định ở các Điều 216, 218 và 220. Việc kiểm tra cụ thể một chiếc tàu nước ngoài
phải được giới hạn ở việc xem xét các chứng từ, sổ đăng ký hay các tài liệu
khác mà chiếc tàu có nhiệm vụ phải mang theo, theo các quy tắc và quy phạm quốc
tế được chấp nhận chung, hay mọi tài liệu tương tự; chỉ có thể tiến hành kiểm
tra cụ thể chiếc tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem xét này và với điều duy
nhất là:
Có các lý do xác đáng để cho rằng tình
trạng con tàu hay trang thiết bị của nó về cơ bản không phù hợp với những ghi
chú ở trên các tài liệu.
Nội dung của các tài liệu này không đủ
để xác minh và thẩm tra vụ vi phạm đã được suy đoán.
Con tàu không mang theo các chứng từ và
tài liệu có giá trị.
b) Khi qua cuộc điều tra mà thấy rằng đã
có sự vi phạm các luật và qui định có thể áp dụng hay các quy tắc và quy phạm
quốc tế nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, sau khi con tàu đã hoàn thành
các thể thức hợp lý, như việc ký gửi một khoản tiền bảo lãnh hoặc một khoản bảo
đảm tài chính khác, thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ.
c) Không làm phương hại đến các quy tắc
và quy phạm quốc tế có thể áp dụng về mặt khả năng đi biển của tàu thuyền, nếu
việc chấm dứt cầm giữ một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn tới thiệt hại do khinh suất
đối với môi trường biển, thì con tàu nói trên có thể không được phép tiếp tục
cuộc hành trình, hoặc được phép nhưng với điều kiện là phải đi đến xưởng sửa
chữa thích hợp gần nhất. Trong trường hợp mà việc chấm dứt cầm giữ con tàu bị
từ chối hay bị đặt các điều kiện, thì quốc gia mà tàu mang cờ phải được thông
báo ngay về việc này và có thể yêu cầu chấm dứt việc cầm giữ này theo đúng phần
XV.
2. Các quốc gia hợp tác để soạn thảo các
thủ tục nhằm tránh khỏi việc kiểm tra cụ thể thừa đối với tàu thuyền trên biển.
ĐIỀU 227. Việc không phân biệt đối xử với tàu thuyền
nước ngoài
Khi thi hành các quyền và làm tròn các
nghĩa vụ của mình theo phần này, các quốc gia không được bắt các tàu thuyền của
một quốc gia nào khác phải chịu một sự phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về
mặt thực tế.
ĐIỀU 228. Việc đình chỉ các cuộc truy tố và các hạn
chế đối với việc truy tố
Khi một quốc gia tiến hành các cuộc truy
tố nhằm trừng phạt một vi phạm do một chiếc tàu nước ngoài gây ra ở bên ngoài
lãnh hải của quốc gia trên đối với các luật và quy định có thể áp dụng hay các
quy tắc và qui phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu
thuyền gây ra, thì các cuộc truy tố này phải bị đình chỉ ngay sau khi quốc gia
mà tàu mang cờ đã tự mình tiến hành các cuộc truy tố đối với nội dung chính của
vụ vi phạm nói trên, trong vòng 6 tháng tiếp theo việc khởi tố đầu tiên, trừ
khi việc khởi tố này nhằm vào một trường hợp đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho
quốc gia ven biển, hay quốc gia mà tàu mang cờ nói trên đã nhiều lần không làm
tròn nghĩa vụ của mình để bảo đảm áp dụng thực sự các quy tắc và các quy phạm
quốc tế hiện hành đối với các vụ vi phạm do tàu thuyền của mình gây ra. Quốc
gia mà tàu mang cờ khi đã yêu cầu đình chỉ các cuộc truy tố theo đúng điều này
trao lại trong thời gian thích hợp cho quốc gia đầu tiên một hồ sơ đầy đủ về sự
việc và các văn bản gốc của vụ án. Khi các tòa án của quốc gia mà tàu mang cờ
đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải chấm dứt sau khi đã thanh toán xong các
chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền bảo lãnh hay khoản bảo đảm tài chính
nào khác được ký gửi khi tiến hành các cuộc truy tố này đều phải được quốc gia
ven biển trả lại.
Không thể tiến hành các cuộc truy tố đối
với tàu thuyền nước ngoài sau thời hạn 3 năm kể từ ngày vi phạm, và không quốc
gia nào có thể tiến hành rồi, với điều kiện phải tuân thủ khoản 1.
Điều này không đụng chạm đến quyền của
quốc gia mà tàu mang cờ sử dụng mọi biện pháp, kể cả quyền tiến hành các cuộc
truy tố, theo đúng luật trong nước của mình, không phụ thuộc vào các cuộc truy
tố do một quốc gia khác tiến hành trước.
ĐIỀU 229. Việc kiện về trách nhiệm dân sự
Không một quy định nào của Công ước đụng
chạm đến quyền khởi tố về trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra những
thiệt hại hay tổn thất do ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 230. Các hình thức sử phạt bằng tiền và việc tôn
trọng quyền bào chữa
Đối với trường hợp vi phạm các luật và
quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền nước ngoài
gây ra ở ngoài lãnh hải thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền.
Đối với tình trạng vi phạm các luật và
quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, do một tàu nước ngoài gây ra
ở trong lãnh hải, thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền, trừ trường hợp đó
là một hành động cố ý và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong tiến trình các cuôc truy tố đã
được tiến hành nhằm trừng phạt các vụ vi phạm thuộc lọai này do một tàu nước
ngoài phạm phải mà chiếc tàu có thể phải chịu đụng những hình thức xử phạt, các
quyền được thừa nhận của bị cáo vẫn được tôn trọng.
ĐIỀU 231. Việc tôn trọng thông báo cho quốc gia mà tàu
mang cờ và cho các quốc gia hữu quan khác
Các quốc gia thông báo không chậm trễ
cho các quốc gia mà tàu mang cờ và cho mọi quốc gia hữu quan khác tất cả các
biện pháp được sử dụng với tàu thuyền nước ngoài trong việc áp dụng Mục 6, và
giao cho quốc gia mà tàu mang cờ tất cả các báo cáo chính thức có liên quan đến
biện pháp này. Tuy nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy ra trong lãnh hải,
quốc gia ven biển chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các biện pháp đuợc
dùng trong khuôn khổ các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao hay các viên
chức lãnh sự, và trong trường hợp có thể được, nhà đương cục về biển của quốc
gia mà tàu mang cờ được thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc loại này.
ĐIỀU 232. Trách nhiệm của các quốc gia về biện pháp
thi hành
Các quốc gia chịu trách nhiệm về những
thiệt hại và tổn thất có thể qui cho họ do các biện pháp đã được sử dụng trong
việc áp dụng Mục 6, khi các biện pháp này là bất hợp pháp hay vượt quá mức cần
thiết hợp lý, có xét đến các thông tin sẵn có.
ĐIẾU 233. Các bảo đảm liên quan đến các eo biển dung
cho hàng hải quốc tế
Không một quy định nào của Mục 5, 7 và 6
đụng chạm đến chế độ pháp lý của các eo dùng cho hàng hải quốc tế. Tuy nhiên,
nếu một chiếc tàu nước ngoài không phải là các tàu thuyền đã nêu ở Mục 10 vi
phạm các luật và quy định đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a, và b, gây ra hay đe
dọa gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển của các eo biển, thì
quốc gia có eo biển có thể thi hành các biện pháp cảnh sát thích hợp, trong khi
vẫn tôn trọng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) mục
này.
Mục 8. NHỮNG KHU VỰC BỊ BĂNG BAO PHỦ
ĐIỀU 234. Các khu vực bị băng bao phủ
Các quốc gia ven biển có quyền thông
quan và tiến hành áp dụng các luật và quy định không phân biệt đối xử nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra trong khu
vực bị băng bao phủ và nằm trong ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế, khi
các điều kiện khí hậu đặc biệt khắc nghiệt và việc các khu vực bao phủ phần lớn
thời gian trong một năm gây trở ngại cho hàng hải hoặc hoặc làm cho việc hàng
hải trở nên đặc biệt nguy hiểm, và nạn ô nhiễm môi trường biển có nguy cơ gây
tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh thái hay làm rối lọan sự cân bằng này
một cách không thể hồi phục được. Các luật và quy định này phải lưu ý thích
đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trên cơ
sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn nhất mà người ta có thể có được.
Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến
việc hoàn thành các nghĩa vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển. Các quốc gia có trách nhiệm theo đúng luật quốc tế.
Quốc gia quan tâm làm sao cho luật trong
nước của mình có được những hình thức tố tụng cho phép thu được sự đền bù nhanh
chóng và thích đáng, hay sự bồi thường khác đối với những thiệt hại nảy sinh từ
ô nhiễm môi trường do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền tài phán của
mình gây ra.
Để bảo đảm một sự đền bù nhanh chóng và
thích đáng mọi thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia cần
hợp tác để bảo đảm áp dụng và phát triển luật quốc tế về trách nhiệm có liên
quan đến việc đánh giá và bồi thường các thiệt hại và việc giải quyết các tranh
chấp về mặt này, cũng như, nếu có thể, đến việc soạn thảo các tranh chấp và thủ
tục để thanh toán tiền bồi thường thích đáng, chẳng hạn trù định một khoản bảo
hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường.
Mục 10.VIỆC MIỄN TRỪ CÓ TÍNH CHẤT CHỦ QUYỀN
ĐIỀU 236. Việc miễn trừ có tính chất chủ quyền
Các quy định của Công ước liên quan đến
việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không áp dụng đối với các tàu chiến hay
tàu thuyền bổ trợ, cũng như đối với các tàu thuyền khác hay đối với các phương
tiện bay thuộc một quốc gia hay do quốc gia này, khai thác, khi trong thời gian
xem xét, quốc gia này chỉ sử dụng chúng vào những mục đích công vụ không có
tính chất thương mại. Tuy nhiên, mỗi quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp
không ảnh hưởng đến các hoạt động hay khả năng hoạt động của tàu thuyền hay
phương tiện bay thuộc mình hay do mình khai thác, sao cho các tàu thuyền hay
phương tiện bay này hành động một cách thích hợp với Công ước trong chừng mực
có thể làm được.
Mục 11. NGHĨA VỤ PHÁT SINH TỪ CÁC CÔNG ƯỚC KHÁC VỀ
VIỆC BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 237. Các nghĩa vụ phát sinh từ các công ước khác
về việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
Phần này không ảnh hưởng đến các nghĩa
vụ riêng thuộc bổn phận của các quốc gia theo các công ước hay điều ước đặc thù
được ký kết trước đây về mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, cũng không ảnh
hưởng đến các điều ước có thể được ký kết để áp dụng các nguyên tắc chung đã
được nêu trong Công ước.
Các quốc gia phải làm tròn các nghĩa vụ
riêng thuộc phận sự của mình có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển theo Công ước đặc biệt, một cách thích hợp với các nguyên tắc và mục tiêu
chung của Công ước.
ĐIỀU 238. Quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học
biển
Tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa
lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành
các cuộc nghiên cứu khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa
vụ của các quốc gia khác như đã đuợc quy định trong Công uớc.
ĐIỀU 239. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nghiên cứu khoa học biển
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm
quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và chỉ đạo
công tác nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc.
ĐIỀU 240. Các nguyên tắc chung chi phối việc chỉ đạo
công tác nghiên cứu khoa học biển
Công tác nghiên cứu khoa học biển phải
phục tùng các nguyên tắc sau đây: Công tác này đuợc tiến hành nhằm vào những
mục đích hoàn toàn hòa bình;
Công tác này đuợc tiến hành bằng cách
dùng các phương pháp và phương tiện khoa học thích hợp phù hợp với Công uớc;
Công tác này không cản trở một cách vô
lý những việc sử dụng biển hợp pháp khác phù hợp với Công uớc và nó phải đuợc
quan tâm đến trong các việc sử dụng này.
Công tác này đuợc tiến hành theo đúng
mọi quy định tương ứng đuợc thông qua để thi hành Cống uớc, kể cả các quy định
nhằm bảo vệ và giữ gìn môi truờng biển.
Công tác nghiên cứu khoa học biển không
tạo ra co sở pháp lý cho một yêu sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi
truờng biển hay của các tài nguyên của nó.
ĐIỀU 242. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp
tác quốc tế
Chấp hành nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
và quyền tài phán, và trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại về lợi ích, các
quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hợp tác quốc tế về mặt nghiên cứu khoa học biển vì mục đích hòa bình.
Trong bối cảnh này và không làm phương
hại đến các quyền và nghĩa vụ các quốc gia theo Công uớc, một quốc gia khi hành
động theo phần này, cần tùy theo tình hình mà dành cho các quốc gia khác các khả năng hợp lý để nhận đuợc của
mình hay với sự hợp tác của mình các thông tin cần thiết để ngăn ngừa và chế
ngự các tác hại đối với sức khỏe và đối với sự an toàn của con nguời và môi
truờng biển.
ĐIỀU 243. Việc tạo ra các điều kiện thuận lợi
Các quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hợp tác với nhau qua việc ký kết các hiệp định hai bên và nhiều bên để
tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học
biển trong môi truờng biển và kết hợp những nỗ lực của các nhà nghiên cứu khoa
học tiền hành nghiên cứu bản chất của các hiện tuợng, các quá trình xảy ra
trong môi truờng biển và các tác động qua lại của chúng.
ĐIỀU 244. Việc công bố và phổ biến các thông tin và
kiến thức
Bằng các con đuờng thích hợp và theo
đúng Công uớc, các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền công bố, phổ biến
các thông tin liên quan đến các chương trình chủ yếu đuợc dự tính và các mục
tiêu của chúng, cũng như những kiến thức đuợc rút ra từ công tác nghiên cứu
khoa học biển.
Vì mục đích này, các quốc gia, tự mình
hay hợp tác với các quốc gia khác và với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền,
tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa
học và cho việc chuyển giao các kiến thức rút ra từ công tác nghiên cứu khoa
học biển, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển cũng như cho việc tăng
cuờng khả năng của chính các quốc gia này để tiến hành các công tác nghiên cứu
khoa học biển, nhất là bằng các chuong trình giúp cho các nhân viên kỹ thuật và
khoa học của họ đuợc huởng một sự giáo dục và đào tạo thích hợp.
ĐIỀU 245. Việc nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh
hải
Trong việc thực hiện chủ quyền của mình,
các quốc gia ven biển có đặc quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác
nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc tiến hành vợi sự thảo thuận
rõ ràng của quốc gia ven biển và trong các điều kiện do quốc gia này ấn định.
ĐIỀU 246. Việc nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc
quyền về kinh tế và trên thềm lục địa
Trong việc thi hành quyền tài phán của
mình, các quốc gia ven biển có quyền quy định, cho phép và tiến hành các công
tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục
địa của mình theo đúng các quy định tương ứng của Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa học biển trong
vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận
của quốc gia ven biển.
Trong những truờng hợp bình thuờng, các
quốc gia ven biển thỏa thuận cho thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học biển
mà các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền dự định tiến hành
trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình theo đúng Công
uớc, nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm kiến thức khoa
học về môi truờng biển, vì lợi ích của toàn thể loài nguời. Vì mục đích này,
các quốc gia ven biển thông qua các quy tắc và thủ tục bảo đảm sẽ cho phép
trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một cách phi lý.
Trong việc áp dụng khoản 3, các truờng
hợp có thể đuợc coi là bình thuờng ngay cả khi giữa quốc gia ven biển và quốc
gia đề nghị thực hiện công trình nghiên cứu không có quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy
ý mình không cho phép thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học biển do một quốc
gia khác hay một tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc
quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình trong các truờng hợp sau:
a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến
việc thăm dò và Khai thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh
vật;
b. Nếu dự án có dự kiến công việc khoan
trong thềm lục địa, sử dụng chất nổ hay đưa chất độc hại vào trong môi truờng
biển;
c. Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai
thác hay sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đã nêu ở các Điều 60
và 80;
d. Nếu những thông tin đuợc thông báo về
tình chất và mục tiêu của dự án theo Điều 248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay
tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tác giả của dự án không làm tròn những nghĩa vụ
đã cam kết với quốc gia ven biển hữu quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dầu khoản 5 đa quy định như thế, các
quốc gia ven biển cũng không thể thi hành quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của
khoản này, đối với các dự án nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng
phần này trên thềm lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
quá 200 hải lý, ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ lúc nào các quốc gia ven
biển cung có thể chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ làm nơi để tiến hành công
việc khai thác hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời hạn hợp lý. Các quốc
gia ven biển thông báo trong những thời hạn hợp lý các khu vực mà mình chỉ định
cũng như tất cả những thay đổi có liên quan, nhung không có trách nhiệm cung
cấp các chi tiết về các công việc trên các khu vực này.
Khoản 6 đuợc áp dụng không phương hại
đến các quyền ở thềm lục địa đuợc thừa nhận cho các quốc gia ven biển ở Điều
77.
Các công tác nghiên cứu khoa học biển
nói ở điều này không đuợc gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do
quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền
tài phán mà Công uớc đã trù định.
Một quốc gia ven biển là hội viên của
một tổ chức quốc tế, hay bị ràng buộc với tổ chức quốc tế đó qua một hiệp định
tay đôi và ở vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, tổ
chức quốc tế nói trên muốn trực tiếp tiến hành, hay cho tiến hành duới sự bảo
trợ của mình một dự án nghiên cứu khoa học biển, thì nếu như quốc gia đó đã
chuẩn y dự án chi tiết khi tổ chức quốc tế quyết định tiến hành dự án, hay là
quốc gia đó đã sẵn sàng tham gia dự án nghiên cứu khoa học biển và không có ý
kiến phản đối nào sau thời gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó thông báo cho
quốc gia về dự án nói trên, thì quốc gia đó coi như đa cho phép thực hiện dự án
đúng theo các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận.
ĐIỀU 248. Nghĩa vụ cung cấp các thông tin cho quốc gia
ven biển
Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền muốn tiền hành các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc
quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, phải cung cấp
cho quốc gia này, chậm nhất là không quá 6 tháng truớc thời gian dự kiến để bắt
đầu dự án nghiên cứu khoa học biển, một bản mô tả đầy đủ, chỉ rõ:
Tính chất và các mục tiêu của dự án
Phương pháp và các phương tiện sẽ đuợc
sử dụng; có nói rõ tên, trọng luợng, kiểu và loại tàu thuyền, và một bản mô tả
các dụng cụ khoa học;
Các khu vực địa lý cụ thể mà dự án sẽ
thực hiện;
Các thời hạn dự định cho chuyện đến đầu
tiên và chuyện ra đi cuối cùng của các tàu thuyền nghiên cứu, hay thời hạn dự
định cho việc triển khai và rút thiết bị, và thời hạn dự định cho việc thu hồi
dụng cụ nghiên cứu, tùy theo truờng hợp;
Tên cơ quan bảo trợ cho dự án nghiên
cứu, tên của giám đốc cơ quan này và của nguời chịu trách nhiệm dự án;
Mức độ mà quốc gia ven biển có thể tham
gia vào dự án hay đuợc cử đại diện
ĐIỀU 249. Nghĩa vụ tuân thủ một số điều kiện
1. Các quốc gia và tổ chức quốc tế có
thẩm quyền thực hiện công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về
kinh tế hay trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, cần phải đáp ứng các
điều kiện sau đây:
a. Bảo đảm cho quốc gia ven biển, nếu
quốc gia này muốn, quyền tham gia vào dự án nghiên cứu khoa học biển hay đặc
biệt là khi có thể đuợc, cử đại diện lên trên các tàu thuyền và các xuồng
nghiên cứu khác hay lên trên các thiết bị nghiên cứu khoa học, nhung không phải
thanh toán một khoản tiền thù lao nào cho những nhà nghiên cứu của quốc gia
này, và quốc gia này cũng không bị buộc phải đóng góp vào các kinh phí của dự
án;
b. Một khi công việc nghiên cứu đã kết
thúc, phải cung cấp càng sớm càng tốt, theo yêu cầu của quốc gia ven biển,
những báo cáo sơ bộ, cũng như các kết quả và kết luận cuối cùng;
c. Cam kết cho quốc gia ven biển, theo
yêu cầu của họ, tiếp xúc với tất cả các mẫu vật và dữ kiện thu đuợc trong khuôn
khổ của dự án nghiên cứu khoa học biển, cũng như cam kết cung cấp cho quốc gia
này những dữ kiện có thể sao lại và các mẫu vật có thể đuợc phân chia mà không
làm giảm giá trị khoa học của chúng;
d. Cung cấp cho quốc gia ven biển, theo
yêu cầu của họ, một bản đánh giá về các dữ kiện, các mẫu vật và các kết quả
nghiên cứu đó, hay giúp đỡ cho quốc gia này tiến hành đánh giá hoặc giải thích
chung;
e. Với điều kiện phải thực hiện quy định
ở khoản 2, bảo đảm cho các kết quả của công tác nghiên cứu đuợc sẵn sàng đưa ra
sử dụng càng sớm càng tốt trên truờng quốc tế qua các con đuờng quốc gia hay
quốc tế thích hợp.
f. Thông báo ngay cho quốc gia ven biển
bất kỳ sửa đổi quan trọng nào đối với dự án nghiên cứu;
g. Một khi công tác nghiên cứu đã kết
thúc, phải tháo gỡ các thiết bị hay công cụ nghiên cứu khoa học, trừ khi có sự
thỏa thuận khác.
2. Điều này đuợc áp dụng không làm
phương hại đến các điều kiện do các luật và quy định của quốc gia ven biển ấn
định về việc thi hành quyền tùy ý quyết định đồng ý hay không đồng ý theo Điều
246, khoản 5, kể cả việc bắt buộc phải đuợc sự đồng ý truớc của nuớc đó mới
đuợc phổ biến trên phạm vi quốc tế các kết quả nghiên cứu thuộc một dự án có
liên quan trực tiếp đến việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên.
ĐIỀU 250. Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự
án nghiên cứu khoa học biển
Các thông tin liên lạc liên quan đến các
dự án nghiên cứu khoa học biển phải đuợc tiến hành qua các con đuờng chính thức
thích hợp, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 251. Các tiêu chuẩn chung và các nguyên tắc chỉ
đạo
Qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, các quốc gia cố gắng xúc tiến việc xây dựng các tiêu chuẩn chung và các
nguyên tắc chỉ đạo thích hợp với việc giúp đỡ họ xác định tính chất và hệ quả
của các công việc nghiên cứu khoa học biển.
ĐIỀU 252. Việc đồng ý mặc nhiên
Các quốc qia hay các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền có thể thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học sau một thời hạn 6
tháng kể từ ngày các thông tin cần thiết theo Điều 248 đã đuợc thông báo cho
quốc gia ven biển, trừ khi trong một thời hạn 4 tháng kể từ lúc nhận đuợc các
thông tin này, quốc gia ven biển đã báo cho quốc gia hay tổ chức đề nghị thực
hiện các công tác nghiên cứu biết:
(a) Quốc gia ven biển đã khuớc từ theo Điều 246; hay
(b) Các thông tin do quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm
quyền này cung cấp về tính chất hay mục tiêu của dự án không phù hợp với sự
thực hiển nhiên; hay
(c) Quốc gia ven biển cần có một thông báo bổ sung về
những thông tin hoặc những điều kiện đã nêu ở các Điều 248 và 249; hay
(d) Các nghĩa vụ nẩy sinh từ các điều kiện đã đuợc quy
định ở Điều 249 cho một dự án nghiên cứu khoa học biển do quốc gia hay tổ chức
quốc tế này thực hiện truớc đây đã không đuợc làm tròn.
ĐIỀU 253. Việc đinh chỉ hoặc chấm dứt công việc nghiên
cứu khoa học biển
1. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu đinh
chỉ các công việc nghiên cứu khoa học biển đang tiến hành trong vùng đặc quyền
về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình:
Nếu công việc này không đuợc tiến hành
theo đúng các thông tin đã đuợc thông báo theo Điều 248 mà quốc gia ven biển đã
dựa vào để đồng ý cho phép; hay
Nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm
quyền khi tiến hành công việc này không tôn trọng các quy định của Điều 249
liên quan đến các quyền của quốc gia ven biển đối với dự án nghiên cứu khoa học
biển.
2. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu
chấm dứt mọi công việc nghiên cứu khoa học biển trong tất cả các truờng hợp mà
việc không tuân thủ Điều 248 có nghĩa là làm thay đổi lớn dự án các công trình
nghiên cứu.
3. Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu
chấm dứt các công việc nghiên cứu khoa học biển, nếu như, trong một thời gian
hợp lý, một điểm bất kỳ trong những tình hình nêu ở khoản 1 không đuợc sửa
chữa.
4. Sau khi nhận đuợc thông báo về quyết
định của quốc gia ven biển đòi đinh chỉ hay chấm dứt công việc nghiên cứu khoa
học biển, các quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã đuợc phép tiến hành
các công việc này phải chấm dứt những công việc thuộc đối tuợng của thông báo.
5. Lệnh đinh chỉ đuợc đưa ra theo khoản
1 phải do quốc gia ven biển thu hồi, và dự án khoa học nghiên cứu biển có thể
đuợc tiếp tục ngay khi quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện các
công tác nghiên cứu khoa học biển này đã tuân theo các điều kiện quy định ở các
Điều 248 và 249.
1. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền khi đã trao cho một quốc gia ven biển một dự án nghiên cứu khoa
học biển nêu ở Điều 246, khoản 3, cần thông báo dự án này cho các quốc gia láng
giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi, và
báo cho quốc gia ven biển việc gửi các thông báo này.
2. Một khi quốc gia ven biển có liên
quan đã chấp thuận dự án, theo đúng điều 246 và các quy định thích hợp khác của
Công uớc, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi thực hiện dự án
cần cung cấp cho các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng
giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi các thông tin đã đuợc quy định rõ ở các Điều
248 và 249, khoản 1, điểm f, theo yêu cầu của họ và tùy theo sự cần thiết.
3. Các quốc gia không có biển và các
quốc gia bất lợi về mặt địa lý đã nói ở trên, theo yêu cầu của mình, có khả
năng đuợc tham gia trong chừng mực có thể vào dự án nghiên cứu khoa học hiển đã
đuợc dự tính qua các chuyên gia có trình độ do mình chỉ định và đuợc quốc gia
ven biển chấp nhận, theo những điều kiện mà quốc gia ven biển và quốc qia hay
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành công tác nghiên cứu khoa học biển
đã thảo luận để thực hiện dự án, phù hợp với Công uớc.
4. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền đã nêu ở khoản 1 cung cấp cho các quốc gia không có biển và các
quốc gia bất lợi về mặt địa lý nói trên, theo yêu cầu của họ, những thông tin
và sự giúp đỡ đã đuợc quy định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm d, với điều kiẹn
phải tuân thủ khoản 2 của chính điều này.
Các quốc gia cố gắng thông qua các quy
tắc, quy định và thủ tục hợp lý nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng Công uớc ở ngoài
lãnh hải, và nếu cần, thì tạo điều kiện cho các tàu thuyền nghiên cứu khoa học
biển chấp hành các quy định thích hợp của phần này vào ra cảng của các quốc gia
nói trên đuợc dễ dàng, với điều kiện là phải tuân thủ theo các luật và quy định
của các quốc gia này, và phải khuyến khích sự giúp đỡ cho các tàu thuyền này.
ĐIỀU 256. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh
địa lý của mình như thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có
quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng, theo đúng phần XI.
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh
địa lý của mình như thế nào, cũng nhu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có
quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc trong phần
nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế.
Mục 4. CÁC THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG MÔI TRUỜNG BIỂN
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay
dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào ở một vùng nào đó của môi
truờng biển phải phụ thuộc vào cùng các điều kiện như đã đuợc Công uớc trù định
cho việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển ở trong khu vực kể trên.
Các thiết bị hay dụng cụ đuợc nêu trong
mục này, không có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, và sự có
mặt của chúng không có ảnh huởng đến vấn đề hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng
độc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
Các khu vực an toàn có một chiều rộng
hợp lý không quá 500m có thể đuợc lập ra xung quanh các thiết bị nghiên cứu
khoa học, theo đúng các quy định tuong ứng của Công uớc. Tất cả các quốc gia
phải chú ý bảo đảm cho tàu thuyền của mình tôn trọng các khu vực an toàn này.
ĐIỀU 261. Nghĩa vụ không đuợc gây trở ngại cho hàng
hải quốc tế
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay
dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào không đuợc gây cản trở cho
việc hàng hải theo các con đuờng quốc tế thuờng dùng.
ĐIỀU 262. Dấu hiệu nhận dạng và phương tiện báo hiệu
Các thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong
mục này phải có các dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc
tế mà chúng phụ thuộc vào, cũng như, phải có các phuong tiện báo hiệu thích hợp
đã đuợc chấp thuận trên truờng quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và hàng
không, có tính đến các quy tắc và quy phạm do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
đặt ra.
Bổn phận của các quốc gia và các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền là phải quan tâm, sao cho việc nghiên cứu khoa học biển,
bất kể chúng do hoặc nguời thay mặt cho họ thực hiện, đều đuợc tiến hành theo
đúng Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm
quyền chịu trách nhiệm về những biện pháp mà mình thi hành, vi phạm Công uớc,
liên quan đến các công việc nghiên cứu khoa học biển do các quốc gia khác, các
tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia khác đó hoặc do các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành, và phải đền bù các tồn thất do các
biện pháp đó gây ra.
Các quốc gia và tổ chức có thẩm quyền
phải chịu trách nhiệm, theo Điều 235, về các tổn thất gây ra bởi nạn ô nhiễm
môi truờng biển xuất phát từ việc nghiên cứu khoa học biển do mình thực hiện
hay do nguời thay mặt cho mình thực hiện.
Mục 6. GIẢi QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM
ĐIỀU 264. Việc giải quyết các tranh chấp
Các tranh chấp liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng các quy định của Công uớc về việc nghiên cứu khoa học biển
đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV
ĐIỀU 265. Các biện pháp bảo đảm
Chừng nào một tranh chấp chưa đuợc giải
quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV, thì quốc gia hay tổ chức quốc tế có
thẩm quyền đuợc phép thực hiện dự án nghiên cứu khoa học biển, không cho phép
thực hiện hay tiếp tục việc nghiên cứu khoa học nếu không có sự đồng ý rõ ràng
của các quốc gia ven biển hữu quan.
PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT BIỂN
ĐIỀU 266. Việc xúc tiến phát triển và chuyển giao các
kỹ thuật biển
1. Các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc
thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong phạm vi khả năng của mình,
nhằm tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và chuyển giao khoa học
và kỹ thuật biển theo các thể thức và điều kiện công bằng và hợp lý.
2. Các quốc gia tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển khả năng trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển của các
quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ về kỹ thuật trong lĩnh
vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, kể cả quốc gia không có biển hay
bất lợi về mặt địa lý, trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài
nguyên của biển, trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, trong việc
nghiên cứu khoa học biển và các hoạt động khác nhằm tiến hành trong môi trường
biển phù hợp với Công ước, nhằm thúc đẩy tiển bộ xã hội và kinh tế của các quốc
gia đang phát triển.
3. Các quốc gia cố gắng giúp tạo ra các
điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật biển, trên
cơ sở công bằng, có lợi cho tất cả các bên hữu quan.
ĐIỀU 267. Việc bảo vệ các lợi ích chính đáng
Để tạo điều kiện cho sự hợp tác theo
Điều 266, các quốc gia cần phải tính đến tất cả các lợi ích chính đáng, cũng
như các quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ, những người cung cấp và những
người được nhận các kỹ thuật biển.
Các quốc gia trực tiếp hoặc thông qua
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, cần phải xúc tiến:
Việc nắm, đánh giá và phổ biến các kiến
thức trong lĩnh vực kỹ thuật biển; các quốc gia này tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiếp xúc với các thông tin và các dữ liệu tương ứng;
Việc phát triển các kỹ thuật biển thích
hợp;
Việc phát triển hạ tầng cơ sở về kỹ
thuật cần thiết để làm dễ dàng cho việc chuyển giao các kỹ thuật biển;
Việc khai thác nguồn nhân lực qua việc
đào tạo và giảng dạy cho các công dân của các quốc gia và các nước đang phát
triển, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất trong các quốc gia đang phát
triển đó;
Việc hợp tác quốc tế ở mọi mức độ, nhất
là việc hợp tác theo khu vực, phân khu vực và tay đôi.
ĐIỀU 269. Các biện pháp được thi hành để đạt tới các
mục tiêu cơ bản
Để đạt đến các mục tiêu cơ bản đã nêu ở
Điều 268, ngoài các biện pháp khác, các quốc gia tìm cách, trực tiếp hoặc thông
qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để:
Lập ra các chương trình hợp tác kỹ thuật
nhằm chuyển giao thực sự các kỹ thuật biển thuộc đủ mọi loại cho các quốc gia
có nhu cầu và yêu cầu hưởng một sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật biển trong lĩnh vực
này, nhất là cho các quốc gia đang phát triển không có biển hay bất lợi về địa
lý, cũng như cho các quốc gia đang phát triển khác không có khả năng hoặc để
tạo ra hoặc để phát triển khả năng kỹ thuận riêng của mình trong lĩnh vực khoa
học biển và trong lĩnh vực thăm dò và khai thác các tài nguyên của biển, cũng
không có khả năng phát triển hạ tầng cơ sở cần thiết cho các kỹ thuật này;
Giúp tạo ra các điều kiện thuận lợi cho
việc ký kết các hiệp định, các hợp đồng hay các thỏa thuận tương tự khác, trong
những điều kiện công bằng, hợp lý;
Tổ chức các hội nghị, hội thảo và các
cuộc thảo luận về các vấn đề khoa học và kỹ thuật, nhất là về các chính sách và
phương pháp cần đề ra để thực hiện chuyển giao các kỹ thuật biển;
Tạo điều khiện thuận lợi cho việc trao
đổi các nhà khoa học, kỹ thuật và các chuyên gia khác;
Thực hiện các dự án và xúc tiến các xí
nghiệp liên doanh và các hình thức hợp tác hai bên và nhiều bên khác.
ĐIỀU 270. Khuôn khổ và hợp tác quốc tế
Việc hợp tác quốc tế để phát triển và
chuyển giao kỹ thuật biển được thực hiện, khi có thể được và thích hợp, trong
khuôn khổ của các chương trình hai bên, khu vực, và nhiều bên hiện có, cũng như
trong khuôn khổ của các chương trình được mở rộng và của các chương trình mới,
nhằm làm dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và chuyển giao kỹ thuật
biển, đặc biệt, trong các lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí quốc tế thích hợp
cho việc nghiên cứu đại dương và khai thác các đại dương.
ĐIỀU 271. Các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và
quy phạm
Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tìm cách xúc tiến việc soạn thảo các nguyên
tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và qui phạm được chấp nhận chung về việc chuyển
giao kỹ thuật biền trong khuôn khổ của các thỏa hiệp hai bên hay trong khuôn
khổ của các tổ chức quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có tính đến các lợi ích
và nhu cầu của quốc gia đang phát triển.
ĐIỀU 272. Việc phối hợp các chương trình quốc tế
Trong lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật
biển, các quốc gia cố gắng bảo đảm cho các tổ chức quốc tế có thâtm quyền phối
hợp với các hoạt động của họ, kể cả mọi chương trình khu vực và thế giới, có
tính đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là
các quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý.
ĐIỀU 273. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và Cơ
quan quyền lực
Các quốc gia tích cực hợp tác với các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền và với Cơ quan quyền lực nhằm khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển, cho
công dân của họ và cho xí nghiệp những kiến thức thực tiễn và kỹ thuật biển có
liên quan đến các hoạt động trong Vùng.
ĐIỀU 274. Các mục tiêu của Cơ quan quyền lực
Về các hoạt động tiến hành trong Vùng,
Cơ quan quyền lực quan tâm tới mọi lợi ích chính đáng cũng như các quyền và
nghĩa vụ của những người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận
kỹ thuật, đảm bảo cho:
Theo đúng nguyên tắc phân chia công bằng
về mặt địa lý, các công dân của các quốc gia đang phát triền, dù là quốc gia
ven biển, không có biển hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi, được đưa vào làm nhân
viên tập sự trong số các nhân viên kỹ thuật, quản lý và nghiên cứu được tuyển
cho các nhu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực;
Tài liệu kỹ thuật về dụng cụ, máy móc
thiết bị và phương pháp đã dùng phải để cho tất cả các quốc gia sử dụng, nhất
là cho các quốc gia đang phát triển đang có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự
giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này;
Các quy định thích hợp phải được xác
định ngay trong Cơ quan quyền lực để tạo điều kiện dễ dàng cho các quốc gia có
nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật
biển, nhất là các quốc gia đang phát triển, và công dân của các nước này, nắm
được các kiến thức và có trình độ thành thạo cần thiết, kể cả việc được hưởng
một sự đào luyện về nghề nghiệp.
Các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được
hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang
phát triển, nhận được một sự giúp đỡ để có được trang thiết bị, các phương
pháp, dụng cụ và bí quyết kỹ thuật cần thiết, trong khuôn khổ của các thỏa
thuận tài chính trù định trong Công ước.
Mục 3. CÁC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
BIỂN CỦA QUỐC GIA VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 275. Việc thành lập các trung tâm quốc gia
1. Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông
qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia ven biển đang phát triển,
các trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển, và tăng cường các
trung tâm hiện có, để động viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa học biển trong
các quốc gia này và để phát triển khả năng riêng của từng nước nhằm sử dụng và
gìn giữ các tài nguyên biển của họ cho mục đích kinh tế.
2. Các quốc gia, thông qua các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, góp phần giúp đỡ thích đáng để tạo
điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và tăng cường các trung tâm quốc gia nhằm
làm cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ như vậy có
được những phương tiện đào tạo tiên tiến, những thiết bị, những kiến thức thực
tiễn và sự thông thạo cần thiết, cũng như các chuyên gia kỹ thuật.
ĐIỀU 276. Việc thành lập các trung tâm khu vực
1. Phối hợp với các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, Cơ quan quyền lực và các viện nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ
thuật biển, các quốc gia tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập, nhất là
trong các quốc gia đang phát triển, các trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật
biển của khu vực, nhằm khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học biển
trong các quốc gia này và để làm dễ dàng cho việc chuyển giao kỹ thuật biển.
2. Tất cả các quốc gia của cùng một khu
vực cần tập hợp tác với các trung tâm của khu vực để bảo đảm tốt hơn việc thực
hiện các mục tiêu của họ.
ĐIỀU 277. Những chức năng của các trung tâm khu vực
Ngoài các chức năng khác, các trung tâm
khu vực có trách nhiệm bảo đảm: Các chương trình đào tạo và giảng dạy ở mọi
trình độ trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển khác nhau, đặc
biệt là môn sinh vật biển, đề cập trước hết là việc bảo về và quản lý các tài
nguyên sinh vật, môn hải dương học, thủy văn học, kỹ thuật công trình, thăm dò
địa chất đáy biển, khai thác mỏ và kỹ thuật khử mặn nước biển; Việc nghiên cứu
công tác quản lý;
Các chương trình nghiên cứu có quan hệ
đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và việc ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm;
Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo và
các cuộc thảo luận thuộc khu vực;
Thu thập và xử lý dữ kiện và thông tin
trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển;
Phổ biến nhanh chóng các kết quả của
việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển trong các tài liệu dễ phổ cập;
Phổ biến các thông tin về các chính sách
quốc gia liên quan đến việc chuyển giao kỹ thuật biển, và việc nghiên cứu so
sánh có hệ thống các chính sách này;
Sưu tập và hệ thống hóa các thông tin
liên quan đến việc thương mại hóa các kỹ thuật, cũng như đến các hợp đồng và
các thỏa thuận khác về các chứng chỉ;
Hợp tác kỹ thuật với các quốc gia khác
của khu vực.
Mục 4. VIỆC HỢP TÁC GIỮA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
ĐIỀU 278. Việc hợp tác giữa các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền nói
trong phần này và Phần XIII thi hành mọi biện pháp cần thiết để trực tiếp hay
bằng cách hợp tác chặt chẽ, làm tròn các chức năng và nhiệm vụ mà mình đảm
đương theo phần này.
ĐIỀU 279. Nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hòa bình
Các quốc gia thành viên giải quyết mọi
tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các
phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến chương liên hợp quốc
và, vì mục đích này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu
ở Điều 33, khoản 1 của Hiến chương.
ĐIỀU 280. Giải quyết các tranh chấp bằng bất kỳ phương
pháp hòa bình nào do các bên lựa chọn
Không một quy định nào của phần này ảnh
hưởng đến quyền của các quốc gia thành viên đi đến thỏa thuận giải quyết vào
bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình
một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ và vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước.
ĐIỀU 281. Thủ tục phải tuân theo khi các bên không đạt
tới một cách giải quyết
1. Khi các quốc gia thành viên tham gia
và một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã thỏa
thuận tìm cách giải quyết tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, thì các thủ tục
được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta không đạt được một
cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên không
loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác.
2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một
thời hạn, thì khoản một chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này.
ĐIỀU 282. Các nghĩa vụ xuất phát từ các hiệp định
chung, khu vực hay hai bên
Khi các quốc gia thành viên tham gia vào
một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, trong
khuôn khổ của một hiệp định chung, khu vực hay hai bên hay bất kỳ cách nào, đã
thỏa thuận rằng một vụ tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn
đến một quyết định bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng thay cho các thủ tục
đã được trù định trong phần này, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 283. Nghĩa vụ tiến hành các cuộc trao đổi về quan
điểm
1. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các
quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên
tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh
chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác.
2. Cũng như vậy, các bên tiến hành ngay
một cuộc trao đổi quan điểm mỗi khi kết thúc một thủ tục giải quyết đối với một
vụ tranh chấp như vậy mà không giải quyết được, hay mỗi khi đã có một giải pháp
và các hoàn cảnh đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên quan đến việc thi hành
giải pháp đó.
1. Bất kỳ quốc gia nào thành viên nào
tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước đều có thể yêu cầu quốc gia khác hay các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa
giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay theo một thủ tục
hòa giải khác.
2. Khi yêu cầu đã được chấp nhận và nếu
các bên đồng ý về thủ tục hòa giải sẽ được áp dụng, thì bất kỳ bên nào cũng có
thể đưa ra vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đó.
3. Khi yêu cầu không được chấp nhận hay
nếu các bên không thỏa thuận được về thủ tục hòa giải, thì coi như đã chấm dứt
việc hòa giải.
4. Khi một vụ tranh chấp đã được đưa ra
hòa giải, thì chỉ kết thúc việc hòa giải theo đúng thủ tục hòa giải đã thỏa
thuận, trừ khi các bên có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 285. Việc áp dụng mục này cho các vụ tranh chấp
đã được đưa ra theo phần XI
Mục này được áp dụng cho bất kỳ vụ tranh
chấp nào mà theo Mục 5 của Phần XI cần được giải quyết theo đúng các thủ tục đã
trù định trong phần này. Nếu một thực thế không phải là một quốc gia thành viên
tham gia vào một vụ tranh chấp như thế, thì mục này được áp dụng mutalis
mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết).
Mục 2. CÁC THỦ TỤC BẮT BUỘC DẪN TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT
BUỘC
ĐIỀU 286. Phạm vi áp dụng mục này
Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh
chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước khi không được giải
quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được
đưa ra trước tòa án có thẩm quyền theo mục này.
ĐIỀU 287. Việc lựa chọn thủ tục
1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc
tham gia Công ước, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền
tự do lựa chọn, hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau
đây để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
Công ước:
Tòa án quốc tế về Luật biển được thành
lập theo đúng Phụ lục VII; Toà án quốc tế;
Một tòa trọng tài được thành lập theo
đúng Phụ lục VII;
Một tòa trọng tài đặc biệt được thành
lập theo đúng Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được
qui định rõ trong đó.
2. Một bản tuyên bố theo khoản 1 không
ảnh hưởng đến nghĩa vụ của một quốc gia thành viên phải chấp nhận, trong phạm
vi và theo các thể thức được trù định ở Mục 5 của phần XI, thẩm quyền của Viện
giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển thuộc Toàn án quốc tế về
luật biển và tuyên bố đó cũng không bị nghĩa vụ này tác động đến.
3. Một quốc gia thành viên tham gia vào
một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ, thì được
xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài đã trù định ở Phụ lục VII.
4. Nếu các bên tranh chấp đã chấp nhận
cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được
đưa ra giải quyết theo thủ tục đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
5. Nếu các bên tranh chấp không chấp
nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể
được đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Một bản tuyên bố theo đúng khoản 1
vẫn còn hiệu lực trong vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông báo hủy bỏ cho
Tổng thư ký Liên hợp quốc.
7. Một tuyên bố mới, một thông báo hủy
nbỏ hay việc một tuyên bố hết hạn không hề ảnh hưởng đến thủ tục đang tiến hành
trước một toàn án có thẩm quyền theo điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận
khác.
8. Các tuyên bố và thông báo đã nêu ở
điều này được gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển và Tổng thư ký
Liên hợp quốc chuyển các bản sao cho các quốc gia thành viên.
1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm
quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
Công ước đã được đưa ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có
thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được
đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.
3. Viện giải quyết tranh chấp liên quan
đến đáy biển được lập nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào khác, hay tòa
trọng tài nào khác, đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền xét xử mọi
vấn đề đã được đưa ra cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn
đề một tòa án có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định.
Đối với mọi tranh chấp đụng chạm đến
những vấn đề khoa học hay kỹ thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền của mình
theo mục này, theo yêu cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo ý kiến
các bên, có thể lựa chọn trên một bản danh sách thích hợp được lập nên theo
đúng Điều 2 của phụ lục VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ thuật
tham gia tòa án nhưng không có quyền biểu quyết.
ĐIỀU 290. Những biện pháp bảo đảm
1. Nếu một tòa án được đề nghị xét một
vụ tranh chấp theo đúng thủ tục và thấy prima facie (hiển nhiên) là mình có
thẩm quyền theo phần này hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế qui định
tất cả các biện pháp bảo đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình để bảo vệ
các quyền riêng của từng bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường của
biển bị những tổn thất nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng.
2. Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa
đổi hay hủy bỏ ngay khi các hoàn cảnh chứng minh cho các biện pháp đó thay đổi
hay không còn tồn tại.
3. Các biện pháp bảo đảm chỉ có thể được
qui định, sửa đổi hay hủy bỏ theo điều này, theo yêu cầu của một bên tranh chấp
và sau khi đã tạo cho các bên tranh chấp khả năng thỏa thuận được với nhau.
4. Toà án thông báo ngay mọi biện pháp
bảo đảm hay mọi quyết định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các bên tranh
chấp, và nếu xét thấy thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên
khác.
5. Trong khi chờ lập ra một tòa trọng tài
xét xử một vụ tranh chấp theo mục này, mọi tòa án do các bên thỏa thuận với
nhau chỉ định, hoặc, nếu không thỏa thuận được trong một thời hạn 2 tuần sau
ngày có yêu cầu các biện pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật biển, hay trong
trường hợp của các hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay hủy bỏ các biện pháp
bảo đảm theo đúng điều này, nếu như họ thấy prima facie (hiển nhiên) rằng tòa
án cần được lập ra sẽ có thẩm quyền, và nếu như họ xét thấy rằng tính chất khẩn
trương của tình hình đòi hỏi phải làm như vậy. Một khi được thành lập, tòa án
được giao xét xử vụ tranh chấp, hành động theo đúng các khoản 1 đến 4, có thể
sửa đổi, hủy bỏ hay xác nhận biện pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh chấp phải tuân theo
không chậm trễ các biện pháp bảo đảm được quy định theo điều này.
ĐIỀU 291. Việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh
chấp
1. Tất cả các thủ tục giải quyết tranh
chấp được trù định trong phần này đều để ngỏ cho các quốc gia thành viên.
2. Các thủ tục để giải quyết tranh chấp
được trù định trong phần này chỉ để ngo cho các thực thể không phải là quốc gia
thành viên trong phạm vi mà Công ước đã trù định một cách rõ ràng.
ĐIỀU 292. Giải phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ
hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó
1. Khi các nhà chức trách của một quốc
gia thành viên đã bắt giữ một chiếc tàu mang cờ của một quốc gia thành viên
khác và nếu thấy rằng quốc gia bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo các qui
định của Công ước trù định việc giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả tự do
cho đoàn thủy thủ của nó ngay khi ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý hay một
khoản bảo đảm tài chính nào khác, thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho
đoàn thủy thủ phải được đưa ra trước một tóa án do các bên chỉ định theo một
thỏa thuận chung; nếu không thỏa thuận đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể từ
lúc bắt giữ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ, vấn đề này có thể được đưa ra trước
một tòa án được quốc gia đã tiến hành bắt hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp
nhận theo đúng Điều 287, hay trước Tòa án quốc tế về luật biển, trừ khi các bên
có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải phóng hay trả tự do chỉ
có thể do quốc gia mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa ra.
3. Tòa án nhanh chóng xem xét yêu cầu
này và chỉ xét xử vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ, việc
này không có ảnh hưởng gì đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc tàu,
người chủ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ của nó có thể là đối tượng trước quyền
tài phán quốc gia thích hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành bắt,
giữ vẫn có đủ tư cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ
của nó vào bất kỳ lúc nào.
4. Ngay khi đã ký gửi khoản tiền bảo
lãnh hay một khoản bảo đảm tài chính khác theo quyết định của tòa án, các nhà
chức trách của quốc gia đã bắt giữ tàu phải tuân theo quyết định của tòa án về
việc giải phóng tàu và trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
1. Tòa án có thẩm quyền theo mục này áp
dụng các qui định của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không
mâu thuẫn với Công ước.
2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền hạn
của tòa có thẩm quyền theo mục này để xét xử ex aequo bono (công bằng) nếu các
bên thỏa thuận.
1. Tòa án được trù định ở Điều 287 nhận
được đơn yêu cầu xét xử một vụ tranh chấp nói ở Điều 297 quyết định theo thỉnh
cầu của một bên, hay có thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu này có phải là
một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là có căn
cứ. Nếu tòa án xét thấy rằng, đó là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay
prima facie (hiển hiên) là không có căn cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được đơn, tòa án thông báo
ngay cho bên kia hay các bên kia, và qui định một thời hạn hợp lý, để các bên
này có thể yêu cầu tòa quyết định về các điểm đã nêu ở khoản 1.
3. Điều này không hề đụng chạm đến các
quyền của một bên tranh chấp nêu lên những phản bác sơ bộ theo đúng các qui tắc
tố tụng có thể áp dụng.
ĐIỀU 295. Trường hợp các biện pháp tố tụng nội bộ đã
được sử dụng hết
Một vụ tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, chỉ có thể được
đưa ra giải quyết theo các thủ tụ đã qui định ở mục này sau khi các biện pháp
tố tụng nội bộ đã được sử dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 296. Tính chất tối hậu và bắt buộc của các quyết
định
1. Các quyết định do tòa án có thẩm
quyền theo mục này đưa ra là có tính chất tối hậu, và tất cả các bên tranh chấp
phải tuân theo.
2. Các quyết định đó chỉ có tính chất
bắt buộc đối với các bên và trong trường hợp riêng biệt được xem xét.
Mục 3. CÁC GIỚI HẠN VÀ NGOẠI LỆ ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG
ĐIỀU 297. Các giới hạn áp dụng mục 2
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay
quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, được
xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp
sau đây:
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không
tuân theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do
và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào
các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;
Khi thấy rằng trong việc thi hành các tự
do và các quyền đó hoặc trong việc sử dụng các quyền này, một quốc gia đã không
tuân theo Công ước hay các luật hoặc các qui định do quốc gia ven biển đề ra
phù hợp với các qui định của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế
không trái với Công ước; hoặc
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không
tuân theo các qui tắc hay quy phạm quốc tế đã được xác định nhằm bảo vệ và gìn
giữ môi trường biển có thể áp dụng cho quốc gia này và đã được Công ước đặt ra,
hay được đặt ra thông qua một tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay một hội nghị
ngoại giao hành động phù hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng các qui định của Công ước về nghiên cứu khoa học
biển được giải quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp
nhận theo cách giải quyết như thế đối với một vụ tranh chấp phát sinh từ:
Việc quốc gia này thi hành một quyền tùy
ý quyết định theo đúng Điều 246; hay
Quyết định của quốc gia này ra lệnh đình
chỉ hoặc chấm dứt tiến hành một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253;
b) Các vụ tranh chấp phát sinh từ một
luận cứ của quốc gia nghiên cứu cho rằng trong trường hợp của một dự án riêng
biệt, quốc gia ven biển không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253 đã dành
cho mình một cách phù hợp với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay bên
khác được đưa ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V,
dĩ nhiên là Ủy ban hòa giải không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết định
của quốc gia ven biển trong việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã được trù
định ở Điều 246, khoản 6, cũng như việc thi hành quyền tùy ý không cho phép
theo đúng khoản 5 của cùng điều đó.
3. a) Các việc tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng các qui định của Công ước về việc đánh bắt hải sản
được giải quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận
cách giải quyết như vậy về một vụ tranh chấp liên quan đến các quyền thuộc chủ
quyền của mình đối với các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế
của mình, hay liên quan đến việc thi hành các quyền này, kể cả quyền tùy ý qui
định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng đánh bắt của mình,
phân phối số dư ra giữa các quốc gia khác, quyết định các thể thức, điều kiện
đặt ra trong các luật và qui định của mình về bảo vệ và quản lý;
b) Nếu việc vận dụng Mục 1, không cho
phép đi đến một cách giải quyết, thể theo yêu cầu của một bên nào đó trong số
các bên tranh chấp, vụ tranh chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục được trù
định ở Mục 2 của Phụ lục V, khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển đã:
Rõ ràng không thực hiện nghĩa vụ phải
dùng các biện pháp bảo vệ và quản lý thích hợp để bảo đảm rằng việc duy trì các
tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng nghiêm
trọng;
Độc đoán từ chối việc quy định, theo yêu
cầu của một quốc gia khác khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng
khai thác tài nguyên sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải sản mà việc
khai thác có liên quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối việc chia cho một quốc
gia nào đó toàn bộ hay một phần số cá dư mà mình đã xác nhận, như đã trù định ở
các Điều 62, 69 và 70 và theo các thể thức và điều kiện mà bản thân mình đã qui
định và phù hợp với Công ước;
Ủy ban hòa giải không có trường hợp nào
được phép dùng quyền túy ý quyết định của mình thay cho quyền tùy ý quyết định
của các quốc gia ven biển.
Báo cáo của Ủy ban hòa giải phải được
thông báo cho các tổ chức quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về các thỏa thuận đã trù
định ở các Điều 69 và 70, các quốc gia thành viên, trừ khi có thỏa thuận khác,
ghi vào đó một điều khoản trù định các biện pháp mà mình phải thi hành để giảm
đến mức tối thiểu các khả năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng thỏa
thuận, cũng như thủ tục phải tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng.
ĐIỀU 298. Những ngoại lệ không bắt buộc đối với việc
áp dụng Mục 2
1. Khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia
Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, với điều kiện không phương
hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn
bản rằng mình không chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các tranh chấp
đã được trù định ở Mục 2 có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau
đây:
a) i. Các vụ tranh chấp về việc giải
thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới
các vùng biển hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, nghĩa
là khi một tranh chấp như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực và nếu các
bên không đi đến một thỏa thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời
hạn hợp lý, thì quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp
nhận đưa vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của
phụ lục V, và đương nhiên không thể đưa ra xét theo thủ tục này một vụ tranh
chấp nào đòi hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được
giải quyết liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền
hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban hòa giải đã trình bày
báo cáo của mình, báo cáo phải nói rõ được lý do, thì các bên thương lượng về
một thỏa thuận trên cơ sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương lượng không
thành, thì các bên, qua sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo các thủ tục
đã được quy định ở Mục 2, trừ khi các bên có thỏa thuận khác;
iii. Điểm nhỏ này không áp dụng đối với
các vụ tranh chấp liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển đã được
một thỏa thuận giữa các bên giải quyết dứt khoát, cũng như đối với các vụ tranh
chấp phải được giải quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai bên hay nhiều bên có
tính chất ràng buộc các bên;
b) Các vụ tranh chấp liên quan đến các
hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay
của Nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các
vụ tranh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện
trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297,
khoản 2 và 3, đã loại trừ khỏi thẩm quyền của một Tòa án;
c) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an
Liên hợp quốc, trong khi thi hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên
hợp quốc giao phó có trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết định
xóa vấn đề trong chương trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh chấp
giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã qui định trong Công ước.
2. Một quốc gia thành viên đã ra một
tuyên bố theo khoản 1, thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui tuyên bố đó hay
thỏa thuận đưa ra một vụ tranh chấp mà tuyên bố này đã loại trừ, ra trước bất
cứ thủ tục giải quyết nào đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia thành viên đã ra một
tuyên bố theo khoản 1, thì không thể đưa ra một vụ tranh chấp, nằm trong một
loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra trước một thủ tục nào đó trong số các thủ
tục đã được trù định trong Công ước, nếu không có sự thỏa thuận của quốc gi
thành viên đang tranh chấp với mình.
4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một
tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có
thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm
trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định
rõ trong tuyên bố này.
5. Một tuyên bố mới hay một thông báo
rút lui một tuyên bố không hề có tác động đến thủ tục đang áp dụng trước một
toàn án xét xử theo đúng điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Các tuyên bố hay các thông báo rút
lui các tuyên bố nói ở điều này phải được gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để
lưu chuyển, Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản sao các văn kiện đó cho
các quốc gia thành viên.
ĐIỀU 299. Quyền của các bên trong việc thỏa thuận các
thủ tục
1. Bất kỳ tranh chấp nào khi đã bị loại
khỏi các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù định ở Mục 2 theo Điều 297
hoặc bằng một tuyên bố theo đúng Điều 298, thì chỉ có thể được đưa ra giải
quyết theo các thủ tục này qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp.
2. Không một quy định nào của mục này
đụng chạm đến quyền của các bên tranh chấp trong việc thỏa thuận sử dụng một
thủ tục khác để giải quyết vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ tranh
chấp bằng sự giàn xếp ổn thỏa.
ĐIỀU 300. Thiện chí và lạm quyền
Các quốc gia thành viên phải có thiện
chí hoàn thành các nghĩa vụ đã đảm nhận theo nội dung Công ước, và thực hiện
các quyền, thẩm quyền và các tự do đã được thừa nhận trong Công ước, sao cho
không để xảy ra tình trạng lạm quyền.
ĐIỀU 301. Việc sử dụng biển vào những mục đích hòa
bình
Trong việc thực hiện các quyền và làm
tròn nghĩa vụ của mình theo đúng Công ước, các quốc gia thành viên tránh dựa
vào việc đe dọa hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập
chính trị của mọi quốc gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không phù hợp
với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp
quốc.
ĐIỀU 302. Việc tiết lộ các thông tin
Không phương hại đến quyền của mọi quốc
gia thành viên dựa vào các thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp đã được trù
định trong Công ước, không qui định nào của Công ước có thể được giải thích như
là bắt buộc một quốc gia thành viên, trong khi thi hành các nghĩa vụ của mình
theo Công ước, cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ sẽ là trái với các lợi
ích thiết yếu của mình về mặt an ninh.
ĐIỀU 303. Các hiện vật khảo cổ và lịch sử được phát
hiện ở biển
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện
vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển; các quốc gia hợp
tác với nhau vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này,
bằng cách áp dụng Điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật
đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là
sự vi phạm các luật và qui định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong
lãnh hải của mình, đã được nêu ở Điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền
của những người sở hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu
hồi các xác tàu và các qui tắc khác của luật hàng hải cũng không đụng chạm đến
các luật và tập quán về mặt trao đổi văn hóa.
Điều này không làm phương hại đến các
điều ước quốc tế khác và các qui tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc
bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử.
ĐIỀU 304. Trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt
hại
Các qui định của Công ước liên quan đến
trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt hại không phương hại đến việc áp dụng
các qui tắc hiện hành và việc lập ra các qui tắc mới liên quan đến trách nhiệm
theo pháp luật quốc tế.
1. Công ước để ngỏ cho các đối tượng sau
đây được ký: Tất cả các quốc gia;
Nước Na-mi-bi-a do Hội đồng của Liên hợp
quốc về Na-mi-bi-a đại diện;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị đã
chọn chế độ này qua một hành động tự quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê
chuẩn theo Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các
vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà
theo các văn bản liên kết, có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập,
kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn
toàn về nội trị được Liên hợp quốc thừa nhận, nhưng chưa giành được nền độc lập
hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền
đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các
vấn đề đó;
Các tổ chức quốc tế theo đúng phụ lục
IX.
Công ước để ngỏ cho việc ký kết tại Bộ
Ngoại giao nước Gia-mai-ca cho đến ngày 09-12-1984 cũng như tại trụ sở của Liên
hợp quốc tại Niu Oóc từ 1-7-1983 đến 9-12-1984.
ĐIỀU 306. Việc phê chuẩn và việc xác nhận chính thức
Công ước phải được các quốc gia và các
thực thể khác nói ở Điều 305, khoản 1, các điểm b, c, d và e phê chuẩn và được
các thực thể nói ở khoản 1, điểm f, của điều đó xác nhận chính thức theo đúng
Phụ lục IX. Các văn kiện phê chuẩn và xác nhận chính thức được lưu chiểu bên
cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Công ước vẫn để ngỏ cho các quốc gia và
thực thể khác nói ở Điều 305 tham gia. Việc tham gia của các thực thể nói ở
Điều 305, khoản 1, điểm f do Phụ lục IX điều chỉnh. Các văn kiện tham gia được
lưu chiểu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
1. Công ước có hiệu lực sau 12 tháng kể
từ ngày gửi lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60.
2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn Công
ước hay tham gia vào Công ước sau khi văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60 đã
được gửi lưu chiểu, thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc
gia này gửi lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của mình, với điều kiện
phải tuân thủ quy định ở khoản 1.
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ
nhóm họp vào ngày mà Công ước bắt đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội đồng của Cơ
quan quyền lực. Trong trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn toàn đầy đủ,
thì Hội đồng đầu tiên phải được thành lập sao cho phù hợp với những mục tiêu đã
nói ở điều đó.
Các quy tắc, quy định và thủ tục do Ủy
ban trù bị soạn thảo sẽ được tạm thời áp dụng trong khi chờ cho các qui tắc,
qui định và thủ tục đó được Cơ quan quyền lực chính thức thông qua theo đúng
Phần XI.
Cơ quan quyền lực và các cơ quan của nó
hành động theo đúng nghị quyết II của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên
hợp quốc liên quan đến các khoản vốn đầu tư ban đầu và với các quyết định của
Ủy ban trù bị để thực hiện nghị quyết này.
ĐIỀU 309. Các bảo lưu và ngoại lệ
Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng
không chấp nhận các ngoại lệ ngoài những điều đã được các điều khác của Công
ước cho phép một cách rõ ràng.
Điều 309 không ngăn cấm một quốc gia,
vào lúc mà quốc gia này ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia vào Công ước, ra
các tuyên bố, bất kể lới văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế nào, đặc biệt là
nhằm điều hòa luật lệ và qui định quốc của họ với Công ước, với điều kiện là
các tuyên bố này không nhằm loại trừ hay sửa đổi hiệu lực pháp lý của các qui
định của Công ước trong việc áp dụng chúng vào quốc gia này.
ĐIỀU 311. Mối quan hệ với các công ước và điều ước
quốc tế khác
Giữa các quốc gia thành viên, Công ước
có giá trị hơn các Công ước Giơ-ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật biển.
Công ước không thay đổi chút nào về các
quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên bắt nguồn từ các Hiệp ước khác
phù hợp với Công ước và các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm đến việc các
quốc gia khác được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng như việc các
quốc gia khác thi hành nghĩa vụ của họ bắt nguồn từ Công ước.
Hai hoặc trên hai quốc gia thành viên
tham gia vào Công ước có thể ký các điều ước sửa đổi hay đình chỉ việc áp dụng
các qui định của Công ước và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau,
với điều kiện là các điều ước này không đụng đến một trong các qui định Công
ước mà việc không tôn trọng sẽ không phù hợp với việc thực hiện nội dung và mục
đích của Công ước, và cũng với điều kiện là các điều ước này không đụng chạm
đến việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong Công ước, cũng không
đụng chạm đến việc các quốc gia khác hưởng và thi hành các quyền hay nghĩa vụ
bắt nguồn từ Công ước.
Các quốc gia thành viên dự định ký kết
một điều ước nói ở khoản 3 cần thông báo cho các bên khác, qua trung gian của
người lưu chiểu Công ước, ý định ký kết điều ước của mình cũng như những sửa
đổi hay việc đình chỉ áp dụng các qui định của Công ước mà điều ước đó trù
định.
Điều này không đụng chạm đến các điều
ước quốc tế được phép hay được duy trì một cách rõ ràng theo các điều khác của
Công ước.
Các quốc gia thành viên thỏa thuận rằng
không thể có sự sửa đổi nào đối với nguyên tắc cơ bản về di sản chung của loài
người đã được nêu lên ở Điều 136 và các quốc gia này sẽ không tham gia vào một
điều ước nào vi phạm nguyên tắc ấy.
Sau một thời gian 10 năm kể từ ngày Công
ước có hiệu lực, mọi quốc gia thành viên có thể, qua văn bản gửi lên Tổng thư
ký Liên hợp quốc, đề nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về những điểm cụ
thể, trong chừng mực mà các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các hoạt động tiến
hành trong Vùng, và đề nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ xem xét các điều
sửa đổi được đề xuất như vậy. Tổng thư ký chuyển văn bản này cho các quốc gia
thành viên. Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, có ít nhất là một nửa
số quốc gia thành viên trả lời một cách thuận lợi cho yêu cầu này, thì Tổng thư
ký triệu tập hội nghị.
Trừ khi Hội nghị sửa đổi có quyết định
khác, Hội nghị đó sẽ áp dụng thủ tục ra quyết định đã được dùng trong hội nghị
luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc. Hội nghị phải cố gắng hết sức để đi
đến thỏa thuận về các điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và hội nghị chỉ
được tiến hành bỏ phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một sự thỏa thuận
không còn nữa.
ĐIỀU 313. Việc sửa đổi bằng thủ tục đơn giản hóa
Qua văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên
hợp quốc, mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với Công
ước, không phải là một điều sửa đổi nhằm vào các hoạt động tiến hành trong
Vùng, và yêu cầu rằng điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa
được trù định trong điều này, không cần triệu tập một hội nghị để xem xét điều
sửa đổi đó. Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất cả các quốc gia
thành viên.
Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn
bản này, một quốc gia thành viên có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề
nghị hay phản đối ý kiến đề xuất nhằm làm cho điều sửa đổi đó được thông qua
theo thủ tục đơn giản hóa, thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ. Tổng thư ký Liên
hợp quốc thông báo ngay việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu 12 tháng sau ngày chuyển văn bản,
không có một quốc gia thành viên nào có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề
xuất hay phản đối đề nghị nhằm làm cho điều đó được thông qua theo thủ tục đơn
giản hóa, thì điều sửa đổi được đề xuất coi như được chấp thuận. Tổng thư ký
thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên việc chấp nhận điều sửa đổi đã
được đề xuất này.
1. Qua biên bản gởi lên Tổng thư ký của
Cơ quan quyền lực, mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối
với các qui định của Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong
Vùng, kể cả các qui định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI. Tổng thư ký gởi văn bản
này cho tất cả các quốc gia thành viên. Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm sửa đổi
được đề xuất phải được Đại hội đồng chuẩn y. Đại biểu của các quốc gia thành
viên có toàn quyền để xem xét và thông qua điều sửa đổi được đề xuất. Đề nghị
sửa đổi, như đã được Hội đồng và Đại hội đồng chuẩn y, coi như được chấp thuận.
2. Trước khi chuẩn y một điều sửa đổi
theo đúng khoản 1, Hội đồng và Đại hội đồng phải biết chắc rằng điều sửa đổi
không đụng chạm đến hệ thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng trong
khi chờ đợi triệu tập cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều 155.
ĐIỀU 315. Những điều sửa đổi: ký, phê chuẩn, tham gia
và các văn bản chính thức
Những điều sửa đổi đối với Công ước khi
được thông qua, được để ngỏ cho các quốc gia thành viên ký kết tại trụ sở của
Liên hợp quốc ở Niu Oóc, trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày thông qua các
điều sửa đổi này, trừ khi các điều sửa đổi đó có qui định khác.
Các Điều 306, 307 và 320 được áp dụng
cho tất cả các điều sửa đổi đối với Công ước.
ĐIỀU 316. Các điều sửa đổi có hiệu lực
Đối với các thành viên đã phê chuẩn hay
đã tham gia công ước, ngoài những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có hiệu lực vào
ngày thứ ba mươi tiếp sau việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia
của hai phần ba số quốc gia thành viên hay của 60 quốc qia thành viên, số lượng
nào cao nhất sẽ được sử dụng. Các điều sửa đổi không đụng chạm đến việc các
quốc gia khác được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng không đụng
chạm đến việc họ thi hành các nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Một điều sửa đổi có thể trù định rằng,
việc nó có hiệu đòi hỏi phải có một số lượng quốc gia phê chuẩn hay tham gia
cao hơn số lượng mà điều này đòi hỏi.
Đối với một quốc gia đã phê chuẩn một
điều sửa đổi nói ở khoản 1 hay đã tham gia vào điều sửa đổi đó sau ngày số
lượng các văn bản phê chuẩn hay tham gia cần thiết đã được lưu chiểu, điều sửa
đổi này có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu chiểu văn bản
phê chuẩn hay tham gia của quốc gia thành viên đó.
Bất kỳ quốc gia nào khi trở thành thành
viên của Công ước, sau khi một điều sửa đổi có hiệu lực theo đúng khoản 1, nếu
không biểu thị một ý định khác, thì được coi như là:
Thành viên của Công ước đã được sửa đổi;
và
Thành viên của Công ước không được sửa
đổi đối với mọi quốc gia thành viên không bị ràng buộc bởi các điều sửa đổi.
Các điều sửa đổi chỉ nhằm vào các hoạt
động tiến hành trong Vùng và các điều sửa đổi đối với Phụ lục VI sẽ có hiệu lực
đối với tất cả các quốc gia thành viên sau ngày có ba phần tư số quốc gia thành
viên nộp lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia.
Mọi quốc gia khi trở thành thành viên
của Công ước, sau khi các điều sửa đổi nói trong khoản 5 có hiệu lực được coi
như thành viên của Công ước đã được sửa đổi.
Một quốc gia thành viên có thể từ bỏ
Công ước, qua thông báo viết gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, và nói rõ
những lý do của việc từ bỏ. Dù quốc gia thành viên này không nêu rõ lý do đó,
thì việc từ bỏ vẫn không vì thế mà vô hiệu lực. Việc từ bỏ có hiệu lực sau một
năm kể từ ngày nhận được thông báo, trừ khi trong thông báo có trù định một
thời hạn chậm hơn.
Việc từ bỏ cũng không làm cho một quốc
gia tránh khỏi các nghĩa vụ về mặt tài chính và hợp đồng mà họ phải đảm nhận,
khi mà quốc gia này còn là thành viên của Công ước, và việc từ bỏ cũng không
ảnh hưởng đến các quyển, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt
nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với
quốc gia đó.
Việc từ bỏ không hề ảnh hưởng chút nào
tới bổn phận của mọi quốc gia thành viên phải làm tròn mọi nghĩa vụ đã nêu
trong Công ước, mà quốc gia này phải tuân thủ theo pháp luật quốc tế độc lập
với Công ước.
ĐIỀU 318. Quy chế của các phụ lục
Các phụ lục là bộ phận hoàn chỉnh của
Công ước, một sự viện dẫn Công ước cũng là một sự viện dẫn các phụ lục của nó
và sự viện dẫn một phần của Công ước cũng là sự viện dẫn các phụ lục có liên
quan đến phần đó, trừ trường hợp có quy định trái ngược rõ ràng.
Tổng thư ký Liên hợp quốc là người lưu
chiểu Công ước và các điều sửa đổi có liên quan đến công ước.
Ngoài chức năng của người lưu chiểu,
Tổng thư ký Liên hợp quốc còn:
Báo cáo cho tất cả các quốc gia thành
viên, Cơ quan quyền lực và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về các vấn đề mang
tính chất chung xuất hiện liên quan đến Công ước.
Thông báo cho Cơ quan quyền lực các văn
bản phê chuẩn, xác nhận chính thức và tham gia Công ước và các điều sửa đổi đối
với Công ước, cũng như các văn bản từ bỏ các Công ước;
Thông báo cho các quốc gia thành viên
các điều ước được ký kết theo đúng với Điều 311, khoản 4;
Chuyển cho các quốc gia thành viên các
điều sửa đổi đã được thông qua theo đúng Công ước để phê chuẩn hay tham gia;
Triệu tập các cuộc họp cần thiết của các
quốc gia thành viên theo đúng Công ước.
3. a) Tổng thư ký cũng chuyển cho các
quan sát viên nói ở Điều 156: Các báo cáo nói ở khoản 2, điểm a;
Các thông báo nói ở khoản 2, điểm b và
c;
Văn bản các điểm sửa đổi nói ở khoản 2,
điểm d với tính chất để thông báo.
b) Tổng thư ký cũng mời các quan sát
viên này tham gia các hội nghị của các quốc gia thành viên nói ở khoản 2 điểm e
với tư cách là quan sát viên
ĐIỀU 320. Các văn bản chính thức
Nguyên bản của Công ước bằng tiếng Anh,
Ả Rập, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, và Nga đều có giá trị chính thức như nhau
và được lưu chiếu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc, theo Điều 305, khoản 2.
Để làm tin, các đại diện toàn quyền ký
dưới đây là những người được phép hợp thức ký vào Công ước.
Làm tại Môn-tê-gô Bay ngày mồng Mười
tháng Mười hai năm Một ngàn chín trăm tám mươi hai.
LIÊN
HỢP QUỐC
Tên bằng tiếng Việt Nam |
Tên bằng tiếng Pháp |
Tên bằng tiếng La tinh |
1. Cá ngừ vây dài |
Thon blanc germon |
Thunnus alalunga |
2. Cá ngừ |
Thon rouge |
Thunnus thynnus |
3. Cá ngừ mắt to |
Thon abèse à grosoceil |
Thunnis obesus |
4. Cá ngừ vằn |
Bonite à ventre rayé |
Katsuwonus pelamis |
5. Cá ngừ vàng |
Thon à nageoire jaune |
Thunnus albacares |
6. Cá ngừ đen |
Thon noir |
Thunnus atlanticus |
7. Cá ngừ Đài Loan |
Thonine |
Euthunnus alletteatus; Euthunnus
affinis |
8. Cá ngừ phương nam |
Thon à nageoire bleue |
Thunnus maccoyii |
9. Cá ngừ dẹp |
Auxide |
Auxis thazard; Auxis rochie |
10. Cá ven biển |
Brème de mẻ |
Bramide |
11. Cá ngừ môn nhái |
Martin |
Tetrapturus angustirostris;
Tetrapturus belone; Tetrapturus pluegeri; Tetrapturusalbidus; Tetrapturus
audax; Tetrapturus georgei; Makaira mazara; Makaira india; Makaira
nigricans; Istiophorus platyterus |
12. Cá cờ |
Voilier |
Istiophorus albicans |
13. Cá mũi kiếm |
Espadon |
Xiphias gladius |
14. Cá thu đao |
Sauri ou balaou |
Scomberesor saurus; cololabis saira;
Cololabis adocetus; Scomberesox saurus; Scombroides |
15. Cá nục heo |
Coryphène ou dorade tropicale |
Corypheana hippurus; Corypheana
equiselis |
16. Cá nhám |
Requin |
Hexanchusgriseus; Cetorhinus maximus;
Alpildae; Rhincodon typus; Carcharhinidae; Sphyrnidae; Isuridae |
17. Cá loài cá voi |
Cétacés |
Physeteridae; Balaenopteridae;
Balanenidae; Eschrichtiidae; Monodontidae;Ziphiidae; Deiphinidae. |
ĐIỀU
1. Để thi hành Điều 76, một ủy ban
ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hoải lý được thành lập theo đúng các điều sau
đây.
ĐIỀU
2.
1. Ủy ban gồm 21 ủy viên là chuyên gia
về địa chất, địa vật lý hay địa thủy văn, do các quốc gia thành viên tham gia
Công ước lựa chọn trong số công dân của mình, có tính đến sự cần thiết phải bảo
đảm một sự đại diện công bằng về địa lý, các ủy viên này phải thi hành các chức
trách của mình với tư cách cá nhân.
2. Cuộc bầu cử đầu tiên sẽ được tiến
hành ngay khi có điều kiện, và dù sao cũng phải được tiến hành trong một thời
hạn là 18 tháng kể từ khi Công ước có hiệu lực. Ít nhất là ba tháng trước ngày
tiến hành mỗi cuộc bầu cử, Tổng thư ký Liên hợp quốc gửi một văn thư cho các
quốc gia thành viên để mời họ giới thiệu ứng cử viên, sau khi đã có các cuộc
tham khảo ý kiến thích hợp ở khu vực và việc này tiến hành trong một thời hạn
là ba tháng. Tổng thư ký lập ra một danh sách theo thứ tự a, b, c, tất cả các
ứng cử viên được chỉ định nói trên và gửi danh sách này cho tất cả quốc gia
thành viên.
3. Việc bầu cử các ủy viên của Ủy ban
được tiến hành trong một hội nghị của các quốc gia thành viên do Tổng thư ký
triệu tập tại trụ sở của Liên hiệp quốc. Số đại biểu cần thiết (quorum) là hai
phần ba số phiếu của các đại biểu có mặt và bỏ phiếu, thì trúng cử ủy viên của
Ủy ban. Mỗi vùng địa lý được tuyển chọn ít nhất ba ủy viên.
4. Các ủy viên của Ủy ban được bầu với
một nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể được bầu lại.
5. Quốc gia thành viên nào đã giới thiệu
ứng cử viên vào Ủy ban phải bảo đảm mọi khoản chi tiêu cho ủy viên đó khi họ
thi hành phận sự của mình nhân danh Ủy ban, quốc gia ven biển hữu quan phải
chịu các kinh phí có liên quan đến những ý kiến nêu ở Điều 3, khoản 1, điểm d
của phụ lục này. Chi phí Văn phòng của Ủy ban do Tổng thư ký Liên hiệp quốc bảo
đảm.
ĐIỀU
3.
Các chức năng của Ủy ban là:
Xem xét các số liệu và các thông tin
khác do các quốc gia ven biển gửi đến có liên quan đến ranh giới ngoài của thềm
lục địa, khi thềm lục địa này mở rộng quá 200 hải lý và đưa ra các kiến nghị
theo đúng điều 76, và Giác thư thỏa thuận (Memorandum d’accord) đã được Hội
nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc thông qua ngày 39-8-1980.
Theo yêu cầu của quốc gia ven hữu quan,
phát biểu các ý kiến về khoa học và kỹ thuật để xây dựng các số liệu ở ý kiến
về khoa học và kỹ thuật để xây dựng các số liệu nói ở điểm trên.
Trong phạm vi được đánh giá là cần thiết
và hữu ích, Ủy ban có thể hợp tác với Ủy ban Hải dương học liên chính phủ của
UNESCO, Tổ chức thủy văn quốc tế và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khác nhằm
thu được các số liệu khoa học và kỹ thuật có thể giúp cho mình hoàn thành trách
nhiệm.
ĐIỀU
4. Quốc gia ven biển nào dự định xác
định ranh giới ngoài của thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo Điều 76 cần gửi cho
Ủy ban ngay khi có điều kiện và trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong một thời hạn
10 năm kể từ khi công ước có hiệu lực đối với quốc gian này, các đặc điểm của
ranh giới này với những số liệu khoa học và kỹ thuật để chứng minh. Đồng thời,
quốc gia ven biển thông báo tên tất cả các ủy viên của Ủy ban đã cung cấp cho
mình các ý kiến về khoa hoc và kỹ thuật.
ĐIỀU
5. Trừ trường hợp Ủy ban có quyết
định khác, Ủy ban hoạt động thông qua hai tiểu ban gồm bảy ủy viên được chỉ
định một cách cân bằng có tính đến các yếu tố riêng của mỗi đơn yêu cầu do một
quốc gia ven biển gửi lên các ủy viên của Ủy ban là công dân của quốc gia này
các ý kiến về khoa học và kỹ thuật về đường ranh giới này, không thể tham gia
vào tiểu ban có trách nhiệm xem xét đơn yêu cầu, nhưng học có quyền tham gia
với tư cách là các ủy viên vào các công việc của Ủy ban có liên quan đến đơn
này. Quốc gia ven biển khi đã gửi một đơn yêu cầu lên Ủy ban, thì có thể gửi
các đại diện của mình tới tham gia các công việc thích hợp, nhưng không có
quyền biểu quyết.
ĐIỀU
6.
1. Tiểu ban gửi các kiến nghị của mình
lên Ủy ban.
2. Ủy ban chuẩn y các kiến nghị của Tiểu
ban theo đa số hai phần ba các ủy viên và bỏ phiếu.
3. Các kiến nghị của Ủy ban được gửi
bằng văn bản tới quốc gia ven biển đã đưa đơn yêu cầu cũng như cho Tổng thư ký
Liên hợp quốc.
ĐIỀU
7. Các quốc gia ven biển xác định
ranh giới ngoài thềm lục địa của mình theo đúng Điều 76, khoản 8 và theo các
thủ tục quốc gia thích hợp.
ĐIỀU
8. Nếu không đồng ý với các kiến nghị
của Ủy ban, quốc gia ven biển gửi lên cho Ủy ban trong một thời hạn hợp lý một
đơn yêu cầu đã được xem xét lại hoặc một đơn mới.
ĐIỀU
9. Các hành động của Ủy ban không xét
đoán trước các vấn đề liên quan đến việc thiết lập các ranh giới giữa các quốc
gia mà bờ biển tiếp liền hoặc đối diện.
CÁC QUI ĐỊNH
CƠ SỞ ĐIỀU CHỈNH VIỆC THĂM DÒ, KHẢO SÁT VÀ KHAI THÁC
ĐIỀU
1. Các quyền đối với các khoảng sản
Việc chuyển giao các quyền đối với các
khoáng sản diễn ra vào lúc khai thác các khoáng sản này theo đúng Công ước.
ĐIỀU
2. Thăm dò
1. a) Cơ quan quyền lực khuyến khích
việc thăm dò trong vùng.
b) Việc thăm dò chỉ có thể bắt đầu khi
Cơ quan quyền lực nhận được của người sẽ tiến hành thăm dò một bản cam đoan
thỏa đáng là sẽ tôn trọng Công ước, các quy tắc, quy định và thủ tục của cơ
quan quyền lực có liên quan đến việc hợp tác trong các chương trình đào tạo nói
trong các Điều 143 và 144 và về việc bảo vệ môi trường biển, và người đó chấp
nhận để cho Cơ quan quyền lực kiểm tra việc thi hành của mình. Đồng thời với
bản cam đoan này, người sẽ tiến hành thăm dò sẽ thông báo cho Cơ quan quyền lực
biết các giới hạn gần đúng của khu vực hay các khu vực sẽ tiến hành thăm dò.
c) Công việc thăm dò có thể được nhiều
người thăm dò thực hiện đồng thời trong cùng một hay cùng những khu vực.
2. Việc thăm dò không dành cho người
thăm dò một quyền nào đối với các tài nguyên. Tuy nhiên, người thăm dò có thể
khai thác một số lượng hợp lý khoáng sản để làm mẫu.
ĐIỀU
3. Khảo sát và khai thác
1. Xí nghiệp, các quốc gia thành viên và
các thực thể hay cá nhân khác nói ở Điều 153, khoản 2, điểm b, có thể yêu cầu
cơ quan quyền lực phê chuẩn các kế hoạch làm việc về hoạt động tiến hành trong
vùng.
2. Xí nghiệp có thể làm một đơn yêu cầu
nhằm vào bất kỳ khu vực nào của vùng, nhưng các đơn yêu cầu đối với các khu vực
dành riêng do các thực thể hay cá nhân khác gửi đến khi còn phải thỏa mãn các
điều kiện đã nêu ở Điều 9 của Phụ lục này.
3. Việc khảo sát và khai thác chỉ tiến
hành trong những khu vực đã được nói rõ trong các kế hoạch làm việc đã nêu ở
Điều 153, khoản 3 và đã được Cơ quan quyền lực chuẩn y theo đúng Công ước, và
các quy tắc, quy định và thủ tục tương ứng của Cơ quan quyền lực.
4. Mọi kế hoạch làm việc được chuẩn y
đều phải:
a) Phù hợp với công ước và các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
b) Trù định việc kiểm soát của cơ quan
quyền lực đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, theo đúng Điều 153, khoản
4;
c) Trao cho người khai thác, theo đúng
các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, các đặc quyền đối với
việc khảo sát và khai thác trong khu vực nói trong kế hoạch làm việc, các loại
tài nguyên được ghi rõ trong kế hoạch làm việc chỉ liên quan đến giai đoạn khảo
sát hay khai thác, thì người đó chỉ được giao cho các đặc quyền đối với giai
đoạn đó thôi.
5. Một khi được cơ quan quyền lực chuẩn
y, mọi kế hoạch làm việc, nếu không phải là kế hoạch làm việc do xí nghiệp đề
nghị, đều mang hình thức một hợp đồng ký kết giữa cơ quan quyền lực và người
hay những người yêu cầu.
ĐIỀU
4. Các điều kiện về tư cách của những người yêu cầu
1. Ngoài các xí nghiệp ra, những người
yêu cầu được coi là có tư cách, là những người thực hiện đầy đủ các điều kiện
nói trong Điều 153, khoản 2, điểm b về các vấn đề quốc tịch hay vấn đề về kiểm
soát và bảo trợ, và tuân theo các thủ tục, đáp ứng các tiêu chuẩn về tư cách đã
được nêu trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Với điều kiện tuân thủ khoản 6, các
tiêu chuẩn về tư cách đó có liên quan tới khả năng tài chính và kỹ thuật của
người yêu cầu, cũng như với tư cách mà người này thực hiện các hợp đòng ký kết
trước đây vơi Cơ quan quyền lực.
3. Mọi người yêu cầu đều phải được quốc
gia thành viên mà người yêu cầu là công dân, bảo trợ, trừ khi người yêu cầu có
qua một quốc tịch như: trong trường hợp một Công ty hay Công-xoóc-xi-om gồm
nhiều thực thể cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau, tất cả các quốc gia thành
viên hữu quan phải bảo trợ đơn yêu cầu; trong trường hợp người yêu cầu do một
quốc gia thành viên khác hay các công dân của quốc gia khác này kiểm soát một
cách thực sự và thủ tục áp dụng các điều kiện bảo trợ được nêu trong các quy
định quy tắc và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
4. Theo điều 139 và theo chế độ pháp lý
của mình, quốc gia thành viên hay các quốc gia thành viên bảo trợ một đơn yêu
cầu có nghĩa vụ tham quan tâm đến các hoạt động trong vùng của một người ký
kết, mà quốc gia đó hay các quốc gia bảo trợ, được tiến hành theo đúng các
nghĩa vụ của họ theo hợp đồng và theo Công ước. Tuy nhiên, một quốc gia thành
viên không chịu trách nhiệm về những tổn thất gây ra do thiếu sót của người ký
kết mà mình bảo trợ đối với những nghĩa vụ của người đó, nếu quốc gia nói trên
đã thông qua các luật và qui chế và đã quy định các biện pháp hành chính, mà
đối với chế độ pháp lý của quốc gia này, thì thích hợp một cách đúng mức để bảo
đảm cho những người thuộc quyền tài phán của mình tôn trọng thực sự các nghĩa
vụ đó.
5. Các thủ tục để xét đơn của các quốc
gia thành viên phải tính đến tư cách Nhà nước của họ.
6. Các tiêu chuẩn tư cách đòi hỏi bất kỳ
người yêu cầu nào, không ngoại lệ, cũng phải cam đoan trong đơn yêu cầu của
mình:
a) Chấp nhận coi như có tính chất bắt
buộc và tôn trọng các nghĩa vụ của mình theo phần XI, các quy tắc quy định, thủ
tục của Cơ quan quyền lực, các quyết định của các cơ quan của Cơ quan quyền lực
và các điều khoản của các hợp đồng đã được ký kết với Cơ quan quyền lực;
b) Chấp nhận để Cơ quan quyền lực thực
hiện việc kiểm soát như Công ước đã cho phép đối với các hoạt động tiến hành
trong Vùng;
c) Cung cấp cho Cơ quan quyền lực bản
cam đoan sẽ hoàn thành một cách trung thực những nghĩa vụ của mình theo hợp
đồng;
d) Tông trọng các điều quy định liên
quan đến việc chuyển giao các kỹ thuật đã nêu trong Điều 5 của phụ lục này.
ĐIỀU
5. Chuyển giao các kỹ thuật
1. Khi đệ trình một kế hoạch làm việc,
mọi người yêu cầu đều phải cung cấp cho Cơ quan quyền lực một bản mô tả chung
về trang bị các phương pháp sẽ được sử dụng đối với các hoạt động tiến hành
trong Vùng, các thông tin tương ứng khác không phải là sở hữu công nghiệp và có
liên quan đến các đặc tính của các kỹ thuật được dự tính, cũng như các thông
tin chỉ rõ nơi có các kỹ thuật này.
2. Mọi người khai thác đều thông báo cho
Cơ quan quyền lực các điều thay đổi đối với bản mô tả các dữ kiện và các thông
tin đã đưa đến cho Cơ quan quyền lực sư dụng theo khoản 1, mỗi khi có sự sửa
đổi hay đổi mới về kỹ thuật quan trọng.
3. Mọi hợp đồng về các hoạt động trong
vùng đều phải có các điều khoản; trong đó, người ký hợp đồng cam đoan:
a) Theo yêu cầu của Cơ quan quyền lực,
theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý, để cho xí nghiệp
sử dụng các kỹ thuật mà mình dùng để tiến hành các hoạt động trong vùng theo
hợp đồng và mình có quyền chuyển giao. Việc chuyển giao này được tiến hành qua
các thỏa thuận về giấy phép hay các dàn xếp thích hợp khác, mà người khai thác
thương lượng với xí nghiệp và đã được ghi lại trong một bản thỏa thuận đặc biệt
bổ sung cho hợp đồng. Sự cam kết này chỉ có thể được đề cập, nếu xí nghiệp xét
thấy rằng, mình không có khả năng có được trên thị trường tự do chính những kỹ
thuật này hoặc những kỹ thuật cũng có hiệu quả và thích hợp như thế, theo các
thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý;
b) Nhận được bản cam kết của người sở
hữu mọi kỹ thuật dùng để tiến hành các hoạt đọng trong Vùng theo hợp đồng và
không được nêu ở điểm a, và nói chung cũng không có sẵn trên thị trường tự do;
bản cam kết đó nói rằng theo yêu cầu của Cơ quan quyền lực, người đó sẽ cho
phép Xí nghiệp, qua các thỏa thuận về giấy phép hay các dàn xếp thích hợp khác,
sử dụng các kỹ thuật này trong cùng một mức độ của người ký hợp đồng, theo các
thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý. Nếu không có cam kết này,
thì người khai thác không thể được sử dụng các kỹ thuật nói trên để tiến hành
các hoạt động trong Vùng.
c) Theo yêu cầu của Xí nghiệp và nếu có
thể tiến hành mà không làm cho người ký kết hợp đồng phải chịu những chi phí
quan trọng thì bằng một hợp đồng có tính chất bắt buộc phải chấp hành, đạt được
quyền chuyển giao cho Xí nghiệp mọi kỹ thuật dùng để tiến hành các hoạt động
trong Vùng theo danh nghĩa của hợp đồng, mà người đó chưa có quyền chuyển giao
và nói chung không sẵn có trên thị trường tự do. Nếu có mối liên hệ thực chất
trong khuôn khổ của một công ty, giữa người khai thác và người sở hữu kỹ thuật,
thì tính chất chặt chẽ của mối liên hện này và mức độ kiểm soát hay ảnh hưởng
được lưu ý đến khi cần xác định xem họ đã cố gắng hết sức để có được quyền đó không.
Nếu người ký hợp đồng có sự kiểm soát thực sự đối với người sở hữu và không
giành được từ người sở hữu quyền đó, thì điều đó sẽ được tính đến trong việc
xác định tư cách của người ký hợp đồng, khi họ đưa một đơn mới xin chuẩn y một
kế hoạch làm việc.
d) Nếu Xí nghiệp yêu cầu, thì tạo điều
kiện dẽ dàng để Xí nghiệp có được mọi kỹ thuật nói ở điểm b, qua các thỏa thuận
về giấy phép hoặc các dàn xếp thích hợp khác, theo các thể thức và điều kiện
thương mại công bằng và hợp lý, trong trường hợp mà Xí nghiệp quyết định sẽ
thương lượng trực tiếp với người sỡ hữu kỹ thuật nói trên:
e) Áp dụng cũng các quy định như các quy
định đã ghi ở điểm a, b, c và d đối với một quốc gia hay một nhóm quốc gia đang
phát triển đang xin ký kết một hợp đồng theo Điều 9 của phụ lục này, với điều
kiện là: các điều quy định này giới hạn ở việc khai thác phần của khu vực mà
người ký kết hợp đồng đề nghị đã được dành riêng theo Điều 8 của phụ lục này;
các hoạt động được trù định trong hợp đồng mà quốc gia hay nhóm quốc gia đang
phát triển đang ký kết không dẫn đến việc chuyên giao kỹ thuật vì lợi ích của
một quốc gia thứ ba hay của các công dân của một quốc gia thứ ba. Nghĩa vị do
điều quy định này trù định chỉ áp dụng đối với các người ký hợp đồng có những
kỹ thuật không phải là đối tượng của một yêu cầu chuyển gia cho Xí nghiệp.
4. Các tranh chấp liên quan đến các cam
kết đòi hỏi ở khoản 3, cũng như những tranh chấp liên quan đến các điều khoản
khác của hợp đồng, thuộc phạm vi của giải quyết tranh chấp có tính chất bắt
buộc được trừ định trong Phần XI, và việc không tôn trọng các cam kết này có
thể bị phạt tiền và bị đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng, theo đúng Điều 18 của Phụ
lục này. Các tranh chấp về vấn đề xét xem các đề nghị của người ký kết hợp đồng
có bao hàm các thể thức và điều kiện thương mại công bằng và hợp lý không, có
thể được một trong các bên nào đó đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài
thương mại có tính chất bắt buộc được trù định trong bản Quy tắc trọng tài của
CNUDCI hay theo bất kỳ thủ tục trọng tài nào khác được quy định trong quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. Nếu trọng tài đi đến kết luận phủ
đình về vấn đề đó, thì người ký kết hợp đồng có được 45 ngày để sửa đổi đề nghị
của mình nhằm làm cho nó bao gồm các thể thức và điều kiện thương mại công bằng
theo Điều 18 của Phụ lục này.
5. Nếu Xí nghiệp không có khả năng có
được các kỹ thuật thích hợp theo các thể thức và điều kiện thương mại công
bằng, hợp lý để Xí nghiệp thực hiện đúng lúc việc khai thác và chế biến các
khoáng sản của Vùng, thì Hội đồng và Đại hội đồng có thể triệu tập một nhóm các
quốc gia thành viên, bao gồm các quốc gia tiến hành các hoạt động như vậy trong
Vùng và các quốc gia khác nắm được những kỹ thuật này. Sau khi đã thảo luận,
nhóm này thi hành các biện pháp có hiệu quả cao sao cho Xí nghiệp được sử dụng
các kỹ thuật này theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng hợp lý.
Mỗi quốc gia thành viên trên sẽ thi hành tất cả mọi biện pháp thực tế thực hiện
mục đích đó, trong khuôn khổ chế độ pháp luật của mình.
6. Trong trường hợp các công ty liên
doanh với Xí nghiệp, việc chuyển giao các kỹ thuật được tiến hành theo đúng vơi
thỏa thuận về các công ty liên doanh đó.
7. Các cam kết đòi hỏi ở khoản 3 được
ghi vào mỗi hợp đồng về các hoạt động trong Vùng đến hết một thời hạn 10 năm, sau
khi Xí nghiệp bắt đầu việc sản xuất hàng hóa và có thể được viện dẫn trong thời
hạn này.
8. Trong điều này, thuật ngữ “kỹ thuật”
dùng để chit thiết bị chuyên dụng và bí quyết kỹ thuật, kể cả các bản mô tả, sổ
tay, tài liệu hướng dẫn, việc đào tạo, các hướng dẫn về kỹ thuật và việc giúp
đỡ kỹ thuật cần thiết để lắp đặt, bảo dưỡng và vận hành một hệ thống có thể
đứng vững được, cũng như, quyền sử dụng các yếu tố nói trên vào mục đích này
trên cơ sở không có tính chất đặc quyền.
ĐIỀU
6. Việc chuẩn y các kế hoạch làm việc
1. Sáu tháng sau khi Công ước có hiệu
lực, Cơ quan quyền lực sẽ tiến hành xem xét các kế hoạch làm việc đã được đề
nghị, sau đó cứ bốn tháng lại xét một lần.
2. Khi xem xét một đơn xin chuẩn y một
kế hoạch làm việc dưới hình thức một hợp đồng, trước hết, Cơ quan quyền lực
phải xác định:
a) Xem người yêu cầu có tuân theo các
thủ tục đệ đơn yêu cầu nói trong Điều 4 của Phụ lục này không, xem người yêu
cầu có cam kết và có những đảm bảo đối với Cơ quan quyền lực theo đòi hỏi của
điều này không. Nếu các thủ tục này không được tuân thủ, hoặc thiếu một trong
những cam kết và đảm bảo nào đó nêu trên, Cơ quan quyền lực cho người yêu cầu
một thời hạn là 45 ngày để sửa chữa các thiếu sót đó;
b) Xem người yêu cầu có đủ tư cách theo
tinh thần của Điều 4 của phụ lục này không.
3. Tất cả các kế hoạch làm việc đã đề
nghị đều được xem xét theo thứ tự tiếp nhận. Các kế hoạch làm việc đã đề nghị
phải phù hợp và tôn trọng các điều quy định tương ứng của Công ước cũng như các
quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, kể cả các điều kiện liên
quan đến các nghiệp vụ, những đóng góp tài chính và những cam kết về việc
chuyển giao kỹ thuật. Cơ quan quyền lực chuẩn y những kế hoạch làm việc được đề
nghị phù hợp với các điều quy định này, với điều kiện là chúng cũng phù hợp với
những điều kiện như nhau và không phân biệt đối xử nói trong các quy tắc, quy
định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi:
a) Một phần hay toàn bộ vùng mà kế hoạch
làm việc được đề nghị nhắm vào nằm trong một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y
hay trong một kế hoạch làm việc đã được đề nghị trước mà Cơ quan quyền lực còn
chưa có quyết định cuối cùng;
b) Việc khai thác một phần hay toàn bộ
Vùng mà kế hoạch làm việc được đề nghị nhắm vào đã bị Cơ quan quyền lực bác bỏ
theo Điều 162, khoản 2, điểm x; hay
i. Quốc gia đã được chuẩn y các kế hoạch
làm việc liên quan đến việc thăm dò và khai thác các vỉa quặng khối đa kim
trong những khu vực không được dành riêng; khi diện tích của chúng, cộng thêm
với diện tích của phần này hay phần khác của Vùng mà kế hoạch làm việc được đề
nghị nhắm vào, sẽ vượt quá 30% diện tích của một vùng hình tròn có diện tích
400.000 km2 được xác định từ tâm của phần này hay một phần khác của vùng nói
trong kế hoạch làm việc được đề nghị;
ii. Quốc gia đã được chuẩn y các kế
hoạch làm việc liên quan đến việc thăm dò và khai thác các vỉa quặng khối đa
kim trong các khu vực không được dành riêng có diện tích toàn bộ bằng 2% tổng
diện tích của Vùng chưa được dành riêng và việc khai thác chưa bị loại trừ theo
Điều 162, khoản 2, điểm x.
4. Để áp dụng quy tắc đã nêu ở khoản 3,
điểm c, một kế hoạch làm việc do một công ty hay một công – xoóc – om đề nghị
phải được khấu theo tỷ lệ vào các quốc gia thành viên bảo trợ cho công ty hay
công – xoóc – om theo đúng Điều 4 khoản 3 của phụ lục này. Cơ quan quyền lực có
thể chuẩn y các kế hoạch làm việc do khoản 3, điểm c điều chỉnh, nếu Cơ quan
quyền lực xác minh được rằng, việc chuẩn y này không cho phép một quốc gia
thành viên hay các thực thẻ hoặc quyền về các hoạt động trong Vùng hay cản trở
các quốc gia thành viên khác tiến hành các hoạt động trong Vùng.
5. Mặc dù đã có khoản 3, điểm a, sau khi
kết thúc giai đoạn quá độ nói ở điều 151, khoản 3, Cơ quan quyền lực có thể dựa
vào các quy tắc, quy định và thủ tục để thông qua các thủ tục và tiêu chuẩn
khác phù hợp với Công ước, để xác định trong số các người đệ trình các kế hoạch
làm việc đối với một vùng nào đó, kế hoạch của ai sẽ được chuẩn y trong trường
hợp cần có sự lựa chọn. Các thủ tục và tiêu chuẩn này phải đảm bảo cho việc
chuẩn y các kế hoạch làm việc trên một cơ sở công bằng và không phân biệt đối
xử.
ĐIỀU
7. Sự lựa chọn giữa những người xin cấp giấy phép sản xuất
1. Sáu tháng sau khi Công ước có hiệu
lực, sau đó cứ 4 tháng một, Cơ quan quyền lực xem xét các đơn xin cấp giấy phép
sản xuất đã gửi tới trong thời kỳ trước đó. Nếu tất cả các đơn yêu cầu này có
thể được chuẩn y mà không làm cho các giới hạn sản lượng bị vượt quá và không
làm cho Cơ quan quyền lực vi phạm những nghĩa vụ mà mình phải bảo đảm theo một
hiệp định, hay một thỏa thuận về sản phẩm mà Cơ quan quyền lực là thành viên,
như đã trù định ở Điều 151, thì Cơ quan quyền lực cấp các giấy phép đã được yêu
cầu.
2. Khi một sự lựa chọn cần phải được
tiến hành giữa những người xin cấp giấy phép sản xuất do vấn đề giới hạn sản lượng
đươc trù định ở Điều 151, các khoản từ 2 đến 7, hoặc do các nghĩa vụ thuộc bổn
phận của Cơ quan quyền lực theo một hiệp định hay một thỏa thuận về sản phẩm,
trong đó Cơ quan quyền lực là thành viên như đã được trù định ở Điều 151, khoản
1, thì Cơ quan quyền lực tiến hành việc lựa chọn này dựa trên cơ sở các tiêu
chuẩn khách quan và không phân biệt đối xử đã được ấn định trong các quy tắc
quy định và thủ tục của mình.
3. Trong việc áp dụng khoản 2, Cơ quan
quyền lực dành ưu tiên cho những người yêu cầu:
a) Đưa ra những bảo đảm tốt nhất về hiệu
quả theo khả năng tài chính kỹ thuật của họ, và theo cách thức mà họ thực hiện
các kế hoạch làm việc đã được chuẩn y trước, nếu như có các kế hoạch đó;
b) Cho cơ quan quyền lực thấy triển vọng
có các khoản thu tài chính nhanh hơn, tính theo thời hạn trù định để bắt đầu
việc sản xuất hàng hóa;
c) Đã đầu tư nhiều nhất về vốn liếng và
công sức trong việc kháp sát và thăm dò.
4. Những người yêu cầu nào không được
lựa chọn trong một thời kỳ nào đó; thì được ưu tiên trong thời kỳ sau cho đến
lúc được cấp một giấy phép sản xuất.
5. Việc lựa chọn được tiến hành có tính
đến sự cần thiết phải tạo cho tất cả các quốc gia thành viên có được khả năng
để tham gia tốt nhất vào các hoạt động trong Vùng và sự cần thiết tránh độc
quyền hóa các hoạt động này không phụ thuộc vào chế độ kinh tế và xã hội của
các quốc gia đó hay vị trí địa lý của họ nhằm đảm bảo không có sự phân biệt đối
xử với bất cứ quốc gia hay chế độ nào.
6. Mỗi khi trong hiện tình khai thác, có
khu vực được dành riêng hơn khu vực không dành riêng, thì các đơn xin phép liên
quan đến các khu vực dành riêng được ưu tiên.
7. Cơ quan quyền lực ra các quyết định
nói ở điều này càng sớm, càng tốt, sau khi kết thúc mỗi thời kỳ.
ĐIỀU
8. Việc dành riêng các khu vực
Mỗi đơn yêu cầu, không phải là các đơn
yêu cầu của các Xí nghiệp hay của cả các thực thể hay cá nhân khác và về các
khu vực dành riêng, cần phải bao gồm một khu vực, không nhất thiết phải liền
một mạch, có tổng diện tích và một giá trị thương mại ước tính đủ để cho phép
tiến hành hai hoạt động khai thác mỏ. Người yêu cầu chỉ rõ các tọa độ cho phép
chia khu vực làm hai phần có giá trị thương mại ước tính bằng nhau và thông báo
tất cả các số liệu mà mình thu được đối với hai phần của khu vực. Không phương
hại đến các quyền hạn của Cơ quan quyền lực có liên quan đến các khối đa kim và
các kim loại trong khối đó. Trong vòng 45 ngày tiếp sau khi nhận được các số
liệu này, Cơ quan quyền lực sẽ tiến hành thông qua Xí nghiệp hay hợp tác với
các quốc gai đang phát triển. Sự chỉ định này có thể kéo dài thêm 45 ngày nữa,
nếu Cơ quan quyền lực trao cho một chuyên gia độc lập xác định xem tất cả các
số liệu mà điều này đòi hỏi có được thông báo cho Cơ quan quyền lực không. Khu
vực được chỉ định trở thành một khu vực được dành riêng ngay khi kế hoạch làm
việc liên quan đến khu vực không được dành riêng được chuẩn y và hợp đồng được
ký kết.
ĐIỀU
9. Các hoạt động được tiến hành trong khu vực được dành riêng
1. Xí nghiệp được quyền quyết định có tự
mình tiến hành các hoạt động trong mỗi khu vực dành riêng hay không. Quyết định
này có thể được đưa ra bất kỳ thời điểm nào, trừ khi Cơ quan quyền lực nhận
được một thông báo theo đúng khoản 4, trong trường hợp này, xí nghiệp phải ra
quyết định trong một thời hạn hợp lý. Xí nghiệp có thể quyết định tiến hành
khai thác các khu vực này , với danh nghĩa của các xí nghiệp liên doanh với
quốc gia hoặc thực thể hay cá nhân hữu quan.
2. Xí nghiệp có thể ký kết các hợp đồng
để thi hành một phần các hoạt động của mình theo đúng Điều 12 của Phụ lục IV.
Để tiến hành các hoạt động này, xí nghiệp cũng có thể hợp tác trong các xí
nghiệp liên doanh với bất kỳ thực thể hay cá nhân nào có tư cách tiến hành các
hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm b. Khi dự tính đến các xí
nghiệp liên doanh thuộc loại này, xí nghiệp tạo cho các quốc gia thành viên là
những quốc gia đang phát triển, cũng như các công dân của các quốc gia này có
được khả năng tham gia thực sự.
3. Trong các quy tắc, quy định và thủ
tục của mình, cơ quan quyền lực có thể quy định các điều kiện về nội dung và về
thủ tục điều chỉnh các hợp đồng và xí nghiệp liên doanh kể trên.
4. Bất kỳ quốc gia thành viên nào là
quốc gia đang phát triển, hoặc bất kỳ tự nhiên nhân hay pháp nhân nào do quôc
gia này bảo trợ và do quốc gia này hay một quốc gia đang phát triển khác kiểm
soát thật sự, là một người yêu cầu có tư cách, hoặc mọi nhóm của các loại nói
trên, đều có thể thông báo cho cơ quan quyền lực ý muốn của mình đưa ra một kế
hoạch làm việc đối với khu vực được dành riêng theo Điều 6 của Phụ lục này. Kế
hoạch làm việc được xem xét, nếu xí nghiệp quyết định theo khoản 1, không tiến
hành hoạt động trong khu vực này.
ĐIỀU
10. Ưu đãi và ưu tiên dành cho một số yêu cầu
Khi mà theo điều 3, khoản 4, điểm c của
phụ lục này, một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y chỉ để thăm dò, thì người
đưa ra kế hoạch đó sẽ được ưu tiên ưu đãi hơn so nới các người yêu cầu khác,
nếu người yêu cầu ấy đưa ra một kế hoạch làm việc về vấn đề khai thác cùng khu
vực đó đối với cùng những tài nguyên ấy. Tuy nhiên, quyền ưu tiên, ưu đãi thuộc
loại này có thể bị rút trong trường hợp mà người khai thác nói trên, đã không
thực hiện tốt kế hoạch làm việc.
ĐIỀU
11. Các thỏa thuận liên doanh
1. Các hợp đồng có thể trù định các thảo
thuận liên doanh giữa người ký kết và cơ quan quyền lực, hoạt động thông qua xí
nghiệp, dưới hình thức xí nghiệp liên doanh hay chia sản lượng, cũng như mọi
hình thức thỏa thuận liên doanh khác: các thỏa thuận này cũng được hưởng sự bảo
hộ về vấn đề sửa đổi, đình chỉ hay hủy bỏ như các hợp đồng ký kết với cơ quan quyền
lực.
2. Những người ký kết hợp đồng đã ký với
xí nghiệp các thỏa thuận liên doanh như vậy, có thể được hưởng những kích thích
về tài chính được trù định trong Điều 13 của phụ lục này.
3. Các bên cùng hợp tác với xí nghiệp
trong một xí nghiệp liên doanh phải đóng góp như đã quy định ở Điều 13 của phụ
lục này theo prorata ( tỷ lệ) tham gia của họ vào xí nghiệp liên doanh, có tính
đến các kích thích về tài chính được trù định trong điều này.
ĐIỀU
12. Các hoạt động do xí nghiệp tiến hành
1. Các hoạt động do Xí nghiệp tiến hành
trong vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a do Phần XI, các quy tắc, quy định và
thủ tục của Cơ quan quyền lực điều chỉnh.
2. Mọi kế hoạch làm việc do xí nghiệp đề
nghị cần phải có các tài liệu chứng minh khả năng tài chính và kỷ luật của kế
hoạch đó.
ĐIỀU
13. Các điều khoản tài chính của các hợp đồng
1. Khi thông qua các quy tắc, quy định
và thủ tục liên quan đến các điều khoản tài chính của các hợp đồng giữa cơ quan
quyền lực và các thực thể hay cá nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b và khi
thương lượng các điều khoản tài chính của một hợp đồng như thế theo đúng Phần
XI và các quy tắc, quy định và thủ tục đó, cơ quan quyền lực nhằm các mục tiêu
sau đây:
a) Bảo đảm mức thu nhập tối đa tự việc
sản xuất hàng hóa;
b) Bảo đảm sao cho các khoản vốn đầu tư
và các kỹ thuật thích hợp được dành cho việc thăm dò và khai thác các tài
nguyên của vùng;
c) Bảo đảm sao cho các người ký kết được
đối xử bình đẳng về mặt tài chính và có những nghĩa vụ tài chính tương đương;
d) Cung cấp các kích thích trên cơ sở
đồng đều và không phân biệt đối xử để khuyến khích các người ký kết hợp đồng ký
các thỏa thuận liên doanh với xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển hay các
công dân của quốc gia này, động viên việc chuyển giao các kỹ thuật cho xí
nghiệp, cho các quốc gia đang phát triển hay cho các công dân của quốc gia này
và đào tạo nhân viên của cơ quan quyền lực và của các quốc gia đang phát triển;
e) Cho phép xí nghiệp tiến hành khai
thác các tài nguyên đồng thời với các thực thể hay cá nhân nói ở điều 153,
khoản 2, điểm b;
f) Tránh tình trạng do những kích thích
tài chính dành cho những người ký kết hợp đồng theo khoản 14 hay theo các điều
khoản của hợp đồng đã được xét lại theo đúng Điều 19 của phụ lục này, hoặc còn
theo Điều 11 của cùng phụ lục này liên quan đến các xí nghiệp liên doanh mà các
người ký kết hợp đồng được trợ cấp đến mức họ có được lợi thế một cách giả tạo
trong cuộc cạnh tranh với những người khai thác các vỉa quặng ở đất liền.
2. Thu một khoản lệ phí là 500.000 đô la
Mỹ theo một đơn yêu cầu để đảm bảo các khoản chi hành chính có liên quan đến
việc nghiên cứu các đơn yêu cầu chấp thuân các kế hoạch làm việc dưới hình thức
hợp đồng. Số tiền của khoản lệ phí được hội đồng xét lại từng thời kỳ, để bảo
đảm được các khoản chi hành chính cần thiết. Nếu các khoản chi của cơ quan
quyền lực để nghiên cứu một đơn yêu cầu thấp hơn số tiền đã ấn định, thì cơ
quan quyền lực hoàn lại khoản chênh lệch cho người yêu cầu.
3. Bên ký kết hợp đồng nộp một khoản
thuế hằng năm cố định làm 1.000.000 đô la Mỹ kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực.
Nếu thời gian đã được chuẩn y để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa bị lùi lại do
co sự chậm trễ trong việc cấp phát giấy phép sản xuất theo đúng Điều 151, thì
bên ký kết được miễn một phần khoản thuế hằng năm cố định tương đương với thời
hạn kéo dài. Ngay khi bắt đầu sản xuất hàng hóa, người ký kết hợp đồng phải nộp
hoặc khoản tiền thuế đánh trên sản lượng hoặc khoản thuế hàng năm cố định, nếu
khoản thuế này cao hơn.
4. Trong thời hạn một năm kể từ khi bắt
đầu việc sản xuất hàng hóa, theo đúng khoản 3, người ký kết hợp đồng lựa chọn
các hành thức sau đây để đóng góp tài chính cho cơ quan quyền lực:
a) Hoặc chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh
trên sản lượng;
b) Hoặc chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh
trên sản lượng và nộp một phần các thu nhập thuần túy của mình.
5. a) Nếu bên ký kết lựa chọn viêc đóng
góp tài chính của mình cho cơ quan quyền lực bằng cách chỉ nộp một khoản tiền
thuế đánh trên sản lượng, thì số tiền thuế này được tính bằng một tỉ lệ phần
trăn giá trị hành hóa của các kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai
thác trong khu vực nói trong hợp đồng, tỷ lệ phần trăm được quy định như sau:
i. 5% từ năm sản xuất hàng hóa thứ nhất
đến năm thứ mười;
ii. 12% từ năm sản xuất thứ mười một đến
khi kết thúc thời kỳ sản xuất hàng hóa.
b) Giá trị hàng hóa của các kim loại
tinh chế được tính toán bằng cách nhân số lượng kim loại tinh chế từ các khối
đa kim được khai thác trong khu vực nói trong hợp đồng với giá trung bình của
các kim loại này trong tài khóa được xem xét, được xác định theo đúng các khoản
7 và 8.
6. Nếu bên ký kết chọn việc đóng góp tài
chính cho cơ quan quyền lực bằng cách nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản
lượng và nộp một phần thu nhập thuần túy của mình, thì tổng số tiền của những
khoản đóng góp này được xác định như sau:
i. 2% cho thời kỳ sản xuất hàng hóa đầu
tiên. ii. 4% cho thời kỳ sản xuất hàng hóa thứ hai.
Trong thời kỳ sản xuất hàng hóa thứ hai,
như đã xác định ở điểm d, nếu hiệu suất đầu tư trong một tài khóa nào đó, theo
định nghĩa ghi ở điểm m, dưới 15%, do phải nộp khoản tiền thuế đánh trên sản
lượng với tỷ lệ 4%, thì tỷ lệ tiền thuế đánh trên sản lượng được ấn định là 2%
trong tài khóa này;
b) Giá trị hàng hóa của các kim loại
tinh chế được tính toán bằng cách nhân số lượng kim loại tinh chế từ các khối
đa kim được khai thác trong khu vực nói trong hợp đồng với giá trung bình của
các kim loại này, được xác định trong tài khóa được xem xét, theo đúng các
khoản 7 và 8;
c) i. Phần các thu nhập thuộc về cơ quan
quyền lực được trích trong phần thu nhập thuần túy của người ký kết hợp đồng có
thể khấu trừ vào các hoạt động khai thác tài nguyên của khu vực theo hợp đồng;
sau đây gọi là thu nhập thuần túy có thể khấu vào;
ii. Phần thu nhập thuần túy có thể khấu
vào thuộc về cơ quan quyền lực được xác định theo barem lũy tiến sau:
Phần thu nhập thuần túy có thể khấu
vào |
Phần thu nhập thuần túy có thể khấu
vào thuộc về Cơ quan quyền lực |
|
Thời kì sản xuất hàn hóa thứ nhât |
Thời kì sản xuất hàn hóa thứ hai |
|
Phần trích trong trường hợp hiệu quả
vốn đầu tư cao hơn 0% nhưng dưới 10% |
35% |
40% |
Phần trích trong trường hợp hiệu quả
vốn đầu tư bằng hoặc cao hơn 10% nhưng dưới 20% |
42.5% |
50% |
Phần trích trong trường hợp hiệu quả
vốn đầu tư bằng hoặc cao hơn 20% |
50% |
70% |
d) i. Thời kì sản xuất hàng hóa đầu tiên
nói ở các điểm a và c bắt đầu vào tài khóa đầu tiên của thời kì sản xuất hàng
hóa và kết thúc vào tài khóa khi mà các chi phí phục vụ khai thác (despeenses
de mise en valeur) của người kí kết hợp đồng đã được điều chỉnh, có tính đến
khoản tiền lãi thuộc phần chưa khấu hao của các khoản chi phí trước đây, được
khấu hao hoàn toàn nhờ vào số dư thực tế như được nói rõ sau đây: đối với tài
khóa đầu tiên phát sinh ra các khoản chi phí phục vụ khai thác, những khoản chi
phí phục vụ khai thác không được khấu hao là những khoản chi phí phục vụ khai
thác đã khấu trừ đi số dư thực tế trong tài khóa được xem xét. Đối với mỗi tài
khóa tiếp sau, các khoản chi phí phục vụ khai thác không được khấu hao, được
tính bằng cách cộng thêm vào các khoản chi phí phục vụ khai thác không được
khấu hao cuối tài khóa trước, cùng với một tài khoản lãi hàng năm là 10%, các
khoản chi phí phục vụ khai thác trong tài khóa hiện hành và bằng cách lấy tổng
số tiền này trừ đi số dư thực tế của người kí kết hợp đồng cho tài khóa đó. Tài
khóa mà các chi phí phục vụ khai thác cộng thêm tiền lãi thuộc phần không được
khấu hao của các khoản chi phí này, được khấu hao hoàn toàn là tài khóa đầu
tiên mà các chi phí phục vụ khai thác bằng không; số dư thực tế của người kí
kết hợp đồng đối với mọi tài khóa là tổng thu nhập của họ trừ đi các phí tổn về
khai thác và các khoản phải nộp cho cơ quan quyền lực theo đúng điểm c.
ii. Thời kì sản xuất hàng hóa thứ hai
bắt đầu vào tài khóa được tính từ khi kết thức thời kì thứ nhất và kéo dài cho
đến khi kết thúc hợp đồng;
e) Thuật ngữ “thu nhập thuần túy có thể khấu vào” (recettes nettes imputables)
nghĩa là các thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng nhân với tỉ số giữa
các khoản chi phí phục vụ khai thác gắn với việc khai thác khoáng sản và tổng
số các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng. Khi mà các hoạt
động của người kí kết hợp đồng nhằm vào việc khai thác và vận chuyển các khối
đa kim, cũng như vào việc sản xuất hàng hóa, chủ yếu là ba kim loại tinh chất
như coban, đồng, kền, thì số tiền thu nhập thuần túy có thể khấu vào của người
kí kết hợp đồng không thể dưới 25% thu nhập thuần túy của người đó. Với điều
kiện phải tuần thủ các thể thức đã nêu ở điểm n, trong tất cả các trường hợp
khác, kể cả trường hợp mà các hoạt động của người kí kết hợp đồng nhằm vào việc
khai thác, vận chuyển các khối đa kim và vào việc sản xuất hàng hóa bốn kim
loại tinh chế như coban, đồng, mangan và kền, cơ quan quyền lực có thể định ra
trong các quy tắc, quy định và thủ tục của mình các tỉ lệ tối thiểu thích hợp
bằng cách áp dụng cũng các công thức tỉ lệ như khi ấn định tỉ lệ tối thiểu 25%
được quy định trong trường hợp của ba kim loại;
f) Thuật ngữ “các thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng” là tổng thu nhập
của người kí kết hợp đồng, đã trừ các phí tổn về khai thác và khoản dùng để
khấu hao các chi phí phục vụ khai thác của người đó theo các thể thức đã được
trù định ở điểm j;
g) i. Nếu các hoạt động của người kí kết
hợp đồng nhằm vào việc khai thác, vận chuyển các khối đa kim và sản xuất hàng
hóa các kim loại tinh thể, thuật ngữ “tổng
thu nhập của người ký kết hợp đồng” là tổng số tiền thu nhập bán các kim
loại tinh chế và mọi khoản thu khác được coi như có thể tính một cách hợp lý
vào các nghiệp vụ đươc thực hiện theo hợp đồng, theo đúng các quy tắc, quy định
và thử tục tài chính của cơ quan quyền lực;
ii. Trong tất cả các trường hợp, ngoài
những trường hợp đã nói rõ ở điểm g,i và điểm n,iii, thuật ngữ “tổng thu nhập
của người kí kết hợp đồng” là tổng số tiền thu nhập của việc bán các kim loại
sơ chế từ khối đa kim khai thác trong khu vực nói trong hợp đồng và tất cả các
khoản thu khác được coi như có thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ thực
hiện theo hợp đồng, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ
quan quyền lực;
h) Thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng” nghĩa là:
i. Tất cả các khoản chi trước khi bắt
đầu việc sản xuất hàng hóa, trực tiếp gắn với sự phát triển khả năng sản xuất
của khu vực nói trong hợp đồng và với các hoạt động có liên quan, dưới danh
nghĩa các nghiệp vụ trù định trong hợp đồng trong mọi trường hợp khác, ngoài
những trường hợp được định rõ ở điểm n, theo đúng các nguyên tắc kế toán được
thừa nhận chung, bao gồm cả những chi phí về thiết bị, mua sắm công cụ, tàu
thuyền, thiết bị chế biến, các chi phí liên quan đến các công trình xây dựng,
mua sắm nhà cửa, đất đai và tất cả các chi phí liên quan đến việc xây dựng
đường sá, thăm dò và khảo sát khu vực nói trong hợp đồng, đến việc nghiên cứu –
phát triển, đến tiền lãi, tiền thuê bất thường, các giấy phép, các khoản tiền
thuế; và
ii. Các chi phí giống như chi phí đã nêu
ở điểm n,i thực hiện sau khi bắt đầu việc sản xuất hàng hóa để có thể thực hiện
kế hoạch làm việc, không tính đến các khoản thuộc về phí tổn khai thác;
i) Các khoản thu từ việc chuyển nhượng
các trang thiết bị và giá trị hàng hóa của các trang thiết bị không còn cần
thiết nữa đối với các nghiệp vụ được trù định trong hợp đồng mà không đem bán,
được trù khỏi các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng trong tài
khóa được xem xét. Khi các khoản phải trừ này vượt quá số tiền chi phí phục vụ
khai thác, thì số dư được cộng thêm vào tổng thu nhập;
j) Các chi phí phục vụ khai thác của
người kí kết hợp đồng trước khi bắt đầu sản xuất hàng hóa nói ở điểm h,i. và
điểm n,i. hàng năm được khấu trừ làm mười đợt bằng nhau kể từ ngày bắt đầu sản
xuất hàng hóa. Các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng nói ở
điểm h,ii và điểm n,iv sau khi bắt đầu sản xuất hàng hóa, hàng năm được khấu
trừ thành mười đợt bằng nhau hay bằng một số đợt bằng nhau hàng năm ít hơn, sao
cho các chi phí này hoàn toàn được khấu trừ khi hợp đồng hết hạn;
k) Thuật ngữ “phí tổn khai thác của người kí kết hợp đồng” nghĩa là tất cả các
khoản chi phí đã phát sinh sau khí bắt đầu việc sản xuất hàng hóa để khai thác
khả năng sản xuất theo khu vực theo hợp đồng và chi cho các hoạt động có liên
quan theo danh nghĩa các nghiệp vụ được trù định trong hợp đồng, theo đúng các
nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung, nhất là kể cả khoản tiền thuế đánh
trên sản lượng hay khoản tiền thuế cố định hàng năm, nếu khoản tiền thuế này
cao hơn, các chi phí liên quan đến tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp
liên quan, các công cụ, dịch vụ, vận tải, chế biết và tiêu thụ, tiền lãi, công
trình công cộng, việc giữ gìn môi trường biển, đến chi phí quản lý chung và chi
phí hành chính trực tiếp gắn liền với các nghiệp vụ được trù định trong hợp
đồng, cũng như bất kì thiếu hụt nào trong việc khai thác được chuyển sổ theo
một trong hai hướng sau đây: Sự thiếu hụt trong việc khai thác có thể được chuyển
sổ hai lần liên tiếp, từ tài khóa này sang tài khóa khác, trừ hai năm cuối cùng
của hợp đồng, thì có thể được chuyển trở lại vào hai tài khóa trước đó;
l) Nếu người kí kết hợp đồng bảo đảm chủ
yếu việc khai thác, vận chuyển các khối đa kim và sản xuất hàng hóa các kim
loại đã tinh chế và sơ chế thì thuật ngữ “chi
phí phục vụ khai thác gắn với việc khai thác khoáng sản” nghĩa là phần chi
phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng trực tiếp gắn với việc khai
thác các tài nguyên của khu vực nói trong hợp đồng, theo đúng các nguyên tắc kế
toán được thừa nhận chung và các quy tắc quản lý tài chính, cũng như các quy
tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ quan quyền lực, kể cả số lệ phí phải
nộp cho việc nghiên cứu đơn xin ký hợp đồng, số tiền thuế cố định hàng năm và,
nếu có, cả các chi phí đã phát sinh về khảo sát và thăm dò khu vực nói trong
hợp đồng, và một phần của các chi phí nghiên cứu – phát triển;
m) Thuật ngữ “hiệu suất vốn đầu tư” đối với một tài khóa nào đó, là tỉ số giữa
thu nhập thuần túy có thể khấu vào của tài khóa này và các chi phí phục vụ khai
thác gắn liền với việc khai thác khoáng sản. Trong việc tính toán tỉ số này,
các chi phí phục vụ khai thác gắn liền với việc khai thác khoáng sản là các chi
phí được dùng để mua sắm công cụ mới hay để thay thế công cụ được sử dụng vào
các hoạt động khai thác khoáng sản, đã trừ đi giá ban đầu của công cụ được thay
thế;
n) Nếu người kí kết hợp đồng chỉ khai
thác khoáng sản thì:
i. Thuật ngữ “thu nhập thuần túy có thể
khấu vào” có nghĩa là tổng thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng;
ii. Thuật ngữ “thu nhập thuần túy của
người kí kết hợp đồng” có nghĩa như đã được ghi trong điểm f;
iii. Thuật ngữ “tổng thu nhập của người
kí kết hợp đồng” có nghĩa là toàn bộ thu nhập bán các khối đa kim và tất cả các
khoản thu khác được coi như có thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ được
thực hiện theo danh nghĩa của hợp đồng, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ
tục tài chính của cơ quan quyền lực;
iv. Thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác
của người kí kết hợp đồng” có nghĩa là tất cả các chi phí đã phát sinh trước
khi bắt đầu việc sản xuất hàng hóa như đã được chỉ rõ tại điểm h,i. và tất cả
các chi phí đã phát sinh sau khi bắt đầu sản xuất hàng hóa như đã được chỉ rõ ở
điểm h,ii.; những chi phí này trực tiếp gắn với việc khai thác các tài nguyên
của khu vực nói trong hợp đồng được tính toán theo đúng các quy tắc kế toán
được chấp nhận chung;
v. Thuật ngữ “phí tổn khai thác của
người kí kết hợp đồng” có nghĩa là những tổn phí khai thác của người kí kết hợp
đồng đã được nêu ở điểm k, trực tiếp gắn liền với việc khai thác các tài nguyên
của khu vực nói trong hợp đồng được tính toán theo đúng các nguyên tắc kế toán
được chấp nhận chung;
vi. Thuật ngữ “hiệu suất vốn đầu tư” của
một tài khóa nào đó là tỷ số giữa những khoản thu nhập thuần túy tài khóa này
và những chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng. Trong việc tính
tỉ số này, các chi phí phục vụ khai thác là các chi phí đã phát sinh về mua sắm
công vụ mới hay về thay thế công cụ, đã trừ đi giá ban đầu của công cụ được
thay thế;
o) Việc hoàn thành các chi phí liên quan
đến việc chi trả lãi của người kí kết hợp đồng đã nói ở các điểm h, k, l và n
được phép thực hiện trong phạm vi mà ở mọi trường hợp, Cơ quan quyền lực, theo
đúng Điều 4, khoản 1 của Phụ lục này, thừa nhận rằng tỉ số giữa vốn công ty và
nợ cũng như các lãi suất là hợp lý, có tính đến các thủ tục thương mại hiện
hành;
p) Các chi phí đã nói trong đoạn này
không bao gồm các món tiền đã trả dưới danh nghĩa thuế đánh vào các công ty hay
các lệ phí tương tự, do các quốc gia thu vào các nghiệp vụ của người kí hợp
đồng.
7. a) Thuật ngữ “kim loại tinh chế” đã
được dùng ở khoản 5 và khoản 6 có nghĩa là những kim loại ở dưới dạng thông
dụng nhất thường được trao đổi trên thị trường quốc tế cuối cùng. Để thực hiện
điểm này, cơ quan quyền lực phải chỉ rõ trong các quy tắc, quy định và thủ tục
tài chính các thị trường quốc tế cuối cùng thích hợp. Đối với các kim loại
không được trao đổi trên các thị trường quốc tế này, thì thuật ngữ “kim loại
tinh chế” có nghĩa là những kim loại dưới dạng thông dụng nhất thường được trao
đổi trong khuôn khổ các giao dịch thông thường phù hợp với các nguyên tắc kinh
doanh độc lập.
b) Nếu Cơ quan quyền lực không thể xác
định bằng một cách nào khác số lượng kim loại tinh chế được sản xuất ra từ
những khối đa kim khai thác trong khu vực theo hợp đồng nói ở khoản 5, điểm b
và ở khoản 6, điểm b thì số lượng này được xác định theo hàm lượng kim loại của
các khối đó theo tỉ suất thu hồi sau khi đã tinh chế và các yếu tố thích hợp khác,
theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các nguyên
tắc kế toán được thừa nhận chung.
8. Nếu một thị trường quốc tế cuối cùng
đưa ra một cơ chế thích đáng để định giá các kim loại đã được tinh chế, các
khối đa kim và các kim loại sơ chế từ các khối quặng, thì Cơ quan quyền lực sử
dụng giá trung bình ở trên thị trường này. Trong tất cả các trường hợp khác, Cơ
quan quyền lực, sau khi tham khảo ý kiến của người kí kết hợp đồng, định ra một
giá công bằng cho những sản phẩm này theo đúng khoản 9.
9. a) Tất cả mọi phí tổn, mọi khoản chi,
khoản thu, cũng như mọi giá cả và giá trị nói ở điều này được tính theo các
giao dịch phù hợp với những nguyên tắc ở thị trường tự do hoặc kinh doanh độc
lập. Nếu không như vậy, thì Cơ quan quyền lực sẽ xác định, sau khi đã tham khảo
ý kiến của người kí kết hợp đồng, coi như trong các giao dịch phù hợp với các
nguyên tắc của thị trường tự do hoặc kinh doanh, có tính đến các giao dịch
tương ứng ở trên các thị trường khác;
b) Để bảo đảm việc áp dụng và tôn trọng
khoản này, Cơ quan quyền lực dựa theo các nguyên tắc đã được thông quan và dựa
vào việc giải thích đối với các giao dịch phù hợp với nguyên tắc kinh doanh độc
lập của Ủy bản thuộc Liên hợp quốc về các xí nghiệp xuyên quốc gia
(tranonationales) của nhóm chuyên gia về các Công ước thuế khóa giữa các nước
phát triển và các nước đang phát triển và của các tổ chức quốc tế khác, và Cơ
quan quyền lực quy định trong các quy tắc, quy định và các thủ tục khác các quy
tắc và thủ tục kế toán thống nhất, có thể chấp nhận được trong phạm vi quốc tế,
cũng như các phương pháp mà người kí kết hợp đồng sẽ phải áp dụng để lựa chọn
các chuyên gia kế toán độc lập đẻ có thể được Cơ quan quyền lực chấp nhân, để
kiểm tra các tài khoản theo đúng các nguyên tắc, quy định và thủ tục này.
10. Người kí kết hợp đồng cung cấp cho
các chuyên gia kế toán theo đúng các nguyên tắc, quy định và thủ tục tài chính
của Cơ quan quyền lực, những số liệu tài chính cần thiết cho phép xác minh rằng
điều này đã được tôn trọng.
11. Tất cả mọi phí tổn, mọi khoản chi,
khoản thu cũng như mọi giá cả và giá trị đã được nêu ở điều này, được xác định
theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung, các quy tắc, quy định,
thủ tục tài chính của Cơ quan quyền lực.
12. Những số tiền phải nộp cho Cơ quan
quyền lực theo các khoản 5 và 6 phải được thanh toán bằng đồng tiền có thể sử
dụng tự do hay bằng các đồng tiền được chuyển đổi tự do và đang được sử dụng
trên những thị trường hối đoái chính hay, theo sự lựa chọn của người kí kết hợp
đồng, dưới hình thức tương đương bằng kim loại đã tinh chế, được tính trên cơ
sở của giá trị hàng hóa.
Giá trị hàng hóa được xác định theo đúng
khoản 5, điểm b, những đồng tiến có thể sử dụng tự do và những đồng tiền mà
người ta có thể chuyển đổi tự do và đang sử dụng trên các thị trường hối đoái
chính được xác định trong các quy tắc, quy định, thủ tục của Cơ quan quyền lực
theo đúng các tập quán tiền tệ quốc tế thông dụng.
13. Tất cả các nghĩa vụ tài chính của
người kí kết hợp đồng đối với Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả các khoản tiền
phải nộp, phí tổn, chi phí, thu nhập nói ở điều này được điều chỉnh bằng giá
trị không đổi, lấy theo một năm quy chiếu.
14. Nhằm phục vụ các mục tiêu đã nêu ở
khoản 1, dựa theo các kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế và của Ủy ban Pháp
lý và kĩ thuật, Cơ quan quyền lực có thể thông qua các quy tắc, quy định và thủ
tục trú định việc dành cho các bên kí kết hợp đồng những kích thích trên một cơ
sở thống nhất và không phân biệt đối xử.
15. Khi có tranh chấp giữa Cơ quan quyển
lực và một bên kí kết hợp đồng có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các
điều khoản tài chính cảu một hợp đồng, bên này hay bên kia có thể đưa vụ tranh
chấp ra một trọng tài thương mại có quyền lực bắt buộc, trừ khi hai bên thỏa
thuận giải quyết tranh chấp bằng các phương pháp khác, theo đúng Điều 188,
khoản 2.
ĐIỀU
14. Việc thông báo các số liệu
Theo đúng các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực và tùy theo các điều kiện, thể thức của kế hoạch làm
việc, người khai thác thông báo cho cơ quan quyền lực, theo những khoảng thời
gian do cơ quan quyền lực quy định, tất cả các số liệu vừa cần thiết, vừa thích
hợp, nhằm để cho các cơ quan chính của cơ quan quyền lực thi hành có hiệu quả
các quyền hạn và chức năng của họ có liên quan đến khu vực mà kế hoạch làm việc
nhắm vào.
Các số liệu được thông báo về khu vực mà
kế hoạch làm việc nhằm vào và được coi là sở hữu công nghiệp chỉ có thể được sử
dụng vào các mục đích nói trong điều này. Các số liệu cần thiết cho cơ quan
quyền lực trong việc soạn thảo các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến
việc bảo vệ môi trường biển và đến sự an toàn, ngoài các số liệu liên quan đến
kiểu trang thiết bị, thì không được coi là sở hữu công nghiệp.
Cơ quan quyền lực không được thông báo
cho xí nghiệp hay bất kì ai ở bên ngoài cơ quan quyền lực các số liệu mà những
người thăm dò, những người yêu cầu kí hợp đồng và những người kí kết hợp đồng
cung cấp cho cơ quan quyền lực và được coi là sở hữu công nghiệp, nhưng những
số liệu liên quan đến khu vực dành riền có thể được thông báo cho xí nghiệp. Xí
nghiệp không được thông báo cho cơ quan quyền lực hay cho bất kì ai ở bên ngoài
cơ quan quyền lực các số liệu cùng loại đó đã được cung cấp cho xí nghiệp theo
cách nói trên.
ĐIỀU
15. Các chương trình đào tạo
Người kí kết hợp đồng vạch ra các chương
trình thực tiễn đào tạo nhân viên của cơ quan quyền lực và của các quốc gia
đang phát triển, nhất là trù định sự tham gia của các nhân viên nói trên vào
tất cả các hoạt động tiến hành trong vùng thuộc đối tượng của hợp đồng, theo
đúng Điều 144, khoản 2.
ĐIỀU
16. Độc quyền về thăm dò và khai thác
Cơ quan quyền lực, theo Phần XI và các
quy tắc, quy định và thủ tục của mình cho người khai thác đặc quyền thăm dò,
khai thác một loại tài nguyên nhất định trong khu vực và kế hoạch làm việc nhằm
vào và luôn luôn chú ý để không cho một thực thể hay một cá nhân nào khác tiến
hành trong cùng khu vực nói trên, các hoạt động nhằm vào một loại tài nguyên
khác, một cách có thể gây trở ngại cho các hoạt động cho người khai thác. Người
khai thác được bảo đảm danh nghĩa theo đúng Điểm 153, khoản 6.
ĐIỀU
17. Quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực
1. Cơ quan quyền lực thông qua và áp
dụng một cách thống nhất các quy định, quy tắc và thủ tục theo Điều 160, khoản
2, điểm f,ii và Điều 162, khoản 2, điểm o,ii để thi hành các chức trách của
mình như đã được nêu ở phần XI, nhất là về các vấn đề sau:
a. Các thủ tục hành chánh liên quan đến
việc khảo sát, thăm dò và khai thác trong vùng;
b. Các nghiệp vụ;
i. Diện tích của khu vực;
ii. Thời hạn của các nghiệp vụ
iii. Các quy phạm hiệu lực, kế cả những
bảo đảm đã được trù định ở điều 4, khoản 6, điểm c của phụ lục này;
iv. Các loại tài nguyên;
v. Sự từ bỏ các khu vực;
vi. Các báo cáo về tiến trình của công
việc;
vii. Thông báo các số liệu;
viii. Kiểm tra và kiểm soát các nghiệp
vụ;
ix. Các biện pháp được thi hành để không
làm cản trở đến các hoạt động khác trong môi trường biển;
x. Việc một người kí kết hợp đồng chuyển
nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình;
xi. Các thủ tục liên quan đến việc
chuyển giao các kĩ thuật cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 144,
cũng như đến việc tham gia trực tiếp của các quốc gia này;
xii. Quy phạm và tập quán khai thác
khoáng sản, kể cả những quy phạm và tập quán có quan hệ đến an toàn của các
nghiệp vụ, đến việc bảo tồn các tài nguyên và việc bảo vệ môi trường biển;
xiii. Xác định việc sản xuất hàng hóa;
xiv. Các tiêu chuẩn về tư cách của các
người yêu cầu.
c. Những vấn đề tài chính:
i. Soạn thảo các quy tắc thống nhất và
không phân biệt đối xử về việc tính toán giá cả và về kế toán và biện pháp lực
chọn các nhân viên kiểm tra;
ii. Phân chia các khoản thu được từ các
nghiệp vụ;
iii. Các kích thích nêu ở điều 13 của
khu vực này;
d. Thi hành các quyết định theo Điều
151, khoản 10 và Điều 164, khoản 2, điểm d;
2. Các quy tắc, quy định và thủ tục liên
quan đến những vấn đề sau đây cần đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khách quan được
nêu dưới đây:
a. Diện tích của khu vực:
Cơ quan quyền lực quy định diện tích của
các khu vực thăm dò có thể đến mức lớn gấp đôi diện tích các khu vực khai thác,
để cho việc thăm dò có hiệu suất hơn. Diện tích các khu vực khai thác được tính
toán để đáp ứng được các đòi hỏi của Điều 8 của phụ lục này, liên quan đến việc
dành riêng các khu vực, cũng như đáp ứng các đòi hỏi về sản xuất đã được trù
định; các đòi hỏi này phải phù hợp với điều 151 và các điều khoản của hợp đồng,
có tính đến tình trạng các kĩ thuật sẵn có trong lĩnh vực khai thác khoáng sản
ở đáy biển và các đặc điểm tự nhiên thích đáng của khu vực. Diện tích của các
khu vực không thể nhỏ hơn hay lớn hơn diện tích cần thiết để đáp ứng mục tiêu
này.
b. Thời gian của các nghiệp vụ:
i. Thời gian khảo sát là không giới hạn;
ii. Thời gian của giai đoạn thăm dò phải
đủ để cho phép tiến hành công tác nghiên cứu kĩ càng đối với khu vực được nhắm
đến, công tác nghiên cứu và xây dựng phương tiện khai thác đối với khu vực này,
việc lập các kế hoạch, việc xây dựng các nhà máy chế biến có công suất nhỏ và
vừa để tiến hành việc thử các hệ thong khai thác và chế biến kim loại.
iii. Thời gian khai thác phải tùy thuộc
vào thời gian hoạt động kinh tế của dự án khai thác mỏ, có tính đến các yếu tố
như: vỉa quặng bị cạn, tuổi thọ của phương tiện khai thác, các thiết bị chế
biến và khả năng đứng vững về thương mại. Thời gian của giai đoạn khai thác
phải đủ để cho phép tiến hành việc khai thác hàng hóa các khoáng sản của khu
vực và cần phải bao gồm một thời hạn hợp lý để xây dựng các thiết bị khai thác
mỏ và chế biến trên quy mô thương mại, thời hạn mà trong đó chưa thể đòi hỏi
bất cứ một sự sản xuất hàng hóa nào. Tuy nhiên, toàn bộ thời gian khai thác
cũng cần phải tương đối ngắn để cho cơ quan quyền lực có thể sửa đổi các điều
kiện và thể thức của kế hoạch làm việc vào lúc mà cơ quan quyền lực nghiên cứu
việc kí lại kế hoạch làm việc đó, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục mà
cơ quan quyền lực đã thông qua sau khi đã chuẩn y kế hoạch làm việc;
c. Các quy phạm về hiệu lực:
Trong giai đoạn thăm dò, cơ quan quyền
lực đòi hỏi người khai thác phải tiến hành chỉ tiêu theo định kì tương ứng hợp
lý với diện tích khu vực mà kế hoạch làm việc nhằm vào và với các khoản chi phí
cần phải chi của một người khai thác trung thực dự định tiến hành việc sản xuất
hàng hóa ở khu vực đó, trong những thời hạn do cơ quan quyền lực ấn đinh. Không
được ấn định những chi phí cần thiết trên đây ở mức độ gây nản lòng những người
khai thác sử dụng những kĩ thuật rẻ tiền hơn các kĩ thuật thường dùng. Cơ quan
quyền lực ấn định một thời hạn tối đa để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa, sau
khi kết thúc giai đoạn thăm dò và những hoạt động khai thác đầu tiên. Để xác
định thời hạn này, Cơ quan quyền lực cần tính đến tình hình là việc xây dựng
các thiết bị khai thác và chế biến quan trọng chỉ có thế được tiến hành khi
giai đoạn thăm dò đã kết thức và giai đoạn khai thác đã bắt đầu. Do đó, thời
hạn được dành để chuẩn bị bắt đầu sản xuất hàng hóa của một khu vực cần phải
được ấn định có tính đến thời gian cần thiết để xây dựng các thiết bị này sau
giai đoạn thăm dò; hơn nữa, nên trù định các thời hạn hợp lý cho những chậm trễ
không thể tránh được trong chương trình xây dựng. Một khi đã đạt tới gia đoạn
sản xuất hàng hóa, cơ quan quyền lực yêu cầu người khai thác tiếp tục việc sản
xuất hàng hóa này trong suốt thời gian của kế hoạch làm việc mà vẫn ở trong
phạm vi các giới hạn hợp lý và vẫn chú ý tới tất cả các yếu tố tương ứng.
d. Các loại tài nguyên
Để xác định các loại tài nguyên mà đối
với chúng các kế hoạch làm việc có thể được chuẩn y, ngoài các yếu tố khác, cơ
quan quyền lực dựa vào các yếu tố sau đây:
i. Việc những tài nguyên khác nhau cần
đến biện pháp khai thác giống nhau;
ii. Việc các tài nguyên khác nhau có thể
được nhiều người khai thác đồng thời trong cùng một khu vực mà không gây quá
nhiều trở ngại cho nhau;
Điều quy định này không cản trở cơ quan
quyền lực chuẩn y một kế hoạch làm việc đối với nhiều loại tài nguyên trong
cùng khu vực;
e. Từ bỏ các khu vực:
Người khai thác vào bất kì lúc nào cũng
có thể từ bỏ tất cả hay bộ phận các quyền của mình đối với khu vực do kế hoạch
làm việc nhằm vào mà không bị phạt;
f. Bảo vệ môi trường biển:
Các quy tắc, quy định và thủ tục được
định ra nhằm bảo vệ có hiệu quả môi trường biển, trước những tác hại trực tiếp
nảy sinh từ các hoạt động tiến hành trong vùng, hay từ việc tinh chế các khoáng
sản lấy được từ một địa điểm khai thác trên một con tàu ở ngay trên địa điểm
khai thác khoáng sản đó, có tính đến mức độ trong đó các tác hại như thế có thể
trực tiếp do các hoạt động khoan, nạo vét, khoan lấy lõi đất và đào, cũng như
việc tháo đổ, nhận chìm và vứt bỏ trong môi trường biển các chất cặn bã hay
nước thải gây ra.
g. Sản xuất hàng hóa
Việc sản xuất hàng hóa được coi như đã
bắt đầu khi một người khai thác đã thực hiện các hoạt động khai thác liên tục
và ở trên quy mô lớn, sản xuất được một số lượng vật phẩm quan trọng, đủ để
chứng tỏ rõ rang mục tiêu chủ yếu của các hoạt động đó là một việc sản xuất
trên quy mô lớn và không phải là một việc sản xuất nhằm để thu thập thông tin,
tiến hành các công việc phân tích hay thử nghiệm các công cụ hay thiết bị
ĐIỀU
18. Phạt
Các quyền theo hợp đồng của người kí kết
hợp đồng chỉ có thể bị đình chỉ hay chấm dứt trong các trường hợp sau:
Khi mà mặc dù đã có những lời cảnh cáo
của cơ quan quyền lực, người kí hợp đồng vẫn tiến hành các hoạt động của mình
theo cách dẫn đến những vi phạm nghiêm trọng, kéo dài và cố ý, đối với các điều
khoản cơ bản của hợp đồng, đối với các quy tắc, quy định và thủ tục của cơ quan
quyền lực và đối với phần XI, hoặc
Khi người kí kết hợp đồng không tuân
theo một quyết định dứt khoát và bắt buộc do cơ quan giải quyết các tranh chấp
đề ra cho mình.
Trong những trường hợp vi phạm các điều
khoản của hợp đồng ngoài các trường hợp nói ở khoản 1, điểm a, hoặc thay cho
việc tuyên bố đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng, trong các trường hợp nói ở khoản 1,
điểm a. Cơ quan quyền lực có thể bắt người kí hợp đồng chịu những khoản tiền
phạt theo tỉ lệ về mức độ nghiêm trọng của việc vi phạm.
Trừ trường hợp các mệnh lệnh được đưa ra
trong tình hình khẩn cấp theo Điều 162, khoản 2, điểm w, Cơ quan quyền lực chưa
thể thi hành một quyết định liên quan đến các khoản tiền phạt hoặc đến việc
đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng, chừng nào người kí hợp đồng chưa có khả năng hợp
lý để khai thác hết những căn cứ pháp lý mà mình có, theo đúng Mục 5 của Phần
XI.
ĐIỀU
19. Xét lại hợp đồng
Theo ý kiến của một trong các bên, khi
xảy ra hay có thể xảy ra các hoàn cảnh có tác dụng làm cho một hợp đồng trở nên
không công bằng, hoặc gây tổn hại, hoặc ngăn cản việc thực hiện các mục tiêu
được đề ra trong hợp đồng, hay trong phần XI, các bên tiến hành các cuộc thương
lượng nhằm xét lại hợp đồng theo hoàn cảnh mới
Một hợp đồng được kí kết theo đúng Điều
153, khoản 3, chỉ có thể được xét lại với sự thỏa thuận của các bên kí kết.
ĐIỀU
20. Chuyền giao các quyền và nghĩa vụ
Các quyền và các nghĩa vụ nảy sinh từ
một hợp đồng chỉ được chuyển giao với sự thỏa thuận của Cơ quan quyền lực và
theo đúng các quy tắc, quy định, thủ tục của nó. Nếu không có lý do đầy đủ, Cơ
quan quyền lực không được từ chối việc chấp thuận sự chuyển giao, nếu xét về
mọi phương diện, người có thể được giao là một người yêu cầu có tư cách và bảo
đảm tất cả các nghĩa vụ của người giao, và nếu việc chuyển giao không giao cho
người được giao một kế hoạch làm việc mà việc chuẩn y đã bị cấm theo Điều 6,
khoản 3, điểm c của phụ lục này.
ĐIỀU
21. Luật áp dụng
Hợp đồng thuộc sự điều chỉnh của các
điều khoản của hợp đồng, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền
lực, Phần XI, cũng như các quy tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn
với Công ước.
Mọi quyết định cuối cùng do một tòa án
có thẩm quyền theo Công ước đưa ra về quyền và các nghĩa vụ của Cơ quan quyền
lực và của người kí hợp đồng có hiệu lực trên lãnh thổ của bất kì quốc gia
thành viên nào.
Một quốc gia thành viên không thể bắt
một người kí kết hợp đồng phải theo các điều kiện không phù hợp với Phần XI.
Tuy nhiên, việc một quốc gia thành viên áp dụng đối với những người kí kết hợp
đồng do mình bảo trợ hay đối với các tàu mang cờ nước minh, các luật và quy
định liên quan đến việc bảo vệ môi trường biển hay các luật và quy định khác
chặt chẽ hơn các quy tắc, quy định, thủ tục do Cơ quan quyền lực đặt ra theo
Điều 17, khoản 2, điểm f của phụ lục này, không bị coi là không phù hợp với
Phần XI.
ĐIỀU
22. Trách nhiệm
Người kí kết hợp đồng phải chịu trách
nhiệm về mọi tổn thất do một hành động trái phép của họ trong khi tiến hành
công việc gây ra, có tính đến phần trách nhiệm có thể quy cho Cơ quan quyền lực
do các hành động hay thiếu sót của cơ quan này, Cơ quan quyền lực cũng phải
chịu trách nhiệm về những tổn thất do những hành động trái phép mà họ phạm phải
trong khi thực hiện các quyền hạn và chức năng của mình, kể cả các hành động vi
phạm Điều 186, khoản 2, có tính đến phần trách nhiệm có thể quy cho người kí
kết do những hành động hay thiếu sót của họ. Trong mọi trường hợp, mức bồi
thường phải tương ứng với thiệt hại thực sự.
ĐIỀU
1. Các mục đích
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan
quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2,
điểm a, cũng như các hoạt động vận chuyển, chế biến và tiêu thụ các khoáng sản
được khai thác từ Vùng.
2. Để thực hiện những mục đích và thi
hành các chức năng của mình, Xí nghiệp hành động theo đúng Công ước, các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
3. Để khai thác các tài nguyên của Vùng
theo khoản 1, với điều kiện phải tuân theo Công ước, Xí nghiệp tiến hành các
hoạt động của mình theo đúng các nguyên tắc quản lý thương mại đúng đắn.
ĐIỀU
2. Các quan hệ với cơ quan quyền lực
1. Theo Điều 170, Xí nghiệp hành động
theo đúng chính sách chung do Đại hội động quyết định và theo đúng các chỉ thị
của Hội đồng.
2. Với điều kiện tuân thủ khoản 1, Xí
nghiệp hành động theo cách tự quản.
3. Không một điều quy định nào của Công
ước làm cho Xí nghiệp có trách nhiệm về những hành động hay nghĩa vụ của Cơ
quan quyền lực, cũng không làm cho Cơ quan quyền lực chịu trách nhiệm về những
hành động hay nghĩa vụ của Xí nghiệp.
ĐIỀU
3. Giới hạn trách nhiệm
Không phương hại đến Điều 11, Khoản 3
của Phụ lục này, không một uỷ viên nào của Cơ quan quyền lực phải chịu trách
nhiệm về những hành động hay nghĩa vụ của Xí nghiệp chỉ vì tư cách uỷ viên của
mình.
ĐIỀU
4. Cơ cấu
Xí nghiệp có một Hội đồng quản trị, một
Tổng giám đốc và nhân viên cần thiết để thực hiện các chức năng của mình.
ĐIỀU
5. Hội đồng quản trị
1. Hội đồng quản trị gồm có 15 uỷ viên
được Đại hội đồng bầu ra theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm c. Khi bầu các uỷ
viên của Hội đồng quản trị, phải tính đến các nguyên tắc phân chia công bằng về
mặt địa lý. Trong khi bầu cử các ứng cử viên vào Hội đồng, các uỷ viên của Cơ
quan quyền lực cần tính đến sự cần thiết phải chỉ định các ứng cử viên tinh
thông nhất về nghiệp vụ và có các phẩm chất cần thiết trong các lĩnh vực thích
hợp để bảo đảm khả năng đứng vững và thành công của Xí nghiệp.
2. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị
được bầu ra với một nhiệm kỳ 4 năm và có thể được bầu lại. Khi bầu và bầu lại
các uỷ viên của Hội đồng quản trị, phải tính đến các nguyên tắc luân phiên.
3. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị làm
nhiệm vụ cho đến khi bầu những người thay thế. Nếu khiếm khuyết một uỷ viên của
Hội đồng quản trị, thì theo Điều 160, khoản 2, điểm c, Đại hội đồng bầu một uỷ
viên mới cho khoảng thời gian còn lại thuộc nhiệm kỳ của uỷ viên bị khuyết.
4. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị
hành động với tư cách cá nhân. Trong khi thi hành chức trách của mình, họ không
được xin, nhận các chỉ thị của một chính phủ nào hay của một nguồn nào khác.
Các uỷ viên của Cơ quan quyền lực tôn trọng tính độc lập của các uỷ viên của
Hội đồng quản trị và tránh bất kỳ ý đồ nào gây ảnh hưởng đến các uỷ viên của
Hội đồng quản trị trong việc thi hành các chức trách của họ.
5. Mỗi uỷ viên của Hội đồng quản trị
được nhận một khoản tiền thù lao tính vào các nguồn tài chính của Xí nghiệp. Số
tiền thù lao này được Đại hội đồng quy định, dựa theo kiến nghị của Hội đồng.
6. Bình thường, Hội đồng quản trị làm
việc tại trụ sở cơ sở chính của Xí nghiệp và nhóm họp mỗi khi công việc của Xí
nghiệp đòi hỏi.
7. Số đại biểu cần thiết (quorum) là hai
phần ba số uỷ viên của Đại hội đồng quản trị.
8. Mỗi uỷ viên của Hội đồng quản trị có
một phiếu. Hội đồng quản trị quyết định về tất cả các vấn đề mà mình xem xét
theo đa số các uỷ viên của mình. Nếu có vấn đề nào gây nên tranh chấp về quyền
lợi đối với một uỷ viên thì uỷ viên này không tham gia bỏ phiếu về vấn đề này.
9. Bất kỳ uỷ viên nào của Cơ quan quyền
lực cũng có thể yêu cầu Hội đồng quản trị cung cấp các thông tin liên quan đến
các hoạt động có quan hệ đặc biệt đến mình. Hội đồng cố gắng cung cấp các thông
tin này.
ĐIỀU
6. Các quyền hạn và chức năng của hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị điều hành Xí nghiệp.
Với điều kiện chấp hành Công ước, Hội đồng quản trị thi hành các quyền hạn cần
thiết để thực hiện các mục đích của Xí nghiệp, kể các các quyền:
a) Bầu một Chủ tịch trong số các uỷ viên
của mình;
b) Thông qua quy chế nội bộ của mình;
c) Lập và gửi lên Hội đồng các kế hoạch
làm việc theo đúng thể thức và bằng văn bản theo đúng Điều 153, khoản 3, và
Điều 162, khoản 2, điểm j;
d) Soạn thảo các kế hoạch làm việc và
các chương tình để thực hiện các hoạt động nói trong Điều 170;
e) Thảo và trình lên Hội đồng những đơn
xin cấp giấy phép sản xuất, theo đúng Điều 151, các khoản 2 đến 7;
f) Cho phép các cuộc thương lượng liên
quan đến việc mua các kỹ thuật, nhất là các cuộc thương lượng đã trù định ở
Điều 5, khoản 3, điểm a, c và d của Phụ lục III, và chuẩn y các kết quả của các
cuộc thương lượng này.
g) Ấn định các điều kiện và thể thức cho
phép các cuộc thương lượng liên quan đến các xí nghiệp liên doanh và các hình
thức thoả thuận về liên doanh khác đã nói trong các Điều 9 và 11 của Phụ lục
III và chuẩn y các kết quả của các cuộc thương lượng này;
h) Làm các kiến nghị lên Đại hội đồng về
phần thu nhập thuần tuý của xí nghiệp cần phải được dành ra để lập nên các dự
trữ theo đúng Điều 16 khoản 2, điểm f, và Điều 10 của Phụ lục này;
i) Chuẩn y ngân sách hàng năm của Xí
nghiệp;
j) Cho phép mua tài sản và thuê dịch vụ
theo đúng Điều 12, Khoản 3 của Phụ lục này;
k) Trình báo cáo hàng năm lên Hội đồng
theo đúng Điều 9 của Phụ lục này;
l) Trình lên Hội đồng để được Đại hội
đồng chuẩn y các dự thảo quy tắc liên quan đến tổ chức, quản lý, bổ nhiệm và
thải hồi nhân viên của Xí nghiệp, và thông qua các quy định đem lại hiệu lực
cho các quy tắc này;
m) Vay vốn và cung cấp những bảo hành và
bảo đảm khác mà mình xác định theo đúng Điều 11, khoản 2 của Phụ lục này;
n) Quyết định việc kiện tụng, ký các
hiệp định, thực hiện những cuộc giao dịch và thi hành mọi biện pháp khác theo
sự trù định trong Điều 13 của Phụ lục này;
o) Uỷ nhiệm, với điều kiện được sự chuẩn
y của Hội đồng, mọi quyền hạn không có tính chất tuỳ ý quyết định cho các uỷ
ban hay Tổng giám đốc của mình;
ĐIỀU
7. Tổng giám đốc và nhân viên
1. Dựa theo kiến nghị của Hội đồng, Đại
hội đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do Hội đồng quản trị đề nghị, một Tổng
giám đốc Xí nghiệp, người này không được là uỷ viên của Hội đồng quản trị. Tổng
giám đốc được bầu trong một nhiệm kỳ nhất định không quá 5 năm và có thể được
bầu lại cho những nhiệm kỳ sau.
2. Tổng giám đốc là người đại diện hợp
pháp của Xí nghiệp và là người đứng đầu Xí nghiệp về mặt hành chính, trực tiếp
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị trong việc điều hành các hoạt động của
Xí nghiệp. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm về tổ chức, quản lý, bổ nhiệm và bãi
miễn nhân viên, theo đúng quy tắc và quy định nêu ở Điều 6, điểm 1 của Phụ lục
này. Tổng giám đốc tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, nhưng không có
quyền bỏ phiếu; ông ta có thể tham gia các cuộc họp của Đại hội đồng và của Hội
đồng khi các cơ quan này xem xét những vấn đề liên quan đến Xí nghiệp, nhưng
không có quyền bỏ phiếu.
3. Căn cứ bao trùm trong việc tuyển mộ
và quyết định các điều kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Xí nghiệp những
người phục vụ có năng lực làm việc cao nhất và tinh thông nghiệp vụ nhất. Ngoài
ra, phải tính đến tầm quan trọng của việc tuyển mộ trên cơ sở công bằng về mặt
địa lý.
4. Trong khi thi hành các chức trách của
mình, Tổng giám đốc và nhân viên của Xí nghiệp không được xin, nhận các chỉ thị
của một chính phủ nào hoặc của một nguồn nào khác, ngoài Xí nghiệp. Họ tránh
bất kỳ hành vi nào không phù hợp với tư cách viên chức quốc tế của Xí nghiệp và
chỉ chịu trách nhiệm trước Xí nghiệp. Mỗi quốc gia thành viên cam kết tôn trọng
tính chất quốc tế thuần tuý của các chức trách Tổng giám đốc và nhân viên của
Xí nghiệp và không tìm các gây ảnh hưởng tới việc thi hành nhiệm vụ của họ.
5. Các nhân viên của Xí nghiệp cũng có
những trách nhiệm nói ở Điều 168, khoản 2.
ĐIỀU
8. Địa điểm
Xí nghiệp có văn phòng chính đặt tại trụ
sở của Cơ quan quyền lực;
Xí nghiệp có thể mở các văn phòng và các
cơ sở khác ở trên lãnh thổ của bất kỳ quốc gia thành viên nào với sự thoả thuận
của quốc gia này.
ĐIỀU
9. Các báo cáo và các bản quyết toán tài chính
1. Trong một thời hạn 3 tháng sau khi
kết thúc mỗi tài khoá. Xí nghiệp phải gửi một báo cáo hàng năm, bao gồm một bản
quyết toán tài chính đã được thẩm tra lên cho Hội đồng xem xét, và trong những
khoảng thời gian thích hợp gửi lên Hội đồng một bản quyết toán tài chính tổng
hợp về tình hình tài chính của mình và một bản quyết toán các khoản lỗ, lãi,
thể hiện kết quả khai thác của mình.
2. Xí nghiệp công bố báo cáo hàng năm
của mình và tất cả các bản quyết toán mà mình xét thấy cần thiết.
3. Tất cả các báo cáo và các bản quyết
toán tài chính đã nêu trong điều này được gửi cho các uỷ viên của Cơ quan quyền
lực.
ĐIỀU
10. Phân chia thu nhập thuần tuý
1. Với điều kiện tuân thủ khoản 3, Xí
nghiệp nộp cho Cơ quan quyền lực các khoản tiền được trù định trong Điều 13 của
Phụ lục III hoặc một thứ tương đương.
2. Dựa theo kiến nghị của Hội đồng quản
trị, Đại hội đồng quy định phần thu nhập thuần tuý của Xí nghiệp cần phải được
dành ra để lập nên các quỹ dự trữ, số dư được chuyển cho Cơ quan quyền lực.
3. Trong thời kỳ ban đầu, cần thiết đối
với Xí nghiệp để tự túc cho chính mình với một thời gian tối đa là 10 năm, kể
từ khi bắt đầu việc sản xuất hàng hoá, Đại hội đồng miễn cho Xí nghiệp những
khoản nộp đã nêu ở khoản 1 và đưa toàn bộ thu nhập thuần tuý của Xí nghiệp vào
trong các quỹ dự trữ của Xí nghiệp.
ĐIỀU
11. Tài chính
1. Các nguồn tài chính của Xí nghiệp gồm
có:
a) Các khoản tiền nhận được của Cơ quan
quyền lực phù hợp với Điều 173, khoản 2, điểm b;
b) Những đóng góp tự nguyện của các quốc
gia thành viên nhằm mục đích tài trợ cho các hoạt động của Xí nghiệp;
c) Tổng số tiền vay mượn của Xí nghiệp
theo đúng các khoản 2 và 3;
d) Thu nhập mà Xí nghiệp rút ra được từ
các hoạt động của mình;
e) Các nguồn tài chính khác giao cho Xí
nghiệp sử dụng để cho phép Xí nghiệp bắt đầu công việc của mình càng sớm càng
tốt và việc thi hành các chức năng của mình.
2. a) Xí nghiệp có quyền đi vay và cung
cấp một sự bảo hành hay bảo đảm khác mà Xí nghiệp có thể xác định được. Trước
khi tiến hành việc công khai bán các trái phiếu của mình trên thị trường tài
chính hay bằng đồng tiền của một quốc gia thành viên, Xí nghiệp phải được sự
đồng ý của quốc gia này. Tổng số tiền vay mượn phải được Hội đồng chuẩn y dựa
theo ý kiến của Hội đồng quản trị.
b) Các quốc gia thành viên cố gắng hết
sức trong phạm vi hợp lý ủng hộ các yêu cầu vay mượn của Xí nghiệp ở trên các
thị trường tài chính và với các cơ quan tài chính quốc tế.
3. a) Xí nghiệp được cung cấp các nguồn
tài chính cần thiết để thăm dò và khai thác một khu vực nhỏ, đẻ bảo đảm việc
vận chuyển, chế biến và tiêu thụ các khoáng sản mà Xí nghiệp khai thác được ở
đó và các kim loại như kền, đồng, cô-ban và măng-gan lấy ra từ các khoáng sản
và để trang trải những chi phí quản lý ban đầu của mình. Uỷ ban trù bị chỉ rõ
trong dự thoả về các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, tổng
số các nguồn tài chính này, cũng như các tiêu chuẩn và yếu tố để thực hiện các
điều chỉnh cần thiết;
b) Tất cả các quốc gia thành viên cung
cấp cho các Xí nghiệp một số tiền tương đương với một nửa các nguồn tài chính
đã nêu ở điểm a, dưới hình thức cho vay dài hạn không lấy lãi, theo đúng ba-rem
của các khoản đóng góp vào ngân sách thông thường của Liên hợp quốc hiện hàng,
vào lúc nộp những khoản đóng góp này với những điều chỉnh, vì có các quốc gia
không phải là thành viên của Liên hợp quốc. Nửa khác của các nguồn tài chính
của Xí nghiệp là các khoản do Xí nghiệp vay với sự bảo đảm của các quốc gia
thành viên theo ba-rem nói trên;
c) Nếu tổng số tiền đóng góp của các
quốc gia thành viên thấp hơn tổng số tiền của các nguồn tài chính phải được
cung cấp cho Xí nghiệp theo điểm a, Đại hội đồng xem xét ở khoá họp đầu tiên
của mình chỗ thiếu hụt và có tính đến những nghĩa vụ của các quốc gia thành
viên theo các điểm a và b và đến các kiến nghị của uỷ ban trù bị để thông qua
bằng consensus (thoả thuận) các biện pháp về khoản thiếu hụt này;
d) i. Trong 60 ngày sau khi Công ước có
hiệu lực hay trong 30 ngày tiếp theo ngày gửi lưu chiểu các tài liệu phê chuẩn
hay gia nhập, thời hạn nào dài nhất thì được sử dụng, mỗi quốc gia thành viên
cần gửi tới Xí nghiệp các kỳ phiếu không thể chuyển đổi, không thể chuyển dịch
hay không có lãi tương đương với số tiền thuộc phần mình về các khoản tiền cho
vay không có lãi nói ở điểm b;
ii. Càng sớm càng tốt, sau khi Công ước
bắt đầu có hiệu lực, sau đó cứ hàng năm hay theo những khoảng thời gian thích
hợp khác, Hội đồng quản trị của Xí nghiệp, cùng với sổ kỳ hạn (échéancier) cấp
kinh phí cho các chi tiêu hành chính của xí nghiệp và cho các hoạt động mà xí
nghiệp tiến hành theo Điều 170 và Điều 12 của Phụ lục này;
iii. Qua trung gian của Cơ quan quyền
lực, Xí nghiệp thông báo cho các quốc gian thành viên phần đóng góp của họ và
các chi phí này, được xác định theo đúng điểm b; Xí nghiệp thu các kỳ phiếu
tương đương với tổng số tiền cần thiết để bảo đảm các khoản chi tiêu đã ghi
trong sổ kỳ hạn cấp kinh phí, có tính đến những khoản vay không có lãi;
iv. Ngay khi nhận được thông báo, các
quốc gia thành viên giao cho Xí nghiệp sử dụng các phần bảo đảm của mình đối
với các khoản vay nợ theo đúng điểm b;
e) i. Nếu Xí nghiệp yêu cầu, các quốc
gia thành viên có thể cung cấp các khoản bảo đảm nợ, thêm vào các khoản mà họ
cung cấp theo ba-rem nói ở điểm b;
ii. Thay thế cho một sự bảo đảm nợ, một
quốc gia thành viên có thể nộp cho Xí nghiệp một khoản đóng góp tự nguyện với
một số tiền tương đương với phần nợ mà quốc gia đó có thể đã hứa bảo đảm;
f) Việc trả nợ có lãi được ưu tiên hơn
việc trả nợ không lãi. Các món nợ không có lãi được hoàn trả theo một lịch được
Đại hội đồng chấp nhận, dựa theo kiến nghị của Hội đồng và sau khi có ý kiến
của Hội đồng quản trị của Xí nghiệp. Hội đồng quản trị thi hành chức năng này
theo đúng các điều khoản tương ứng trong các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực. Các quy tắc, quy định và thủ tục này có tính đến sự cần
thiết cơ bản là bảo đảm cho Xí nghiệp hoạt động tốt, và đặc biệt là, bảo đảm
được tính độc lập về tài chính của Xí nghiệp ;
g) Các khoản tiền đóng góp cho Xí nghiệp
là bằng những đồng tiền có thể sử dụng tự do hay bằng những đồng tiền được
chuyển đổi tự do và đang được sử dụng thực sự trên thị trường hối đoái chính.
Những đồng tiền này được xác định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ
quan quyền lực theo đúng các tập quán tiền tệ quốc tế thông dụng. Với điều kiện
tuân thủ khoản 2, không một quốc gia thành viên nào áp dụng hay áp đặt những
điều hạn chế có liên quan đến khả năng để cho Xí nghiệp giữ, sử dụng hay trao
đổi các khoản tiền này.
h) Thuật ngữ "bảo đảm nợ", có nghĩa là một quốc gia thành viên hứa với các
chủ nợ của Xí nghiệp, giữ trọn nghĩa vụ tài chính của Xí nghiệp được bảo đảm
trong phạm vi được trù định trong ba-rem thích hợp, sau khi các chủ nợ thông
báo về việc Xí nghiệp không thực hiện các nghĩa vụ nói trên. Các thủ tục thi
hành các nghĩa vụ này phải phù hợp với các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ
quan quyền lực.
4. Các nguồn tài chính, tài sản và chi
phí của Xí nghiệp phải tách khỏi các nguồn tài chính, tài sản và chi phí của Cơ
quan quyền lực. Tuy nhiên, Xí nghiệp có thể ký kết với Cơ quan quyền lực các
thoả thuận về việc hoàn lại các chi phí hành chính mà cơ quan này đã chi phí
cho cơ quan kia.
5. Các tài liệu, sổ sách và tài khoản
của Xí nghiệp, kể cả các bản quyết toán hàng năm, được một uỷ viên kế toán độc
lập do Hội đồng chỉ định kiểm tra hàng năm.
ĐIỀU
12. Các nghiệp vụ
1. Xí nghiệp đề xuất với Hội đồng các dự
án liên quan đến các hoạt động nói trong Điều 170. Những dự án này bao gồm một
kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản về các hoạt động tiến hành trong
Vùng, theo đúng Điều 153, khoản 3, cũng như tất cả những thông tin hay số liệu
khác có thể cần thiết cho việc uỷ ban pháp lý và kỹ thuật đánh giá các dự án đó
và cho việc Hội đồng chuẩn y các dự án này.
2. Một khi dự án đã được Hội đồng chuẩn
y, Xí nghiệp thi hành nó theo kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản đã
nêu ở khoản 1.
3. a) Nếu Xí nghiệp không sẵn có các tài
sản và dịch vụ cần thiết cho các hoạt động của mình, thì có thể tìm lấy của cải
và dịch vụ đó. Vì mục đích đó, Xí nghiệp tiến hành gọi thầu và ký giao kèo với
những người nhận thầu nào lời nhất cả về chất lượng, giá cả lẫn thời gian giao
hàng ;
b) Nếu nhiều đơn nhận thầu đáp ứng được
các điều kiện này, thì giao kèo đấu thầu phải theo đúng:
i. Nguyên tắc không phân biệt đối xử dựa
trên các lý do chính trị hoặc lý do khác không liên quan gì đến việc thi hành
nhanh chóng và có hiệu quả các nghiệp vụ;
ii. Các chỉ thị do Hội đồng quyết định
có liên quan đến việc dành ưu tiên cho các tài sản và dịch vụ do các quốc gia
đang phát triển cung cấp, đặc biệt là, các nước không có biển hay ở vào hoàn
cảnh địa lý bất lợi trong số các nước đó;
c) Hội đồng quản trị có thể thông qua
các quy tắc xác định các hoàn cảnh đặc biệt, mà trong đó, vì lợi ích của Xí
nghiệp, nó có thể vi phạm nghĩa vụ phải tiến hành các cuộc đấu thầu.
4. Xí nghiệp có quyền sở hữu đối với tất
cả các khoáng sản và tất cả các chất được chế biến mà xí nghiệp sản xuất ra.
5. Xí nghiệp bán các sản phẩm của mình
trên một cơ sở không phân biệt đối xử, và không chấp nhận việc giảm giá không
có tính chất kinh doanh.
6. Không phương hại đến các quyền hạn
chung hoặc đặc biệt nào do các quy định khác của Công ước giao cho; Xí nghiệp
sử dụng các quyền hạn cần thiết để điều hành các hoạt động kinh doanh của mình.
7. Xí nghiệp không được can thiệp vào
các hoạt động chính trị của các quốc gia thành viên và không để cho khuynh
hướng chính trị của quốc gia mà mình có quan hệ gây ảnh hưởng đến các quyết
định của mình. Các quyết định của Xí nghiệp chỉ dựa trên cơ sở các lý do thuộc
về thương mại mà Xí nghiệp xem xét một cách vô tư nhằm đạt đến các mục đích
được xác định ở Điều 1 của Phụ lục này.
ĐIỀU
13. Quy chế pháp lý, các quyền miễn trừ và đặc quyền
1. Để cho phép Xí nghiệp thi hành các
chức năng của mình, quy chế pháp lý, các quyền miễn trừ và đặc quyền được xác
định trong điều này được thừa nhận cho Xí nghiệp hưởng trên lãnh thổ của các
quốc gia thành viên. Để cho nguyên tắc này có hiệu lực, Xí nghiệp và các quốc
gia thành viên có thể ký kết các hiệp định đặc biệt mà họ thấy cần thiết.
2. Xí nghiệp có quyền về mặt pháp lý cần
thiết để thi hành các chức năng và thực hiện các mục đích của mình, và đặc biệt
có quyền:
a) Ký các hợp đồng và các thoả thuận
liên doanh hay các thoả thuận khác, kể cả các hiệp định với các quốc gia hay
các tổ chức quốc tế.
b) Mua sắm, thuê mướn, gìn giữ, và
chuyển nhượng các động sản và bất động sản;
c) Kiện tụng.
3. a) Xí nghiệp chỉ có thể bị kiện trước
các toà án có thẩm quyền ở một quốc gia thành viên mà trên lãnh thổ nước đó, xí
nghiệp:
i. Có một văn phòng, hay có các cơ sở ;
ii. Đã chỉ định một nhân viên để tiếp
nhận việc truyền đạt các bản tống đạt về tư pháp;
iii. Ký giao kèo về của cải hay dịch vụ;
iv. Phát hành các chứng khoán, hoặc
v. Thực hiện một hoạt động thương mại
dưới bất kỳ hình thức nào khác.
b) Các của cải và tài sản của xí nghiệp,
dù ở đâu và người giữ là ai, đều được miễn mọi hình thức cầm giữ hay mọi biện
pháp tịch thu tài sản khác chừng nào mà một bản án cuối cùng đối với Xí nghiệp
chưa được tuyên bố.
4. a) Của cải và tài sản của xí nghiệp,
dù ở đâu và do ai giữ, cũng được miễn không bị trưng thu, tịch thu, tước đoạt
hay phải chịu bất kỳ hình thức sai áp nào khác do một biện pháp thuộc quyền
hành pháp hay quyền lập pháp.
b) Của cải, tài sản của Xí nghiệp, dù ở
đâu và do ai giữ, cũng không phải chịu một dự kiểm soát, hạn chế, quy định hay
lệnh tạm hoãn nào mang tính chất phân biệt đối xử, dù thuộc loại nào.
c) Xí nghiệp và nhân viên của Xí nghiệp
tôn trọng các luật và quy định của bất kỳ quốc gia hay lãnh thổ nào mà ở đó, Xí
nghiệp hay nhân viên tiến hành các hoạt động công nghiệp và thương mại hay các
hoạt động khác.
d) Các quốc gia thành viên bảo đảm cho
xí nghiệp được hưởng tất cả các quyền, quyền miễn trừ và đặc quyền mà họ đã
đồng ý dành cho các thực thể hoạt động thương mại ở trên lãnh thổ của mình. Các
quyền, quyền miễn trừ và đặc quyền này được dành cho các Xí nghiệp theo các thể
thức không kém thuận lợi hơn các quyền dành cho các thực thể hoạt động thương
mại tương tự. Khi các quốc gia đồng ý cho các quốc gia đang phát triển hay các
thực thể thương mại của họ hưởng các quyền ưu tiên đặc biệt, thì Xí nghiệp cũng
được hưởng các đặc quyền này trên một cơ sở ưu tiên tương tự;
e) Các quốc gia thành viên có thể đồng ý
cho Xí nghiệp được hưởng các kích thích, quyền, đặc quyền và quyền miễn trừ đặc
biệt mà họ không buộc phải dành cho các thực thể thương mại khác hưởng.
5. Xí nghiệp thương lượng với các quốc
gia mà ở trên lãnh thổ các quốc gia đó, Xí nghiệp có các văn phòng và các cơ
sở, để được miễn tất cả mọi thứ thuế trực thu và gián thu.
6. Mỗi quốc gia thành viên thi hành các
biện pháp cần thiết để đem lại hiệu lực trong pháp luật của mình cho những
nguyên tắc đã được nêu trong Phụ lục này và thông váo cho Xí nghiệp biết những
biện pháp cụ thể mà họ đã định.
7. Xí nghiệp có thể từ bỏ bất kỳ đặc
quyền hay quyền miễn trừ nào do điều này do các hiệp định đặc biệt nói ở khoản
1 dành cho mình, trong phạm vi và theo các điều kiện do mình quy định.
MỤC
1. HOÀ GIẢI THEO ĐÚNG MỤC 1 CỦA PHẦN XV
ĐIỀU
1. Khởi đầu thủ tục
Nếu các bên trong một vụ tranh chấp thoả
thuận đưa ra hoà giải theo thủ tục được trù định ở mục này, theo đúng Điều 248,
thì bất kỳ bên tranh chấp nào đều có đề xuất thủ tục bằng một thông báo viết
gửi đến cho bên khác hay các bên khác trong vụ tranh chấp.
ĐIỀU
2. Danh sách các hoà giải viên
1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập và giữ
một bản danh sách các hoà giải viên. Mỗi quốc gia thành viên có quyền chỉ định
bốn hoà giải viên có tiếng là công minh nhất, có trình độ và vô tư nhất. Tên
của các nhân vật được chỉ định như vậy được ghi trên bản danh sách.
2. Nếu vào một thời điểm nào đó, số
lượng các hoà giải viên do một quốc gia thành viên chỉ định và thể hiện ở trên
bản danh sách dưới bốn người, thì quốc gia này có thể tiến hành việc chỉ định
bổ sung mà mình có quyền.
3. Tên của một hoà giải viên được ghi
trên bản danh sách cho đến khi bị quốc gia thành viên chỉ định người đó rút đi,
đương nhiên là hoà giải viên này tiếp tục giữ chức ở bất kỳ uỷ ban hoà giải nào
mà người này đã được cử, cho đến khi thủ tục tiến hành trước khi uỷ ban này
được hoàn thành.
ĐIỀU
3. Cơ cấu của uỷ ban hoà giải
Trừ khi các bên có thoả thuận khác, uỷ
ban hoà giải được lập ra theo các cách sau đây:
a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, uỷ ban
hoà giải gồm có năm uỷ viên.
b) Bên đề xuất thủ tục chỉ định hai hoà
giải viên được tuỳ ý lực chọn trên bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này,
và một trong hai hoà giải viên đó có thể là công dân của mình, trừ khi các bên
có thoả thuận khác.
Việc chỉ định này được ghi rõ trong thông
báo được trù định ở Điều 1 ;
c) Bên kia trong vụ tranh chấp, trong
một thời hạn 21 ngày, kể từ khi nhận được thông báo nói ở Điều 1, chỉ định hai
hoà giải viên theo cách đã trù định ở điểm b. Nếu việc chỉ định này không được
tiến hành trong thời hạn quy định, bên đề xuất thủ tục, trong tuần lễ tiếp sau
khi hết thời hạn này, có thể hoặc chấm dứt thủ tục bằng thông báo gửi cho bên
kia, hoặc yêu cầu Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành những bổ nhiệm người này
theo đúng điểm e;
d) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bổ
nhiệm người hoà giải cuối cùng, bốn hoà giải viên chỉ định một người thứ năm,
được lựa chọn trên danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này, người thứ năm này sẽ
là Chủ tịch. Nếu việc bổ nhiệm không được làm trong thời gian quy định, thì mỗi
bên, trong tuần lễ tiếp sau khi kết thúc thời hạn này, có thể yêu cầu Tổng thư
ký Liên hợp quốc tiến hành việc bổ nhiệm này theo đúng điểm e;
e) Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận
được một yêu cầu làm theo các điểm c hoặc điểm d. Tổng thư ký Liên hợp quốc
tiến hành việc bổ nhiệm cần thiết bằng cách lựa chọn, có tham khảo ý kiến với
các bên trong vụ tranh chấp, các nhân vật ghi ở bản danh sách nêu ở Điều 2 của
Phụ lục này ;
f) Cần bổ sung bất kỳ ghế nào bị trông
theo cách đã trù định cho việc bổ nhiệm ban đầu ;
g) Khi hai bên hay nhiều bên thoả thuận
cũng đứng về một phía thì họ cùng nhau chỉ định hai hoà giải viên. Khi hai hay
nhiều bên không cùng đứng về một phía hay không thể thoả thuận về điểm có đứng
về một phía hay không, thì họ chỉ định các hoà giải viên riêng lẻ;
h) Khi có quá hai bên không đứng về cùng
một phía hay không thể thoả thuận về điểm có đứng về một phía hay không, thì
các bên trong vụ tranh chấp áp dụng các điểm a đến f đến hết mức có thể.
ĐIỀU
4. Thủ tục
Trừ khi các bên hữu quan có thoả thuận
khác, uỷ ban hoà giải tự quyết định thủ tục của mình. Với sự thoả thuận của các
bên trong vụ tranh chấp, uỷ ban hoà giải có thể mời bất kỳ quốc gia thành viên
nào trình bày với mình những ý kiến của họ bằng lời hay bằng văn bản. Các quyết
định về thủ tục, các kiến nghị và báo cáo của uỷ ban được thông qua theo đa số
các uỷ viên của mình.
ĐIỀU
5. Giải pháp hoà giải
Uỷ ban có thể lưu ý các bên về mọi biện
pháp có thể có để làm dễ dàng cho giải pháp hoà giải vụ tranh chấp.
ĐIỀU
6. Các chức năng của uỷ ban
Uỷ ban lắng nghe các bên, xem xét các
đòi hỏi và ý kiến phản đối của họ và nêu ra các đề nghị nhằm giúp họ đạt tới
một giải pháp hoà giải vụ tranh chấp.
ĐIỀU
7. Báo cáo
1. Uỷ ban làm báo cáo trong vòng 12
tháng sau khi được lập ra. Báo cáo của uỷ ban bao gồm bất kỳ thoả thuận nào đạt
được và, nếu không có thoả thuận, các kết luận của uỷ ban về tất cả các điểm về
thực tế hay pháp lý có quan hệ tới đối tượng của vụ tranh chấp, cũng như những
khuyến nghị mà uỷ ban xét thấy thích hợp, nhằm đi tới một giải pháp hoà giải.
Báo cáo được gửi lên Tổng thư ký Liên hợp quốc và chuyển tới các bên tham gia
vụ tranh chấp.
2. Báo cáo của uỷ ban, kể cả mọi kết
luận hay khuyến nghị trong đó, không ràng buộc các bên.
ĐIỀU
8. Việc kết thúc thủ tục
Thủ tục hoà giải kết thúc khi vụ tranh
chấp đã được giải quyết khi các bên đã chấp nhận hay một bên đã bác bỏ các
khuyến nghị trong báo cáo qua con đường thông báo bằng văn bản gửi lên cho Tổng
thư ký Liên hợp quốc, hoặc là sau ba tháng kể từ ngày truyền đạt báo cáo cho
các bên.
ĐIỀU
9. Tiền thù lao và lệ phí
Tiền thù lao và lệ phí của Uỷ ban do các
bên tham gia tranh chấp chịu.
ĐIỀU
10. Quyền của các bên không theo thủ tục
Các bên tham gia tranh chấp, qua một
thoả thuận áp dụng chỉ cho vụ tranh chấp này, có thể thoả thuận bỏ qua bất kỳ
quy định nào của Phụ lục này.
MỤC
2. BẮT BUỘC THEO THỦ TỤC HOÀ GIẢI THEO ĐÚNG MỤC 3 CỦA PHẦN XV
ĐIỀU
11. Việc khởi đầu thủ tục
1. Theo đúng mục 3 của phần XV, bất kỳ
bên nào trong một vụ tranh chấp có thể đưa ra hoà giải theo thủ tục đã trù định
ở mục này, có thể bắt đầu thủ tục bằng một bản thông báo gửi cho bên kia hay
các bên kia trong vụ tranh chấp.
2. Bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp,
khi đã nhận được thông báo đã được trù định ở khoản 1, thì bắt buộc phải chấp
nhận thủ tục hoà giải.
ĐIỀU
12. Không có trả lời hay từ chối chấp hành thủ tục
Việc một hay nhiều bên tham gia vào vụ
tranh chấp không trả lời thông báo mở đầu một thủ tục hoà giải hay không chấp
nhận một thủ tục như thế, không phải là một trở ngại cho thủ tục.
ĐIỀU
13. Thẩm quyền
Trong trường hợp có tranh cãi về điểm,
liệu một uỷ ban hoà giải được lập nên theo mục này có thẩm quyền không, thì uỷ
ban này quyết định.
ĐIỀU
14. Áp dụng mục 1
Các Điều 2 đến 10 của mục 1 của Phụ lục
này được áp dụng với điều kiện tuân thủ các quy định của mục này.
QUY CHẾ CỦA
TOÀ ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN
ĐIỀU
1. Các quy định chung
1. Toà án quốc tế về luật biển được
thành lập và hoạt động theo đúng các quy định của Công ước và quy chế này.
2. Toà án đặt trụ sở tại thành phố tự do
và buôn bán Hăm-buốc thuộc nước Cộng hoà liên bang Đức.
3. Tuy nhiên, toà án có thể đặt trụ sở
và thi hành các chức năng ở nơi khác, nếu xét thấy tiện lợi hơn.
4. Việc đưa một vụ tranh chấp ra toà
phải do các phần XI và XV điều chỉnh.
MỤC
1. TỔ CHỨC CỦA TOÀ ÁN
ĐIỀU
2. Thành phần
1. Toà án là một tập thể gồm 21 thành
viên độc lập, được tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng
và liêm khiết, có năng lực rõ ràng trong lĩnh vực luật biển.
2. Thành phần của Toà án phải đảm bảo có
sự đại điện của các hệ thống pháp luật chủ yếu của thế giới và một sự phân chia
công bằng về mặt địa lý.
ĐIỀU
3. Các thành viên của Toà án
1. Toà án không thể có quá một công dân
của cùng quốc gia. Về phương diện này, một nhân vật có thể bị coi là công dân
của quá một quốc gia sẽ được coi như là công dân của quốc gia mà nhân vật đó
thường thi hành các quyền dân sự và chính trị của mình.
2. Mỗi nhóm theo địa lý do Đại hội đồng
Liên hợp quốc xác định phải có ít nhất là 3 thành viên ở trong Toà án.
ĐIỀU
4. Các việc ứng cử và bầu cứ
1. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ
định nhiều nhất là hai người có đủ các điều kiện được trù định ở Điều 2 của Phụ
lục này. Các thành viên của Toà án được tuyển lựa trên bản danh sách những
người đã được chỉ định như thế.
2. Ít nhất là ba tháng trước ngày bầu cử
Tổng thư ký Liên hợp quốc, nếu là cuộc bầu cử đầu tiên, hay thư ký của Toà án,
nếu là cuộc bầu cử sau, gửi giấy mời các quốc gia thành viên, trong một thời
hạn là hai tháng, thông báo danh sách các ứng cử viên của họ. Tổng thư ký hay
thư ký của Toà án lập ra một bản danh sách theo thứ tự a, b c tất cả những ứng
cử viên được chỉ định như vậy, có ghi rõ các quốc gia thành viên chỉ định họ,
và thông bao danh sách này cho các quốc gia thành viên trước ngày thứ bảy của
tháng cuối cùng trước ngày bầu cử.
3. Cuộc bầu cử đầu tiên diễn ra chậm
nhất là sáu tháng sau ngày Công ước có hiệu lực.
4. Các thành viên của Toà án được bầu
bằng cách bỏ phiếu kín. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong một hội nghị các
quốc gia thành viên do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập đối với trường hợp
bầu cử đầu tiên, và theo thủ tục do các quốc gia thành viên quy định trong
trường hợp các cuộc bầu cử tiếp sau. Ở mỗi hội nghị này, số đại biểu cần thiết
(quorum) của hội nghị gồm hai phần ba số quốc gia thành viên. Các thành viên
của Toà án được bầu là những ứng cử viên đạt được số phiếu bầu cao nhất và phải
được hai phần ba số quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu, đương nhiên là đa
số này phải gồm đa số các quốc gia thành viên.
ĐIỀU
5. Nhiệm kỳ
1. Các thành viên của Toà án được bầu
với nhiệm kỳ là chín năm và có thể được tái cử; tuy nhiên, đối với các thành
viên được bầu ở cuộc bầu cử đầu tiên, bảy người sẽ mãn nhiện kỳ sau ba năm và
bảy người khác sẽ mãn nhiệm kỳ sau sáu năm.
2. Các thành viên của Toà án mãn nhiệm
kỳ theo các thời hạn ban đầu là ba năm và sáu năm nói ở trên sẽ được chỉ định
qua rút thăm do Tổng thư ký Liên hợp quốc thực hiện ngay sau cuộc bầu cử đầu
tiên.
3. Các thành viên của Toà án giữ chức vụ
cho tới khi có người thay thế. Mỗi khi bị thay thế, họ tiếp tục xét xử các vụ
mà họ đang xét trước đó.
4. Nếu một số thành viên của Toà án từ
chức, đơn xin từ chức được gửi lên cho Chánh án Toà án. Ghế của thành viên trở
nên bị trống vào thời gian nhận được đơn xin từ chức.
ĐIỀU
6. Các ghế bị trống
1. Các ghế bị trống phải được bổ sung
theo phương pháp đã dùng cho cuộc bầu cử đầu tiên, với điều kiện phải theo quy
định sau đây: thư ký của Toà án tiến hành trong tháng tiếp theo ngày có ghế bị
trống việc mời theo quy định của Điều 4 của Phụ lục này và Chánh án Toà án quy
định thời gian bầu cử sau khi tham khảo ý kiến của các quốc gia thành viên.
2. Thành viên của Toà án được bầu thay
cho một thành viên chưa hết nhiệm kỳ hoàn thành nốt nhiệm vụ của người mình
thay thế.
ĐIỀU
7. Sự không thể kiêm nhiệm
1. Một thành viên của Toà án không thể
đảm nhiệm bất kỳ một chức vụ chính trị hay hành chính nào, cũng như không được
chủ động tham gia hay có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của một
xí nghiệp đang tiến hành thăm dò hoặc khai thác các tài nguyên ở biển hay ở
dưới đáy biển hoặc một việc sử dụng biển hay đáy biển vào mục đích thương mại
khác.
2. Một thành viên của Toà án không được
làm những nhiệm vụ đại diện, cố vấn hay luật sư trong bất cứ vụ kiện nào.
3. Trong trường hợp có nghi vấn về các
điểm này, Toà án quyết định theo đa số các thành viên khác có mặt.
ĐIỀU
8. Các điều kiện liên quan đến việc tham gia của các thành viên vào việc giải
quyết một vụ kiện nhất định
1. Một thành viên của Toà án không thể
tham gia vào việc giải quyết một vụ kiện nào mà trước đây ông ta đã tham dự với
tư cách đại diện, cố vấn hay luật sư của một trong các bên, hay với tư cách
thành viên của một Toà án quốc gia hay quốc tế hay với bất cứ danh nghĩa nào
khác.
2. Nếu vì một lý do đặc biệt, một thành
viên của Toà án thấy không nên dự vào việc giải quyết một vụ kiện nhất định,
thì ông ta báo cho Chánh án.
3. Nếu Chánh án thấy một thành viên của
Toà án, vì một lý do đặc biệt, không được ngồi xử trong một vụ kiện nhất định,
thì báo cho thành viên đó.
4. Trong trường hợp có nghi vấn về các
điểm này, Toà án quyết định theo đa số các thành viên khác có mặt.
ĐIỀU
9. Hậu quả do một thành viên của Toà án không đáp ứng các điều kiện cần thiết
Nếu theo ý kiến nhất trí của các thành
viên khác, một thành viên của Toà án đã không đáp ứng các điều kiện cần thiết,
thì Chánh án Toà án tuyên bố ghế của thành viên này trống.
ĐIỀU
10. Các đặc quyền và quyền miễn trừ
Trong khi thi hành các chức trách của
mình, các thành viên của Toà án được hưởng các đặc quyền và các quyền miễn trừ
ngoại giao.
ĐIỀU
11. Cam kết long trọng
Trước khi đảm nhận chức trách, bất kỳ
thành viên nào của Toà án cũng cần công khai cam kết long trọng thi hành các
quyền hạn của mình hoàn toàn vô tư và hết sức trung thực.
ĐIỀU
12. Chánh án, phó chánh án và thư ký toà án
1. Toà án bầu ra Chánh án và phó chánh
án với nhiệm kỳ 3 năm, các vị này có thể được bầu lại.
2. Toà án bổ nhiệm thư ký của Toà án và
có thể bổ nhiệm những viên chức khác như thế, nếu thấy cần thiết.
3. Chánh án và thư ký của Toà án làm
việc tại trụ sở của Toà án.
ĐIỀU
13. Số đại biểu cần thiết (quorum)
1. Tất cả các thành viên có mặt của Toà
án ngồi xử án, phải đủ 11 thành viên được bầu mới được lập Toà án.
2. Toà án quyết định những thành viên
nào có thể được sử dụng để xét một vụ tranh chấp nhất định nào đó, có tính đến
Điều 17 của Phụ lục này và sự cần thiết bảo đảm hoạt động tốt của các Viện nói
ở các Điều 14 và 15 của Phụ lục này.
3. Toà án quyết định về tất cả các tranh
chấp và về tất cả các đơn đã trình lên mình, trừ khi Điều 14 của Phụ lục này
được áp dụng hoặc trừ khi các bên yêu cầu áp dụng Điều 15 của cùng Phụ lục này.
ĐIỀU
14. Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển
Một Viện giải quyết các vụ tranh chấp
liên quan đến đáy biển được thành lập theo đúng Mục 4 của Phụ lục này. Thẩm
quyền, các quyền hạn và các chức năng của Viện được xác định trong Mục 5 của
Phần XI.
ĐIỀU
15. Các viện đặc biệt
1. Nếu thấy cần thiết, Toà án có thể lập
ra các viện, gồm ít nhất là ba thành viên được bầu để xét xử các loại vụ kiện
nhất định.
2. Toà án lập ra một viện để xét xử một
vụ tranh chấp nhất định được đệ trình lên Toà, nếu các bên yêu cầu. Thành phần
của viện này được Toà án quy định với sự thoả thuận của các bên.
3. Nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện,
mỗi năm Toà án lập ra một viện gồm năm thành viên được bầu để xét xử theo thủ
tục rút gọn. Ngoài ra có thêm hai thành viên được chỉ định để thay thế những
thành viên không có khả năng tham dự vào một vụ kiện nhất định.
4. Các Viện được trù định ở điều này
tiến hành xét xử, nếu các bên có quyền yêu cầu.
5. Bất kỳ phán quyết nào của một trong
số các viện đã được trù định ở điều này và Điều 14 của Phụ lục này đều được coi
như phán quyết của Toà án.
ĐIỀU
16. Quy chế của Toà án
Toà án xác định qua một quy chế, cách
thức thi hành các chức năng của mình. Đặc biệt là Toà án quy định thủ tục của
mình.
ĐIỀU
17. Các thành viên có quốc tịch của các bên
1. Thành viên có quốc tịch của một bên
nào đó trong số các bên của một vụ tranh chấp có quyền ngồi xử.
2. Khi xét xử một vụ tranh chấp, nếu Toà
án có một thành viên thuộc quốc tịch của một trong các bên, thì bất kỳ bên nào
khác trong vụ tranh chấp có thể chỉ định một người theo sự lựa chọn của mình để
tham gia xét xử với tư cách thành viên của Toà án.
3. Khi xét xử một vụ tranh chấp, nếu Toà
án không có một thành viên nào thuộc quốc tịch của các bên, thì mỗi bên trong các
bên này có thể chỉ định một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia xét xử
với tư cách thành viên của Toà án.
4. Điều này được áp dụng cho các viện
nói trong các Điều 14 và 15 của Phụ lục này. Trong trường hợp như vậy, Chánh án
Toà án sau khi trao đổi với các bên, yêu cầu một số thành viên đúng số lượng
cần thiết nhường chỗ cho các thành viên của Toà án thuộc quốc tịch của các bên
hữu quan và nếu không có hoặc trong trong trường hợp trở ngại, thì nhường chỗ
cho các thành viên được các bên này chỉ định một cách đặc biệt.
5. Khi nhiều bên cùng đứng về một phía
trong việc áp dụng các điều quy định nói trên, họ chỉ được coi như một bên.
Trong trường hợp nghi vấn, Toà án sẽ quyết định.
6. Các thành viên được chỉ định theo
đúng các khoản 2, 3 và 4 cần phải đáp ứng những điều kiện trong các Điều 2, 8
và 11 của Phụ lục này. Họ tham gia vào việc quyết định trong những điều kiện
hoàn toàn bình đẳng với đồng nghiệp của họ.
ĐIỀU
18. Thù lao
1. Mỗi thành viên của Toà án nhận một
khoản tiền lương hàng năm, cũng như một khoản trợ cấp đặc biệt cho mỗi ngày mà
họ làm nhiệm vụ của mình, miễn là tổng số tiền trợ cấp đặc biệt mỗi năm không
được vượt quá tổng số tiền lương hàng năm.
2. Chánh án được một khoản trợ cấp đặc
biệt hàng năm.
3. Phó chánh án nhận một khoản trợ cấp
đặc biệt cho mỗi ngày mà ông ta làm nhiệm vụ của chánh án.
4. Các thành viên được chỉ định theo
Điều 17 của Phụ lục này, ngoài các thành viên được bầu của Toà án, được phụ cấp
cho mỗi ngày mà họ thi hành các chức trách của họ.
5. Các khoản tiền lương, trợ cấp và phụ
cấp này được quy định lại theo từng thời gian, trong các cuộc họp của các quốc
gia thành viên, có tính đến khối lượng công việc của Toà án. Các khoản này
không thể bị giảm bớt trong suốt thời gian thi hành chức vụ.
6. Lương của thư ký Toà án được quy định
trong các cuộc họp của các quốc gia thành viên dựa trên đề nghị của Toà án.
7. Các quy định được thông qua trong các
cuộc hội nghị của các quốc gia thành viên ấn định các điều kiện, trong đó các
khoản tiền hưu được trợ cấp cho các thành viên của Toà án và cho thư ký Toà án
cũng như các điều kiện thanh toán các chi phí đi lại của họ.
8. Lương, trợ cấp và phụ cấp được miễn
mọi thứ thuế.
ĐIỀU
19. Các kinh phí của Toà án
1. Các kinh phí của Toà án do các quốc
gia thành viên và Cơ quan quyền lực đảm nhận trong các điều kiện và theo cách
thức được quyết định trong các cuộc hội nghị của các quốc gia thành viên.
2. Khi một thực thể không phải là một
quốc gia thành viên hay Cơ quan quyền lực, là một bên trong một vụ tranh chấp
đưa ra Toà án xét xử, thì Toà án quyết định phần đóng góp của bên này vào các
kinh phí của Toà án.
MỤC
2. THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
ĐIỀU
20. Quyền được đưa vấn đề ra Toà án
1. Toà án được để ngỏ cho các quốc gia
thành viên.
2. Toà án được để ngỏ cho các thực thể
không phải là các quốc gia thành viên trong tất cả các trường hợp đã được quy
định rõ trong phần XI hay cho mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thoả thuận
khác, giao cho Toà án một thoả quyền được tất cả các bên trong vụ tranh chấp
thoả thuận.
ĐIỀU
21. Thẩm quyền
Toà án có thẩm quyền đối với tất cả các
vụ tranh chấp và tất cả các yêu cầu được đưa ra Toà theo đúng Công ước, và đối
với tất cả các trường hợp được trù định rõ trong mọi thoả thuận khác, giao thẩm
quyền cho Toà án.
ĐIỀU
22. Việc đưa ra Toà án các vụ tranh chấp liên quan đến các thoả thuận khác
Nếu được sự thoả thuận của tất cả các
bên trong một hiệp ước hay một Công ước đã có hiệu lực có quan hệ đến một vấn
đề do Công ước đề cập, thì bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng hiệp ước hoặc Công ước đó có thể được đưa ra Toà án theo đúng như
điều đã thoả thuận.
ĐIỀU
23. Luật áp dụng
Toà án phán quyết về mọi tranh chấp và
về mọi đơn từ theo đúng Điều 293.
MỤC
3. THỦ TỤC
ĐIỀU
24. Việc khởi tố
1. Tuỳ theo trường hợp, các vụ tranh
chấp có thể được đưa ra Toà án hoặc thông qua về một thoả hiệp dựa vào trọng
tài hoặc qua đơn thỉnh cầu gửi cho thư ký Toà án. Trong cả hai trường hợp, nội
dung của vụ tranh chấp và các bên cần được ghi rõ.
2. Thư ký Toà án thông báo ngay thoả
hiệp dựa vào trọng tài hay đơn thỉnh cầu cho các bên hữu quan.
3. Thư ký Toà án cũng thông báo về thoả
thiệp dựa vào trọng tài hay đơn thỉnh cầu nói trên cho các quốc gia thành viên.
ĐIỀU
25. Biện pháp đảm bảo
1. Theo đúng Điều 290, Toà án và Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển có quyền quyết định các biện
pháp bảo đảm.
2. Nếu Toà án không mở phiên xử, hoặc
nếu số uỷ viên có mặt thấp hơn số thẩm phán cần thiếu thì các biện pháp bảo đảm
sẽ do Viện thủ tục rút gọn được lập ra theo đúng Điều 15, khoản 3 của Phụ lục
này quyết định. Mặc dù có Điều 15, khoản 4 của chính Phụ lục này, các biện pháp
bảo đảm này có thể được quy định theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh
chấp. Các biện pháp này phải phục tùng sự đánh giá và xem xét lại của Toà án.
ĐIỀU
26. Phiên toà
1. Các phiên toà phải do chính Chánh án
Toà án chủ tọa, hay nếu Chánh án bận, thì do phó chánh án chủ toạ; trong trường
hợp cả hai người bận, thì phiên toà do thẩm phán lâu năm nhất trong số các thẩm
phán của Toà có mặt chủ toạ.
2. Phiên toà phải mở công khai, trừ khi Toà
án có quyết định khác, hoặc trừ khi các bên yêu cầu xử kín.
ĐIỀU
27. Điều hành vụ kiện
Toà án ra các quyết định về việc điều
hành vụ kiện và xác định các hình thức và thời hạn mà trong đó mỗi bên cuối
cùng phải trình bày các chứng cứ của mình; Toà án thi hành mọi biện pháp cần
thiết cho việc quản lý các chứng cứ.
ĐIỀU
28. Vắng mặt
Khi một trong các bên không ra Toà án
hay không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà án tiếp
tục trình tự tố tụng và ra quyết định. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên
không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở trình tự tố tụng. Trước khi ra
quyết định, Toà án phải biết chắc chắn rằng không những Toà án có thẩm quyền
xét xử, vụ tranh chấp mà còn bảo đảm rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp
lý.
ĐIỀU
29. Đa số cần thiết để ra quyết định
1. Toà án ra các quyết định theo đa số
các thành viên có mặt.
2. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau,
phiếu của Chánh án hay của người thay thế Chánh án là lá phiếu quyết định.
ĐIỀU
30. Bản án
1. Bản án phải nêu rõ căn cứ
2. Cần ghi tên các thành viên của Toà án
đã tham gia vào bản án.
3. Nếu bản án không thể hiện hoàn toàn
hay từng phần ý kiến nhất trí của các thành viên Toà án, thì bất kỳ thành viên
nào cũng có thể đính theo bản trình bày ý kiến riêng hay bất đồng của mình.
4. Bản án phải được Chánh án và thư ký
Toà án ký. Bản án được đọc trong một phiên công khai, các bên tham gia tranh
chấp phải được báo trước.
ĐIỀU
31. Việc yêu cầu được tham gia
1. Trong một vụ tranh chấp, khi một quốc
gia thành viên cho rằng một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng
chạm, thì có thể gửi lên cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin tham gia.
2. Toà án phát biểu ý kiến về đơn thỉnh
cầu này.
3. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu,
thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc
gia xin tham gia trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội
dung của việc tham gia.
ĐIỀU
32. Quyền can thiệp và những vấn đề giải thích hay áp dụng
1. Khi một vấn đề về giải thích hay áp dụng
Công ước được đặt ra, thư ký Toà án lập tức thông báo cho tất cả các quốc gia
thành viên.
2. Trong khuôn khổ của các Điều 21 và 22
của Phụ lục này, khi việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế được đặt
ra, thư ký Toà án thông báo điều đó cho tất cả các bên tham gia vào điều ước
đó.
3. Mỗi bên nói ở các khoản 1 và 2 có
quyền tham dự vào vụ kiện, và nếu bên đó thi hành quyền hạn này, thì nội dung
giải thích trong bản án cũng có tính chất bắt buộc đối với bên đó.
ĐIỀU
33. Tính chất quyết định về hiệu lực bắt buộc của các phán quyết
1. Phán quyết của Toà án có tính chất
tối hậu và tất cả các bên trong vụ tranh chấp đều phải tuân theo.
2. Phán quyết của Toà án chỉ có tính
chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp và đối với trường hợp đã được quyết
định.
3.Trong trường hợp có sự tranh cãi về ý
nghĩa và phạm vi của phán quyết, thì Toà án có trách nhiệm giải thích theo yêu
cầu của bất kỳ bên nào.
ĐIỀU
34. Án phí
Nếu Toà án không có quyết định khác, thì
mỗi bên phải đảm nhận phần án phí của mình.
MỤC
4. VIỆN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁY BIỂN
ĐIỀU
35. Thành phần
1. Viện giải quyết các tranh chấp liên
quan đến đáy biển nói trong Điều 14 của Phụ lục này gồm có 11 thành viên do Toà
án lựa chọn trong các thành viên đã được bầu của Toà án, theo đa số các thành
viên đó.
2. Trong việc lựa chọn các thành viên
của Viện, sự đại diện cho các hệ thống pháp luật chủ yếu của thế giới và việc
phân chia công bằng về địa lý phải được bảo đảm. Đại hội đồng của Cơ quan quyền
lực có thể định ra các quyết nghị có tính chất chung về sự đại diện và phân bố
nói trên.
3. Các thành viên của Viện được lựa chọn
ba năm một lần và chỉ có thể được lựa chọn thêm một nhiệm kỳ.
4. Viện bầu ra chủ tịch trong số các
thành viên của mình. Chỉ tịch đảm nhận chức trách trong nhiệm kỳ của Viện.
5. Nếu các vụ kiện đang giải quyết chưa
xong vào cuối nhiệm kỳ ba năm của Viện, thì viện phải hoàn thành việc xét xử
với thành phần ban đầu của mình.
6. Khi một ghế của Viện bị trống, Toà án
chọn trong số các thành viên đã được bầu của mình một người kế tục để hoàn
thành nhiệm kỳ của người tiền nhiệm của người ấy.
7. Để lập ra Viện, phải có một số lượng
cần thết là bảy người do Toà án lựa chọn trong các thành viên của mình.
ĐIỀU
36. Các viện ad-hoc (đặc biệt)
1. Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên
quan đến đáy biển lập ra một viện ad-hoc (đặc biệt), gồm có ba thành viên trong
số thành viên của mình, để xét xử một vụ tranh chấp nhất định mà viện có trách
nhiệm theo đúng Điều 188, khoản 1, điểm b. Thành phần của Viện này do Viện giải
quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển quyết định, với sự đồng ý của
các bên hữu quan.
2. Nếu các bên không thoả thuận về thành
phần của viện ad-hoc (đặc biệt) đã nêu ở khoản 1, thì mỗi bên trong vụ tranh
chấp, chỉ định một thành viên và thành viên thứ 3 được chỉ định qua thoả thuận,
hoặc nếu một bên không chỉ định thành viên, thì Chủ tịch của Viện giải quyết
các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển phải tiến hành ngay việc chỉ định
thành viên này hoặc các thành viên này, lựa chọn trong số các thành viên của Viện,
sau khi đã tham khảo ý kiến của các bên.
3. Các thành viên của viện ad-hoc (đặc
biệt) không được làm việc cho một bên tranh chấp nào, cũng không được là công
dân của một quốc gia nào trong số các quốc gia tranh chấp.
ĐIỀU
37. Quyền đưa vấn đề ra Viện
Viện để ngỏ cho các quốc gia thành viên,
cho Cơ quan quyền lực và các thực thể hay cá nhân nói ở Mục 5 của phần XI.
ĐIỀU
38. Luật áp dụng
Ngoài các quy định của Điều 293, Viện áp
dụng:
a) Các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực đã được thông qua theo đúng Công ước; và
b) Các điều khoản của bất kỳ hợp đồng
nào liên quan đến các hoạt động tiến hành trong vùng, về tất cả các vấn đề liên
quan đến hợp đồng nói trên.
ĐIỀU
39. Việc thi hành các quyết định của Viện
Các quyết định của Viện có hiệu lực ở
trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên như các quyết định hay lệnh của cơ
quan pháp luật cao nhất của quốc gia thành viên trên lãnh thổ mà ở đó phải thi
hành các quyết định nói trên.
ĐIỀU
40. Việc áp dụng các mục khác của Phụ lục này
1. Các quy định của các mục khác trong
Phụ lục này không mâu thuẫn với mục này được áp dụng cho Viện.
2. Trong việc thi hành các quyền hạn về
tư vấn của mình. Viện dựa theo các quy định của Phụ lục này liên quan đến thủ
tục tiến hành trước Toà án, trong phạm vi mà Viện thấy rằng các quy định này có
thể áp dụng được.
MỤC
5. CÁC ĐIỀU SỬA ĐỔI
ĐIỀU
41. Các điều sửa đổi
1. Các điều sửa đổi đối với Phụ lục này,
ngoài các điều sửa đổi liên quan đến Mục 4, chỉ có thể được thông qua theo đúng
Điều 313 hoặc bằng consensus (thoả thuận) tại một hội nghị được triệu tập theo
đúng Công ước.
2. Các điều sửa đổi đối với Mục 4 chỉ có
thể được thông qua theo đúng Điều 314.
3. Toà án có thể qua trao đổi bằng văn
bản đưa ra cho các quốc gia thành viên xét các đề nghị sửa đổi đối với Phụ lục
này mà Toà án thấy cần thiết theo đúng khoản 1 và 2.
ĐIỀU
1. Việc khởi tố
Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV, bất
kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp đều có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết
bằng thủ tục trọng tài đã trù định trong Phụ lục này bằng một thông báo viết
gửi tới bên kia hoặc hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp. Thông báo có kèm
theo bản trình bày các yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó.
ĐIỀU
2. Danh sách các trọng tài
1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và giữ
một bản danh sách các trọng tài. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định bốn
trọng tài có kinh nghiệm về những vấn đề biển và nổi tiếng nhất về sự công
bằng, về năng lực và liêm khiết. Tên của những người được chỉ định như vậy được
ghi rõ trên một bản danh sách.
2. Vào một thời điểm nào đó, nếu số
lượng trọng tài được một quốc gia thành viên chỉ định và có trong bản danh sách
dưới bốn người thì quốc gia này có quyền tiến hành việc chỉ định bổ sung mà
mình có quyền.
3. Tên của một trọng tài được ghi ở trên
bản danh sách cho đến khi quốc gia thành viên đã chỉ định người trọng tài này
rút người đó khỏi danh sách; dĩ nhiên, người trọng tài này phải tiếp tục làm
nhiệm vụ trong mọi Toà trọng tài mà họ được cử cho đến khi thủ tục tiến hành
trước toà này kết thúc.
ĐIỀU
3. Thành lập Toà trọng tài
Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục
này, trừ khi các bên liên quan có thoả thuận khác, Toà trọng tài được lập ra,
như sau:
a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà
trọng tài gồm có năm thành viên;
b) Bên nguyên cử một thành viên mà mình
tuỳ ý lựa chọn ở trên bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này và người đó có
thể là công dân của mình. Tên của người đó được ghi trong bản thông báo nói
trong Điều 1 của Phụ lục này;
c) Bên bị trong vụ tranh chấp cử trong
thời hạn 30 ngày, tính từ khi nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này
một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn trên bản danh sách, và người đó có thể là
công dân của mình. Nếu họ không cử người trong thời hạn nói trên, thì bên
nguyên có thể yêu cầu tiến hành việc cử thành viên đó theo đúng điểm c trong
hai tuần lễ sau khi hết thời hạn này;
d) Ba thành viên khác được các bên thoả
thuận cử ra. Họ được các bên tuỳ ý chọn trên bản danh sách và là công dân của
các quốc gia thứ ba, trừ khi các bên có thoả thuận khác. Các bên cử Chánh toà
của Toà trọng tài trong số ba thành viên đó. Nêu trong thời hạn 60 ngày kể từ
ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, các bên hữu quan không
thể thoả thuận về việc chỉ định một hay nhiều thành viên của Toà mà họ phải cử theo
thoả thuận chung hay là về việc cử Chánh toà, thì theo yêu cầu của bất kỳ bên
nào trong vụ tranh chấp, cần tiến hành cử 1 người hay những người đó theo đúng
điểm e Yêu cầu đó phải được đưa lên trong hai tuần sau khi hết hạn 60 ngày này;
e) Trừ khi các bên hữu quan thoả thuận
giao cho một người hoặc cho một quốc gia thứ ba do họ lựa chọn tiến hành các
việc cử người cần thiết theo điểm c và d, Chánh án của Toà án quốc tế về luật
biển cần tiến hành việc hành. Nếu Chánh án bận hoặc là công dân của một trong các
bên trong vụ tranh chấp, thì việc cử người giao cho thành viên thâm niên nhất
của Toà án quốc tế về luật biển sẵn sàng làm việc này và không phải là công dân
của một trong các bên hữu quan. Việc cử người tiến hành bằng cách lựa chọn trên
bản danh cách nói ở Điều 2 của Phụ lục này trong một thời hạn là 30 ngày kể từ
ngày nhận được đơn yêu cầu và có tham kháo ý kiến của các bên. Các thành viên
được cử như thế cần phải thuộc các quốc tịch khác nhau, không được làm việc cho
một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ
của một trong các bên hữu quan đó và không phải là công dân của một bên nào;
f) Mọi ghế bị trống đều được cử người
thay thế theo các quy định cho lần bổ nhiệm đầu tiên ;
g) Các bên cùng một phía cùng nhau cử một
thành viên của Toà qua thoả thuận chung. Khi có nhiều bên đối lập nhau hay
trong trường hợp không thống nhất về điểm liệu các bên có đứng vào cùng một
phía không, thì mỗi bên trong số họ cử một thành viên của Toà. Số lượng thành
viên của Toà do các bên cử riêng rẽ bao giờ cũng phải ít hơn một người so với
số lượng các thành viên của Toà được các bên hữu quan cùng cử ;
h) Các điểm a đến f được áp dụng đến hết
mức có thể vào các vụ tranh chấp xảy ra có quá hai bên hữu quan trở lên.
ĐIỀU
4. Các chức năng của Toà trọng tài
Một toà trọng tài được thành lập theo
Điều 3 của Phụ lục này thi hành các chức năng của mình theo đúng Phụ lục này và
quy định khác của Công ước.
ĐIỀU
5. Thủ tục
Trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà
trọng tài tự quy định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ
các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình.
ĐIỀU
6. Những nghĩa vụ của các bên
Các bên tham gia tranh chấp tạo điều
kiện dễ dàng cho Toà trọng tài thực hiện nhiệm vụ của mình và, đặc biệt là,
theo đúng pháp luật của mình và bằng tất cả các phương tiện thuộc quyền sử dụng
của mình, cần phải:
a) Cung cấp cho Toà mọi tài liệu, các
điều kiện dễ dàng và các thông tin thích hợp; và b) Cho Toà, khi điều đó là cần
thiết, có khả năng dẫn ra và nghe người làm chứng hoặc các chuyên gia và đến
tại chỗ.
ĐIỀU
7. Lệ phí
Trừ khi Toà trọng tài có quyết định khác
vì có những hoàn cảnh đặc biệt của vụ việc, lệ phí của Toà, kể ca thù lao cho
các thành viên của Toà, phải do các bên trong vụ tranh chấp chịu ngang nhau.
ĐIỀU
8. Đa số cần thiết phải thông qua các bản án
Các quyết định của Toà trọng tài được
thông qua theo đa số các thành viên của Toà. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng
của dưới một nửa số thành viên không cản trở Toà ra quyết định. Trong trường
hợp số phiếu ngang nhau, lá phiếu của Chánh toà là lá phiếu quyết định.
ĐIỀU
9. Vắng mặt
Khi một trong số các bên trong vụ tranh
chấp không ra Toà hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể
yêu cầu Toà tiếp tục trình tự tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay
việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố
tụng. Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không
những Toà có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng đơn kiện có
cơ sở về mặt thực tế pháp lý.
ĐIỀU
10. Bản án
Bản án của Toà trọng tài được giới hạn ở
nội dung của vụ tranh chấp và phải nêu căn cứ. Bản án nêu tên của các thành
viên của Toà trọng tài đã tham gia xét xử và thời gian ra bản án. Bất kỳ thành
viên nào của Toà cũng có thể đính thêm vào bản án trình bày ý kiến riêng hoặc
bất đồng của mình.
ĐIỀU
11. Tính chất tối hậu của bản án
Bản án có tính chất tối hậu và không
được kháng cáo, trừ khi các bên trong vụ tranh chấp phải tuân theo bản án này.
ĐIỀU
12. Giải thích hoặc thi hành bản án
1. Bất kỳ tranh cãi nào có thể xảy ra
giữa các bên trong vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay cách thi
hành bản án, đều có thể được bên này hoặc bên kia đưa ra để Toà trọng tài đã
tuyên án quyết định. Vì mục đích ấy, các ghế bị trống đều được cử người thay
theo phương pháp được trù định cho việc bổ nhiệm ban đầu các thành viên của
Toà.
2. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh
chấp thoả thuận, thì bất kỳ tranh cãi nào thuộc loại này đều có thể được đệ
trình lên một Toà khác theo đúng Điều 287.
ĐIỀU
13. Áp dụng đối với các thực thể không phải là các quốc gia thành viên
Phụ lục này được áp dụng mutatis
mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho mọi vụ tranh chấp nào
liên quan đến các thực thể không phải là quốc gia thành viên.
ĐIỀU
1. Việc khởi tố
Với điều kiện tuân thủ phần XV, mọi bên
tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các
điều khoản của Công ước liên quan đến: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, hoặc 4- Hàng hải,
kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận chìm, có thể đưa vụ tranh chấp
ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đặc biệt được trù định trong Phụ lục này
bằng thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp; thông
báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các căn cứ của các yêu sách đó.
ĐIỀU
2. Danh sách các chuyên viên
1. Một danh sách chuyên viên được lập ra
và được duy trì cho mỗi lĩnh vực sau đây: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, 4- Hàng hải,
kể cả nạn ô nhiễm do tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra.
2. Về mặt đánh bắt hải sản, danh sách
chuyên viên do Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc lập ra và
duy trì; về mặt bảo vệ và phòng giữ môi trường biển, do Chương trình của Liên
hợp quốc về môi trường; về mặt hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do tàu thuyền hay do
nhận chìm gây ra, thì do Tổ chức hàng hải quốc tế hoặc, tuỳ theo mỗi một trường
hợp, do cơ quan phụ trợ thích hợp mà Tổ chức, Chương trình hoặc Uỷ ban nói trên
đã uỷ quyền thực hiện chức năng này.
3. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ
định trong một lĩnh vực đó hai chuyên viên có năng lực được xác minh và thừa
nhận chung về pháp lý, khoa học hay kỹ thuật trong lĩnh vực nói trên và là
những người nổi tiếng công minh, liêm khiết nhất. Trong mỗi lĩnh vực, bản danh
sách có tên những người được chỉ định đó.
4. Ở vào một thời điểm nào đó, nếu số
lượng chuyên viên do một quốc gia thành viên chỉ định và thể hiện trên một bản
danh sách dưới hai người, thì quốc gia thành viên này có thể tiến hành việc chỉ
định bổ sung và họ có quyền.
5. Tên của một chuyên viên được ghi trên
bản danh sách cho đến khi bị bên đã chỉ định chuyên viên đó rút đi, dĩ nhiên là
chuyên viên này phải tiếp tục thi hành nhiệm vụ của mình trong mọi Toà trọng
tài đặc biệt cho đến lúc thủ tục tố tụng trước Toà này đã kết thúc.
ĐIỀU
3. Cơ cấu của Toà trọng tài đặc biệt
Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục
này, trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài đặc biệt được cấu thành
như sau:
a. Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà
trọng tài đặc biệt gồm có năm thành viên;
b. Bên nguyên cử hai thành viên được lựa
chọn tuỳ ý ở bản danh sách hay các bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này
liên quan đến nội dung của vụ tranh chấp, một trong hai người này có thể là
công dân của nước đó. Tên của các thành viên được cử như vậy, được ghi trong
thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này;
c. Bên bị trong vụ tranh chấp, trong
thời hạn 30 ngày tính từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này,
cử hai thành viên do họ tuỳ ý chọn trên danh sách hay các danh sách liên quan
đến nội dung của vụ tranh chấp, và trong hai người đó, một người có thể là công
dân của nước ấy. Nếu bên bị không cử người trong thời hạn này, thì bên nguyên
có thể trong hai tuần sau khi hết hạn, yêu cầu tiến hành việc cử người theo
đúng điểm e;
d. Các bên thoả thuận cử Chánh toà trọng
tài đặc biệt được lựa chọn tuỳ ý trên danh sách thích hợp và là công dân của
một nước thứ ba, trừ khi các bên có thoả thuận khác. Trong một thời hạn là 30
ngày kể từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, nếu các bên
không thể thoả thuận việc cử Chánh toà, thì việc cử này được tiến hành theo
đúng điểm e theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. Yêu cầu đó
được gửi đến trong vòng hai tuần sau khi hết thời hạn kể trên;
e. Trừ khi các bên thoả thuận giao phó
cho một người hay một quốc gia thứ ba do họ lựa chọn, tiến hành việc cử người,
Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành việc cử các uỷ viên cần thiết này trong
thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu theo các điểm c hay d. Việc của
người này được tiến hành bằng cách lựa chọn ở trên bản danh sách hay các bản
danh sách chuyên viên thích hợp nói ở Điều 2 của Phụ lục này, có trao đổi với
các bên tranh chấp và với tổ chức quốc tế thích hợp. Các uỷ viên được cử như
vậy phải thuộc quốc tịch khác nhau, không được làm việc cho một bên nào trong
vụ tranh chấp; họ không được trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ của một trong
số các bên trong vụ tranh chấp và không phải là công dân của một trong các bên
này;
f. Mọi ghế bị trống đều được cử người
thay theo cách thức được trù định cho lần cử đầu tiên;
g. Các bên cùng đứng về một phía cũng
nhau thoả thuận cử hai thành viên của Toà. Khi có nhiều bên đối lập nhau, hay
trong trường hợp không thống nhất về điểm liệu các bên có cùng một phía hay
không, thì mỗi bên trong số họ cử một thành viên của Toà;
h. Các điểm a đến f được áp dụng để hết
mức có thể đối với các vụ tranh chấp có quá hai bên hữu quan trở lên.
ĐIỀU
4. Các quy định chung
Các Điều 4 đến 13 của Phụ lục VII được
áp dụng mutatis mutadis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) vào thủ tục
trọng tài đặc biệt nói ở trong Phụ lục này.
ĐIỀU
5. Việc xác lập các sự kiện
1. Các bên của một vụ tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước về: 1- Việc đánh
bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, 3- Hàng hải, kể cả nạn
ô nhiễm môi trường do tàu hay do nhận chìm gây ra, có thể, vào bất cứ lúc nào,
thoả thuận yêu cầu một Toà trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Điều 3
của Phụ lục này tiến hành một cuộc điều tra và xác lập các sự kiện từ nguồn gốc
của vụ tranh chấp.
2. Trừ khi các bên có thoả thuận khác,
những sự kiện do Toà trọng tài đặc biệt xác nhận theo khoản 1 được coi là những
chứng cứ đã được xác minh giữa các bên hữu quan.
3. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh
chấp yêu cầu thì Toà trọng tài đặc biệt có thể thảo ra các khuyến nghị; những
khuyến nghị này không có giá trị quyết định mà chỉ là cơ sở để các bên tiến
hành xem xét lại những vấn đề làm phát sinh ra tranh chấp.
4. Với điều kiện tuân thủ khoản 2, Toà
trọng tài đặc biệt cần tuân thủ Phụ lục này, trừ khi các bên có thoả thuận
khác.
SỰ THAM GIA
CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
ĐIỀU
1. Việc sử dụng thuật ngữ "tổ chức quốc tế"
Trong Điều 305 và Phụ lục này, thuật ngữ
"các tổ chức quốc tế" được hiểu là một tổ chức liên chính phủ được
các quốc gia lập nên, các quốc gia này trao cho tổ chức đó thẩm quyền về các
vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký kết các hiệp ước về vấn đề này.
ĐIỀU
2. Việc ký kết
Một tổ chức quốc tế có thể ký Công ước,
nếu đa số các quốc gia hội viên của tổ chức này là những bên ký kết Công ước,
một tổ chức quốc tế ra một tuyên bố nói rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà
các quốc gia hội viên ký Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này,
cũng như tính chất và phạm vi của thẩm quyền này.
ĐIỀU
3. Việc xác nhận chính thức và việc gia nhập
1. Một tổ chức quốc tế có thể gửi lưu
chiểu một văn bản xác nhận chính thức hay gia nhập, nếu đa số các quốc gia hội
viên của nó gửi hoặc đã gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay gia nhập của
mình.
2. Văn bản của tổ chức quốc tế gửi lưu
chiểu lên cần phải có các cam kết và tuyên bố đã quy đinh ở Điều 4 và 5 của Phụ
lục này.
ĐIỀU
4. Phạm vi tham gia, các quyền và nghĩa vụ
1. Đối với các vấn đề mà các quốc gia
hội viên và là thành viên của Công ước đã giao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế
thì văn bản xác nhận chính thức hoặc gia nhập do tổ chức quốc tế đó gửi lưu
chiểu cần có lời cam kết chấp nhận các quyền và nghĩa vụ đã được trù định trong
Công ước đối với các quốc gia.
2. Một tổ chức quốc tế là thành viên của
Công ước trong phạm vi các giới hạn thẩm quyền được xác định trong các tuyên
bố, thông tin hoặc thông báo nói ở Điều 5 của Phụ lục này.
3. Đối với các vấn đề đã được các quốc
gia hội viên là thành viên của Công ước trao thẩm quyền cho thì một tổ chức
quốc tế sẽ sử dụng các quyền và làm tròn nghĩa vụ, mà lẽ ra theo Công ước là
những quyền và nghĩa vụ của các quốc gia này. Các quốc gia hội viên của một tổ
chức quốc tế không sử dụng thẩm quyền của mình mà trao cho tổ chức này.
4. Không thể có trường hợp nào mà sự
tham gia của một tổ chức quốc tế lại dẫn đến một sự đại diện cao hơn sự đại
diện mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước có thể đòi hỏi. Quy
định này đã được áp dụng, đặc biệt là đối với các quyền ra các quyết định.
5. Việc tham gia của một tổ chức quốc tế
không đem lại cho các quốc gia hội viên của tố chức đó không phải là thành viên
của Công ước một quyền nào do Công ước trù định.
6. Trong trường hợp có tranh chấp giữa
những nghĩa vụ thuộc bổn phận của một tổ chức quốc tế theo Công ước và những
nghĩa vụ thuộc bổn phận của tổ chức này theo điều ước đã thành lập ra nó hoặc
theo mọi văn bản có liên quan, thì các nghĩa vụ do Công ước quy định có giá trị
cao hơn.
ĐIỀU
5. Các tuyên bố, thông báo và thông tin
1. Tài liệu xác nhận chính thức hoặc gia
nhập của một tổ chức quốc tế cần có một tuyên bố xác định rõ các vấn đề thuộc
phạm vi Công ước mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước đã trao
thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này.
2. Một quốc gia hội viên của một tổ chức
quốc tế, khi phê chuẩn hay gia nhập Công ước, hoặc khi tổ chức quốc tế gửi lưu
chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia nhập, phải làm một tuyên bố xác định
các vấn đề đề cập trong Công ước mà tổ chức đã được trao thẩm quyền, vào ngày
muộn nhất trong hai thời điểm nói trên.
3. Các quốc gia thành viên là hội viên
của một tổ chức quốc tế, thành viên của Công ước được coi như có thẩm quyền về
tất cả các vấn đề thuộc phạm vi của Công ước mà các quốc gia nói trên đã không
ghi một cách rõ ràng rằng, họ đã trao thẩm quyền cho tổ chức bằng một tuyên bố,
thông tin hoặc thông báo làm theo đúng điều này.
4. Tổ chức quốc tế và các quốc gia hội
viên là thành viên của Công ước thông báo ngay cho người lưu chiểu bất kỳ sự
sửa đổi nào về việc phân chia các thẩm quyền được ghi rõ trong các tuyên bố nói
ở khoản 1 và 2, kể cả những việc chuyển giao thẩm quyền mới.
5. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng
có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên của tổ chức này là
thành viên của Công ước, chỉ rõ ai trong tổ chức hay trong các quốc gia hội
viên này có thẩm quyền đối với một vấn đề nhất định được đặt ra. Tổ chức này và
các quốc gia hội viên hữu quan thông báo tình hình này, trong một thời hạn hợp
lý. Họ cũng có thể tự mình chủ động thông báo một tình hình đó.
6. Tính chất và vi phạm của những thẩm
quyền được chuyển giao cần phải được xác định rõ trong các tuyên bố, thông tin
và thông báo làm theo điều này.
ĐIỀU
6. Trách nhiệm
1. Các bên có thẩm quyền theo Điều 5 của
Phụ lục này có trách nhiệm về mọi thiếu sót đối với những nghĩa vụ nảy sinh từ
Công ước và đối với tất cả các vi phạm khác đối với Công ước.
2. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng
có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế hoặc các quốc gia hội viên của tổ chức đó là
thành viên của Công ước chỉ rõ người có trách nhiệm trong một trường hợp riêng
biệt. Tổ chức và các quốc gia hội viên hữu quan cần phải thông báo tình hình
này. Nếu không thực hiện điều này trong một thời gian hợp lý, hoặc nếu họ thông
báo các thông tin trái ngược nhau, thì họ phải cùng nhau và liên đới chịu trách
nhiệm.
ĐIỀU
7. Giải quyết các vụ tranh chấp
1. Khi gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận
chính thức hay gia nhập của mình, hoặc vào bất kỳ thời điểm nào tiếp sau, một
tổ chức quốc tế có quyền tự do lựa chọn, qua tuyên bố bằng văn bản, một hoặc
nhiều phương pháp đã nêu ở Điều 287, khoản 1 điểm a, c, và để giải quyết các
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước.
2. Phần XV được áp dụng mutatis mutadis
(với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho bất kỳ vụ tranh chấp nào giữa
các thành viên của Công ước mà một hoặc nhiều thành viên đó là các tổ chức quốc
tế.
3. Khi một tổ chức quốc tế và một hoặc
nhiều quốc gia hội viên của tổ chức này đứng về một phía, thì coi như tổ chức
đã chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp như các quốc gia này; trong
trường hợp mà một trong số các quốc gia này chỉ chọn Toà án quốc tế theo Điều
287, thì tổ chức và quốc gia hội viên này coi như đã chấp nhận trọng tài theo
thủ tục trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên tham gia vào vụ tranh chấp thoả
thuận lựa chọn một phương pháp khác.
ĐIỀU
8. Áp dụng Phần XVII
Phần XVII được áp dụng mutatis mutadis
(với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho các tổ chức quốc tế, với điều
kiện tuân thủ các quy định sau đây
a. Văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia
nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 303,
khoản 1;
b. i. Một tổ chức quốc tế có quyền đặc
biệt để hành động theo các Điều 312 đến 315, nếu tổ chức này có thẩm quyền theo
Điều 5 của Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề nói trong điều sửa đổi;
ii. Khi một tổ chức quốc tế có thẩm
quyền theo Điều 5 của Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề trong điều sửa đổi,
thì văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của tổ chức này liên quan đến
điều sửa đổi nói trên được coi như văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của từng
quốc gia hội viên là thành viên của Công ước trong việc áp dụng Điều 316, các
khoản 1, 2 và 3;
iii. Trong tất cả các trường hợp khác,
văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế không được
tính đến trong việc áp dụng Điều 316, khoản 1 và 2;
c. i. Trong Điều 317, một tổ chức quốc
tế mà trong số các hội viên của nó có một quốc gia thành viên của Công ước và
tổ chức quốc tế đó vẫn tiếp tục thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong
Điều 1 của Phụ lục này, thì tổ chức quốc tế này không thể từ bỏ Công ước;
ii. Một tổ chức quốc tế phải từ bỏ Công
ước, nếu trong số hội viên của nó không còn một quốc gia nào là thành viên của
Công ước hoặc nếu tổ chức này đã thôi không thoả mãn các điều kiện đã được trù
định trong Điều 1 của Phụ lục này. Sự từ bỏ đó có hiệu lực ngay lập tức.
[1] Bản dịch tiếng Việt của
Bộ Ngoại giao.
Bản đánh máy do các cộng tác viên của Quỹ
nghiên cứu Biển Đông
(www.seasfoundation.org):
Nguyễn Hoàng Việt
Hà Phương Lê
Lê Hồng Thuận
Phượng
Vũ
Hoa Phạm
Phạm Thị Bích Phượng
gkhuongtang
Vũ Lê Phương
Nhóm Lã Vân
Nguyễn Thái Linh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) điều hành và kiểm tra việc đánh
máy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét