BỘ NGOẠI GIAO
Số 34/2005/LPQT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********
Hà Nội, ngày 21 tháng
02 năm 2005
Công
ước khung về Kiểm soát Thuốc lá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có hiệu lực đối
với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 17 tháng 3 năm 2005./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI
GIAO |
Đại hội đồng Y tế Thế
giới lần thứ 56 WHA 56.1
Mục 13 của chương trình nghị sự
Ngày 21/5/2003
Công ước Khung
của Tổ chức Y tế Thế giới về Kiểm soát Thuốc lá
Đại hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 56.
Nhắc lại các nghị quyết WHA 49.17 và
WHA52.18 của TCYTTG kêu gọi việc xây dựng một công ước khung của TCYTTG về kiểm
soát thuốc lá phù hợp với Điều 19 của Hiến chương của TCYTG;
Quyết tâm bảo vệ các thế hệ hiện tại và
tương lai khỏi việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá;
Ghi nhận với mọi quan tâm sâu sắc
sự gia tăng hút thuốc lá và các hình thức sử dụng thuốc lá khác trên toàn thế
giới;
Ghi nhận với sự đánh giá cao bản
báo cáo của Chủ tịch Cơ quan Đàm phán Liên Chính phủ về kết quả làm việc của Cơ
quan này; 1
Tin tưởng rằng công ước này là một bước
khởi đầu để đẩy mạnh hành động cấp quốc gia, khu vực và quốc tế và sự hợp tác
toàn cầu nhằm bảo vệ sức khỏe con người khỏi tác động tàn phá của việc tiêu thụ
thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá, và rất quan tâm đến việc phải dành sự
xem xét cân nhắc đặc biệt cho những hoàn cảnh cụ thể của các nước đang phát triển
cũng như các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi;
Nhấn mạnh đến nhu cầu nhanh chóng làm
cho công ước này có hiệu lực và được thực thi có hiệu quả,
1. Thông qua bản Công ước được đính kèm
theo nghị quyết này; .
2. Lưu ý rằng theo Điều 34 của Công ước,
Công ước sẽ được mở để ký tại trụ sở của TCYTTG tại Geneva từ 16 - 22/6/2003 và
sau đó tại trụ sở Liên hiệp quốc tại New York từ 30/6/2003- 29/6/2004;
3. Kêu gọi các Quốc gia và các tổ chức hội
nhập kinh tế khu vực được quyền làm như vậy hãy xem xét việc ký, thông qua, tán
thành, phê chuẩn và chính thức khẳng định hoặc thừa nhận Công ước này một cách
sớm nhất nhằm làm cho Công ước này có hiệu lực càng sớm càng tốt;
4. Đề nghị các Quốc gia và các tổ chức hội
nhập kinh tế khu vực trong khi chờ đợi Công ước có hiệu lực hãy tiến hành mọi
biện pháp thích hợp để hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá và sự phơi nhiễm với khói
thuốc lá;
5. Kêu gọi tất cả các quốc gia thành
viên, các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực các quan sát viên và các bên có quan
tâm khác ủng hộ các hoạt động chuẩn bị được đề cập đến trong Nghị quyết này và
khuyến khích một cách có hiệu quả việc làm cho Công ước này nhanh chóng có hiệu
lực và đưa vào thực thi;
6. Kêu gọi Liên Hiệp quốc và mời các tổ
chức quốc tế phù hợp khác tiếp tục hỗ trợ việc tăng cường các chương trình kiểm
soát thuốc lá quốc gia và quốc tế;
7. Quyết định, thành lập một nhóm làm việc
liên chính phủ không giới hạn, theo Quy định 42 của Các Quy định về Thủ tục của
Đại hội đồng YTTG, cho tất cả các quốc gia và tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
như đề cập đến tại Điều 34 của Công ước, để xem xét cân nhắc và chuẩn bị các đề
xuất về các vấn đề được xác định trong Công ước nhằm đưa ra xem xét và thông
qua khi phù hợp bởi phiên họp lần thứ nhất của Hội nghị các bên; những vấn đề
đó có thể bao gồm:
(1) Các quy định về thủ tục cho Hội nghị
các bên (Điều 23.3), bao gồm cả các tiêu trí về sự tham gia của các quan sát
viên tại các phiên họp của Hội nghị các bên (Điều 23.6);
(2) Những chọn lựa cho việc bổ nhiệm một
ban thư ký thường trực và những sắp đặt về chức năng của ban này;
(3) Các quy định về tài chính cho Hội
nghị các bên và các cơ quan trực thuộc của nó, và các điều khoản tài chính chi
phối chức năng của Ban thư ký (Điều 23.4);
(4) Dự trù ngân sách cho giai đoạn tài
chính thứ nhất (Điều 23.4);
(5) Duyệt lại các nguồn lực và các cơ chế
hỗ trợ các bên hiện có hay tiềm tàng để đáp ứng các nghĩa vụ của họ trong Công
ước này (Điều 26.5);
8. Quyết định thêm rằng tổ công tác liên
chính phủ không giới hạn cũng sẽ giám sát các khâu chuẩn bị cho phiên họp lần
thứ nhất của Hội nghị các bên và báo cáo trực tiếp cho Hội nghị;
9. Khẳng định rằng các quyết định của Cơ
quan Đàm phán Liên Chính phủ về công ước khung của TCYTTG về kiểm soát thuốc lá
liên quan đến sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ sẽ được áp dụng cho các
hoạt động của Tổ Công tác Liên Chính phủ Không Giới hạn;
10. Đề nghị Tổng Giám đốc:
(1) Cung cấp các hoạt động liên quan đến
chức năng của ban thư ký cho đến khi ban thư ký thường trực được bổ nhiệm và
thành lập;
(2) Tiến hành các bước thích hợp để hỗ
trợ các quốc gia thành viên đặc biệt là các nước đang phát triển và các nước có
nền kinh tế đang chuyển đổi trong quá trình chuẩn bị cho Công ước có hiệu lực;
(3) Triệu tập các cuộc họp của Tổ Công
tác Liên Chính phủ Không Giới hạn với mức độ thường xuyên như cần thiết trong
thời gian từ 16/6/2003 đến phiên họp lần thứ nhất của Hội nghị các bên;
(4) Tiếp tục đảm bảo vai trò chủ chất của
TCYTTG trong việc cung cấp tư vấn chuyên môn, định hướng và hỗ trợ kỹ thuật cho
công tác kiểm soát thuốc lá toàn cầu;
(5) Thông báo cho Đại hội đồng Y tế về
các tiến triển đạt được cho Công ước có hiệu lực và các bước chuẩn bị cho phiên
họp lần thứ nhất của Hội nghị các bên.
Lời nói đầu
Các Bên trong Công ước này,
Quyết tâm dành ưu tiên
cho quyền bảo vệ sức khỏe công cộng,
Nhận thức rằng sự lan rộng
của nạn dịch thuốc lá là một vấn đề toàn cầu với những hậu quả nghiêm trọng đối
với sức khỏe công cộng, đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế và sự tham gia rộng
rãi nhất của tất cả các nước trong một nỗ lực quốc tế hữu hiệu, phù hợp và toàn
diện để đối phó với nạn dịch này,
Phản ánh mối lo ngại của
cộng đồng quốc tế về các hậu quả tàn phá trên quy mô toàn thế giới về sức khỏe,
xã hội, kinh tế và môi trường do việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói
thuốc gây ra,
Hết sức lo ngại về sự gia tăng
trong tiêu thụ và sản xuất thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá khác trên toàn cầu,
đặc biệt tại các nước đang phát triển, cũng như trước gánh nặng mà tình trạng
này gây ra đối với các gia đình, người nghèo và các hệ thống y tế quốc gia,
Nhận thức rằng các bằng
chứng khoa học đã chứng minh một cách rõ ràng rằng việc sử dụng thuốc lá và
phơi nhiễm với khói thuốc là nguyên nhân dẫn đến tử vong, bệnh tật và tàn phế
và rằng có một khoảng cách về thời gian từ khi bắt đầu phơi nhiễm với khói thuốc
và những sử dụng khác của sản phẩm thuốc lá đến khi có các biểu hiện về các bệnh
tật liên quan đến thuốc lá,
Cũng nhận thức rõ rằng thuốc
lá và một số sản phẩm khác chứa thuốc lá được chế tạo một cách tinh xảo nhằm mục
đích tạo ra và duy trì sự phụ thuộc vào thuốc lá và rằng nhiều hợp chất chứa
trong thuốc lá và khói do thuốc lá sinh ra có hoạt tính dược lý, độc hại, gây
biến đổi gen và gây ung thư và rằng riêng sự phụ thuộc vào thuốc lá đã được xếp
loại là một tình trạng rối loạn trong các phân loại về bệnh tật của quốc tế,
Công nhận rằng có bằng chứng
khoa học rõ ràng cho thấy việc phụ nữ có thai phơi nhiễm với khói thuốc sẽ gây
hại đối với sức khỏe và điều kiện phát triển của trẻ em,
Lo ngại sâu sắc về sự gia tăng
trong việc hút thuốc lá và các hình thức sử dụng thuốc lá khác ở trẻ em và thiếu
niên toàn cầu, đặc biệt là việc hút thuốc ở các lứa tuổi ngày càng trẻ,
Báo động về tình trạng
gia tăng hút thuốc và các hình thức sử dụng thuốc lá khác trong phụ nữ và thiếu
nữ trên toàn thế giới và nhận thức rõ nhu cầu phải có sự tham gia đầy đủ của phụ
nữ tại tất cả các cấp của quá trình hình thành và thực hiện chính sách và nhu cầu
phải có các chiến lược chú trọng tới vấn đề giới trong kiểm soát thuốc lá,
Lo ngại sâu sắc về mức độ cao
về hút thuốc lá và sử dụng thuốc lá dưới các dạng khác trong những người bản xứ,
Lo ngại sâu sắc về tác động của
tất cả các hình thức quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ nhằm khuyến khích sử dụng
các sản phẩm thuốc lá,
Nhận thức rằng cần phải
có hành động hợp tác nhằm xóa bỏ tất cả các hình thức buôn bán bất hợp pháp thuốc
lá và các sản phẩm thuốc lá khác, bao gồm buôn lậu sản xuất bất hợp pháp và sản
xuất thuốc lá giả,
Nhận thức rõ rằng việc
kiểm soát thuốc lá ở tất cả các cấp và đặc biệt là tại các nước đang phát triển
và tại các nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đòi hỏi phải có đủ các nguồn
lực tài chính và kỹ thuật tương xứng với các nhu cầu hiện tại và nhu cầu dự
báo cho các hoạt động kiểm soát thuốc lá,
Nhận rõ sự cần thiết
xây dựng những cơ chế phù hợp nhằm giải quyết các hệ lụy lâu dài về kinh tế và
xã hội của các chiến lược giảm cầu thuốc lá thành công,
Quan tâm đến những khó
khăn về kinh tế và xã hội mà các chương trình kiểm soát thuốc lá có thể gây ra
trong thời gian trung hạn và dài hạn tại một số nước đang phát triển và các nước
có nền kinh tế trong thời ký quá độ và nhận thức rõ nhu cầu được hỗ trợ về tài
chính, và kỹ thuật của các nước này trong các chiến lược phát triển quốc gia bền
vững,
Ý thức rõ về việc làm có
giá trị mà nhiều Quốc gia đang tiến hành để kiểm soát thuốc lá và ca ngợi vai
trò lãnh đạo của TCYTTG cũng như nỗ lực của các tổ chức và cơ quan khác trong hệ
thống Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế các tổ chức liên chính phủ khu vực
khác trong việc xây dựng các biện pháp kiểm soát thuốc lá,
Nhấn mạnh sự đóng góp
quan trọng đặc biệt của các tổ chức phi chính phủ và các thành viên khác trong
xã hội dân sự không gắn kết với ngành công nghiệp thuốc lá bao gồm các hội
chuyên môn y tế các tổ chức phụ nữ, thanh niên, các nhóm về môi trường và người
tiêu dùng và các cơ sở y tế và các viện nghiên cứu vào các nỗ lực kiểm soát thuốc
lá quốc gia và quốc tế, và tầm quan trọng thiết yếu của sự tham gia của các tổ
chức này trong các nỗ lực kiểm soát thuốc lá quốc gia và quốc tế,
Nhận thức nhu cầu phải cảnh
giác đối với bất kỳ cố gắng nào của ngành công nghiệp thuốc lá nhằm làm suy yếu
hoặc phá hoại các cố gắng kiểm soát thuốc lá và nhu cầu cần được thông tin về
các hoạt động của ngành công nghiệp thuốc lá mà những hoạt động này có tác động
tiêu cực đối với các nỗ lực kiểm soát thuốc lá.
Nhắc lại Điều 12 của
Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, Văn hóa và Xã hội do Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 khẳng định quyền của tất cả mọi người
được hưởng mức độ sức khỏe về thể lực và tâm thần cao nhất mà họ có thể đạt được,
Khẳng định lại Lời nói đầu
trong Hiến chương của TCYTTG, nêu rõ việc đạt được mức độ cao nhất về sức khỏe
là một trong những quyền cơ bản của mỗi người, không phân biệt chủng tộc, tôn
giáo, chính kiến, điều kiện kinh tế hoặc xã hội,
Quyết tâm tăng cường các
biện pháp kiểm soát thuốc lá dựa trên việc xem xét các điều kiện phù hợp hiện tại
về khoa học, kỹ thuật và kinh tế,
Nhắc lại Công ước về Loại
bỏ Mọi Hình thức Phân biệt đối xử chống Phụ nữ do ĐHĐ Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 18 tháng 12 năm 1979 quy định rằng các Quốc gia tham gia Công ước này sẽ
tiến hành các biện pháp thích hợp để loại bỏ sự phân biệt đối xử chống phụ nữ
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe,
Nhắc lại thêm rằng Công ước về
Quyền Trẻ em do ĐHĐ Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, quy định
rằng các Quốc gia tham gia Công ước này công nhận quyền của trẻ em được hưởng mức
độ sức khỏe cao nhất có thể có được.
Đã đồng ý như sau:
Điều 1. Sử dụng các thuật ngữ
Đối với các mục đích của Công ước này:
(a) "buôn bán trái phép" có
nghĩa là bất kỳ việc hành nghề hoặc một hành vi nào bị luật pháp cấm mà có liên
quan đến việc sản xuất, chuyên chở, nhận, sở hữu, phân phối, bán hoặc mua bao gồm
bất kỳ việc hành nghề hoặc hành vi nào nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động
trên;
(b) "tổ chức hội nhập kinh tế khu vực"
có nghĩa là một tổ chức bao gồm các quốc gia có chủ quyền và đối với tổ chức
này các Quốc gia Thành viên đã chuyển giao năng lực trong một loạt các vấn đề
bao gồm thẩm quyền đưa ra những quyết định ràng buộc đối với các Quốc gia Thành
viên liên quan đến những vấn đề đó;1
(c) "quảng cáo và khuyến mãi thuốc
lá" có nghĩa là bất kỳ một hình thức thông tin, khuyến cáo hay hành động
thương mại nào với mục đích, hiệu quả hoặc có thể gây hiệu quả trực tiếp hoặc
gián tiếp trong việc quảng bá một sản phẩm thuốc lá hoặc việc sử dụng thuốc lá;
(d) "kiểm soát thuốc lá" có
nghĩa là một loạt các chiến lược giảm cung, cầu, và tác hại của thuốc lá nhằm
tăng cường sức khỏe cho nhân dân bằng cách loại trừ hoặc giảm tiêu thụ các sản
phẩm thuốc lá hoặc giảm phơi nhiễm với khói thuốc lá;
(e) "công nghiệp thuốc lá" có
nghĩa là các cơ sở sản xuất, các đại lý phân phối bán buôn và các nhà nhập khẩu
các sản phẩm thuốc lá;
(f) "các sản phẩm thuốc lá" có
nghĩa là các sản phẩm được hoàn toàn hoặc phần nào tạo ra từ vật liệu lá thuốc
được sản xuất để dùng cho việc hút, mút, nhai hoặc hít;
(g) "tài trợ của các hãng thuốc
lá" có nghĩa là bất kỳ hình thức đóng góp trực tiếp hay gián tiếp nào vào
bất kỳ sự kiện, hoạt động hoặc cá nhân nào với mục đích, hiệu quả hoặc có thể
gây hiệu quả để khuyến mại cho một sản phẩm thuốc lá hoặc sử dụng thuốc lá một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Điều 2. Mối quan hệ giữa Công ước này và các hiệp ước và các
văn kiện pháp lý khác
1.
Để bảo vệ tốt hơn cho sức khỏe con người, các Bên được khuyến khích thi hành
các biện pháp khác ngoài các biện pháp được yêu cầu trong Công ước này và các
nghị định thư có liên quan, và không có quy định nào trong các văn kiện này
ngăn cản một Bên áp đặt những yêu cầu chặt chẽ hơn nhất quán với các điều khoản
của các văn kiện đó và phù hợp với luật pháp quốc tế.
2.
Các điều khoản của Công ước này và các nghị định thư có liên quan hoàn toàn
không ảnh hưởng đến quyền của các Bên tham gia vào các hiệp định song phương
hoặc đa phương, bao gồm cả các hiệp định khu vực hoặc tiểu khu vực, về các vấn
đề phù hợp hoặc bổ sung cho Công ước và các nghị định thư có liên quan, với điều
kiện là các hiệp định đó tương xứng với nghĩa vụ của các Bên theo Công ước và
các nghị định thư có liên quan. Các Bên liên quan sẽ truyền đạt các hiệp định
như vậy với Hội nghị các Bên thông qua Ban thư ký.
MỤC
TIÊU, CÁC NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO VÀ CÁC NGHĨA VỤ CHUNG
Điều 3. Mục tiêu
Mục tiêu của Công ước này và các nghị định
thư có liên quan là nhằm bảo vệ các thế hệ hiện nay và tương lai khỏi các hậu
quả tàn phá về sức khỏe, xã hội, môi trường và kinh tế của việc tiêu thụ thuốc
lá và phơi nhiễm với khói thuốc bằng việc cung cấp một khuôn khổ cho các biện
pháp kiểm soát thuốc lá do các Bên thực hiện ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế
nhằm làm giảm đáng kể và liên tục tỷ lệ người sử dụng thuốc lá và phơi nhiễm với
khói thuốc lá.
Điều 4. Các nguyên tắc chỉ đạo
Để đạt được mục tiêu của Công ước này và
các nghị định thư có liên quan, và để thực hiện các điều khoản của công ước;
các Bên sẽ được hướng dẫn bởi các nguyên tắc chỉ đạo trong đó bao gồm những điều
dưới đây:
1. Mọi người đều được thông báo về các hậu
quả đối với sức khỏe, tính gây nghiện, và nguy cơ chết người do việc tiêu thụ
thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá gây ra, và các biện pháp lập pháp,
hành pháp, hành chính có hiệu quả hoặc các biện pháp khác phải được tính đến tại
cấp độ Chính phủ phù hợp để bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị phơi nhiễm với khói
thuốc lá.
2. Cam kết chính trị mạnh mẽ là cần thiết
để phát triển và hỗ trợ, ở cấp quốc gia và quốc tế, cho các biện pháp phối hợp
liên ngành toàn diện và có sự điều phối có tính đến:
(a) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp
để bảo vệ tất cả mọi người khỏi việc phơi nhiễm đối với khói thuốc lá;
(b) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp
để ngăn ngừa sự bắt đầu, khuyến khích và ủng hộ việc cai nghiện và giảm việc
tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá dưới mọi hình thức;
(c) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp
để khuyến khích sự tham gia của các cá nhân và cộng đồng người bản xứ trong việc
phát triển, thực hiện và đánh giá các chương trình kiểm soát thuốc lá phù hợp
về mặt văn hóa và xã hội đối với nhu cầu và cách nhìn nhận của họ; và
(d) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp
đề cập đến các rủi ro liên quan đến vấn đề giới khi phát triển các chiến lược
kiểm soát thuốc lá.
3. Hợp tác quốc tế, đặc biệt là việc
chuyển giao công nghệ, kiến thức và trợ giúp tài chính và cung cấp kiến thức
chuyên môn liên quan để thiết lập và thực thi các chương trình kiểm soát thuốc
lá có hiệu quả, có tính đến các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị và
luật pháp là một phần quan trọng của Công ước.
4. Các biện pháp và đáp ứng liên ngành
toàn diện nhằm giảm tiêu thụ mọi sản phẩm thuốc lá ở cấp quốc gia, khu vực và
quốc tế là rất thiết yếu nhằm ngăn chặn, theo đúng các nguyên tắc của y tế công
cộng, tỷ lệ mắc các bệnh, sự tàn tật và chết sớm do việc sử dụng thuốc lá và
phơi nhiễm với khói thuốc lá gây ra. .
5. Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm
pháp lý được xác định bởi mỗi Bên trong phạm vi quyền tài phán của mình là một
phần quan trọng của kiểm soát thuốc lá toàn diện.
6. Tầm quan trọng của sự giúp đỡ về kỹ
thuật và tài chính để giúp cho việc chuyển đổi kinh tế của người trồng cây thuốc
lá và những người công nhân mà nguồn sống của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do hậu
quả của các chương trình kiểm soát thuốc lá tại các nước đang phát triển cũng
như các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi cần được thừa nhận và đề cập trong
nội dung của các chiến lược phát triển quốc gia đảm bảo sự phát triển bền vững.
7. Sự tham gia của xã hội dân sự là cần
thiết để đạt được các mục tiêu của Công ước và các nghị định thư có liên quan.
Điều 5. Các nghĩa vụ chung
1.
Mỗi Bên sẽ phát triển, thực hiện, định ký cập nhật và rà soát lại các chiến lược
kế hoạch và chương trình quốc gia liên ngành toàn diện về kiểm soát thuốc lá
phù hợp với Công ước và các nghị định thư mà Bên đó tham gia ký kết.
2. Nhằm mục đích này, mỗi Bên sẽ, theo
khả năng của mình:
(a) thiết lập hoặc củng cố và cung cấp
tài chính cho một cơ chế điều phối quốc gia hoặc các cơ quan đầu mối về kiểm
soát thuốc lá; và
(b) thông qua và thực thi các biện pháp
lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp khác và phối hợp với các Bên
khác trong việc phát triển các chính sách phù hợp nhằm ngăn chặn và giảm tiêu
thụ thuốc lá, nghiện nicotin và phơi nhiễm đối với khói thuốc lá
3. Khi hoạch định và thi hành các chính
sách y tế công cộng liên quan đến kiểm soát thuốc lá, các Bên sẽ hành động để bảo
vệ những chính sách này khỏi bị tác động bởi các lợi ích về thương mại và các
lợi ích có lợi khác của ngành công nghiệp thuốc lá, phù hợp với luật pháp quốc
gia.
4. Các Bên sẽ phối hợp trong việc xây dựng
các biện pháp, thủ tục và các hướng dẫn để thực hiện Công ước và các nghị định
thư mà các Bên đã tham gia ký kết.
5. Các Bên sẽ phối hợp, ở mức phù hợp, với
các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên Chính phủ khu vực và các cơ quan có thẩm
quyền khác nhằm đạt các mục tiêu của Công ước và các nghị định thư mà Bên đó
tham gia ký kết.
6. Các Bên sẽ, bằng những phương tiện
và nguồn lực của mình, phối hợp để thu gom các nguồn tài chính để thực hiện
Công ước một cách hiệu quả thông qua các cơ chế tài trợ song phương hoặc đa
phương.
CÁC
BIỆN PHÁP GIẢM CẦU THUỐC LÁ
Điều 6. Các biện pháp về giá và thuế để giảm cầu thuốc lá .
1. Các Bên nhận thức rằng các biện pháp
về giá và thuế là những biện pháp quan trọng và hữu hiệu để giảm tiêu thụ thuốc
lá trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh thiếu niên.
2. Để không tổn hại đến chủ quyền của
các Bên trong việc xác định và hình thành chính sách thuế của mình, mỗi Bên cần
cân nhắc đến các mục tiêu y tế quốc gia trong việc kiểm soát thuốc lá và thông
qua hoặc duy trì, ở mức phù hợp, các biện pháp bao gồm:
(a) thực hiện các chính sách thuế, và ở
những nơi phù hợp, các chính sách về giá đối với các sản phẩm thuốc lá để đóng
góp cho các mục tiêu y tế nhằm giảm tiêu thụ thuốc lá; và
(b) cấm hoặc hạn chế, ở mức thích hợp,
việc bán và/hoặc nhập khẩu các sản phẩm thuốc lá miễn thuế hoặc không thuế bởi
du khách quốc tế.
3. Các Bên sẽ cung cấp các mức thuế đối
với các sản phẩm thuốc lá và xu hướng tiêu thụ thuốc lá trong các báo cáo định
kỳ cho Hội nghị các Bên theo Điều 21.
Điều 7. Các biện pháp phi giá để giảm cầu thuốc lá
Các Bên nhận thức rằng các biện pháp phi
giá toàn diện là các biện pháp quan trọng và hữu liệu để giảm tiêu thụ thuốc
lá. Mỗi Bên sẽ thông qua và thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành
chính hữu hiệu hoặc các biện pháp cần thiết khác để thực hiện các nghĩa vụ của
mình theo Điều 8 đến Điều 13, và sẽ phối hợp với nhau, ở mức thích hợp, một
cách trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan quốc tế có năng lực để thực hiện các
biện pháp này. Hội nghị các Bên sẽ đề xuất các hướng dẫn phù hợp để thực hiện
các điều khoản quy minh trong các Điều này.
Điều 8. Bảo vệ khỏi việc phơi nhiễm với khói thuốc lá
1. Các Bên nhận thức rõ rằng các bằng chứng
khoa học đã chứng minh rõ ràng rằng việc phơi nhiễm với khói thuốc lá là nguyên
nhân gây tử vong, bệnh tật và tàn tật.
2. Mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành
trong phạm vi các quyền tài phán quốc gia hiện hành được xác định bởi luật pháp
quốc gia và tích cực thúc đẩy tại các cấp độ tài phán khác việc thông qua và
thi hành các biện pháp, lập pháp, hành pháp, hành chính hữu hiệu và hoặc các biện
pháp khác nhằm bảo vệ khỏi việc phơi nhiễm với khói thuốc lá ở những nơi làm việc
trong nhà, các phương tiện giao thông công cộng, những nơi công cộng trong nhà
và ở mức thích hợp, tại những nơi công cộng khác.
Điều 9. Quy định về hàm lượng của các sản phẩm thuốc lá
Hội nghị các Bên với sự tham vấn của các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền sẽ đề xuất các hướng dẫn cho việc thử và đo hàm
lượng và khói tỏa ra từ các sản phẩm thuốc lá và để quy định về hàm lượng và sự
tỏa khói này. Mỗi Bên, ở những nơi được các nhà chức trách quốc gia có thẩm quyền
chấp thuận, sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành
chính hữu hiệu hoặc các biện pháp khác đối với việc thử và đo lường và các quy
định như vậy.
Điều 10. Quy định về việc
tiết lộ các thông tin về sản phẩm thuốc lá Mỗi Bên, tùy theo luật pháp quốc
gia, sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp và hành chính hữu
hiệu hoặc các biện pháp khác yêu cầu các nhà sản xuất và nhập khẩu các sản phẩm
thuốc lá phải tiết lộ cho các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ các thông tin
về hàm lượng và sự tỏa khói của sản phẩm thuốc lá. Ngoài ra mỗi Bên sẽ thông
qua và thi hành các biện pháp có hiệu quả để thông tin cho công chúng biết về
các thành phần độc hại có trong các sản phẩm thuốc lá và khói thuốc lá.
Điều 11. Đóng gói và gắn nhãn mác của các sản phẩm
thuốc lá
1.
Mỗi Bên, trong phạm vi 3 năm sau khi Công ước có hiệu lực đối với Bên đó, sẽ
thông qua và thi hành, phù hợp với luật pháp quốc gia, các biện pháp có hiệu quả
để đảm bảo rằng:
(a) việc đóng gói và gắn nhãn mác của
các sản phẩm thuốc lá không nhằm khuyến mãi một sản phẩm thuốc lá bằng các cách
thức gian dối, sai lạc, lừa bịp hoặc có thể tạo ra một ấn tượng sai lầm về tính
chất, tác động đối với sức khỏe, tác hại hoặc việc tỏa khói thuốc, bao gồm bất
cứ thuật ngữ, vật mô tả, thương hiệu, từ ngữ bóng bẩy hoặc bất cứ dấu hiệu nào
trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra ấn tượng sai về một sản phẩm thuốc lá nào đó ít
có hại hơn các sản phẩm thuốc lá khác. Những thứ này có thể bao gồm các thuật
ngữ như: "ít hắc ín", "nhẹ", "siêu nhẹ"; và
(b) mỗi bao thuốc lá và mỗi gói các sản
phẩm thuốc lá và bất kỳ bao bì và nhãn mác bên ngoài nào của những sản phẩm như
vậy đều phải có những lời cảnh báo về sức khỏe mô tả tác hại của việc sử dụng
thuốc lá và có thể bao gồm các thông điệp thích hợp khác. Những lời cảnh báo và
các thông điệp này:
i) phải được sự phê chuẩn của các nhà chức
trách quốc gia có thẩm quyền,
ii) phải được sử dụng luân phiên,
iii) phải đủ lớn, rõ ràng, dễ nhìn và dễ
đọc.
iv) nên chiếm 50% hoặc lớn hơn diện tích
trưng bày chính nhưng không được nhỏ hơn 30% của các diện tích trưng bày
chính của bao thuốc.
v) có thể dưới hình thức của hoặc bao gồm
các hình ảnh hoặc chữ tượng hình.
2. Mỗi bao thuốc lá và mỗi gói các sản
phẩm thuốc lá và bất kỳ bao bì và nhãn mác bên ngoài của những sản phẩm như vậy
ngoài các lời cảnh báo cụ thể nêu trong điểm l(b) của điều khoản này sẽ phải có
những thông tin về thành phần các chất có trong thuốc lá và khói thuốc lá được
xác định bởi các nhà chức trách quốc gia.
3. Các Bên sẽ yêu cầu rằng những lời cảnh
báo và các thông tin bằng văn bản nêu rõ trong các đoạn l(b) và đoạn 2 của Điều
này sẽ xuất hiện trên mỗi bao thuốc và mỗi gói sản phẩm thuốc lá và bất kể bao
bì và nhãn mác bên ngoài của những sản phẩm như vậy bằng ngôn ngữ hoặc các ngôn
ngữ chính của quốc gia đó.
4. Vì các mục đích của Điều khoản này,
thuật ngữ "đóng gói và nhãn mác bên ngoài" liên quan đến các sản phẩm
thuốc lá được áp dụng cho bất kỳ việc đóng gói và nhãn mác nào dùng trong bán lẻ
sản phẩm.
Điều 12. Giáo dục, truyền thông, đào tạo và nhận thức
của công chúng
Mỗi Bên sẽ tăng cường và củng cố nhận thức
của công chúng về các vấn đề liên quan đến kiểm soát thuốc lá bằng cách sử dụng
tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có, ở mức thích hợp. Để đạt được mục
đích này, mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp,
hành chính hữu hiệu hoặc các biện pháp khác nhằm thúc đẩy:
(a) sự tiếp cận rộng rãi với các chương
trình giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng hiệu quả và toàn diện về
các nguy cơ về sức khỏe bao gồm những đặc tính gây nghiện của việc tiêu thụ thuốc
lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá;
(b) nhận thức của công chúng về các nguy
cơ đối với sức khỏe của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá
và về những lợi ích của việc cai nghiện thuốc lá và lôí sống không thuốc lá như
được quy định trong điều 14.2;
(c) sự tiếp cận của công chúng, phù hợp
với luật pháp quốc gia, với các thông tin rộng rãi về ngành công nghiệp thuốc
lá phù hợp với mục tiêu của Công ước này;
(d) các chương trình đào tạo hiệu quả
và phù hợp hoặc các chương trình tạo sự nhậy cảm hoặc nâng cao nhận thức về kiểm
soát thuốc lá cho đối tượng là cán bộ y tế, nhân viên cộng đồng, nhân viên làm
công tác xã hội, những người làm công tác truyền thông, giáo viên, các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý và những người có liên quan khác.
(e) nhận thức và sự tham gia của công
chúng và các tổ chức tư nhân và các tổ chức phi chính phủ không gắn kết với các
công ty thuốc lá trong việc phát triển và thực hiện các chiến lược và các
chương trình liên ngành về kiểm soát thuốc lá.
(f) nhận thức của công chúng về và sự tiếp
cận với các thông tin về các hậu quả có hại đối với sức khỏe, kinh tế và môi
trường của việc sản xuất và tiêu thụ thuốc lá.
Điều 13. Quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá
1. Các Bên nhận thức rằng cấm toàn diện
đối với quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ sẽ làm giảm tiêu thụ các sản phẩm thuốc
lá.
2. Mỗi Bên, tùy theo hiến pháp và các
quy định của hiến pháp của nước mình, sẽ đảm nhận việc cấm toàn diện mọi quảng
cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá Điều này sẽ bao gồm, tùy thuộc vào môi trường
pháp lý và các phương tiện kỹ thuật sẵn có của Bên đó, các hạn chế hoặc một sự
cấm toàn diện việc quảng cáo khuyến mãi và tài trợ xuyên biên giới xuất phát từ
lãnh thổ của mình. Liên quan đến vấn đề này, trong vòng 5 năm sau khi Công ước
này có hiệu lực đối với Bên đó, mỗi Bên sẽ đảm nhận tiến hành các hoạt động lập
pháp, hành pháp và hành chính phù hợp và/hoặc báo cáo kết quả theo quy định tại
Điều 21 .
3. Một Bên vì hiến pháp và các nguyên tắc
hiến pháp của họ không cho phép thực hiện việc cấm toàn diện việc quảng cáo sẽ
áp dụng việc hạn chế tất cả các hoạt động quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc
lá. Việc này sẽ bao gồm, tùy thuộc môi trường luật pháp và các phương tiện kỹ
thuật sẵn có của Bên đó, hạn chế hoặc cấm toàn diện việc quảng cáo, khuyến mãi
và tài trợ thuốc lá với hiệu quả xuyên biên giới xuất phát từ lãnh thổ nước
mình. Liên quan đến việc này, mỗi Bên sẽ đảm nhận tiến hành các hoạt động lập
pháp, hành pháp và hành Chính phủ hợp và báo cáo kết quả theo quy định tại Điều
21.
4. Mỗi Bên, ở mức tối thiểu, và tùy theo
hiến pháp hoặc các nguyên tắc hiến pháp của nước mình, sẽ:
(a) cấm mọi hình thức quảng cáo, khuyến
mãi và tài trợ thuốc lá nhằm khuyến mãi một sản phẩm thuốc lá bằng bất kỳ
phương thức gì gian dối, sai lệch, lừa bịp hoặc dễ tạo ra một ấn tượng sai lầm
về tính chất, tác động đối với sức khỏe, các tác hại hoặc sự tỏa khói thuốc;
(b) yêu cầu rằng những lời cảnh báo về sức
khỏe hoặc những lời cảnh báo hoặc thông điệp phù hợp khác luôn đi kèm mọi quảng
cáo và, ở mức thích hợp, với việc khuyến mãi và tài trợ;
(c) hạn chế việc sử dụng khuyến khích vật
chất trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm khuyến khích dân chúng mua các sản phẩm thuốc
lá;
(d) yêu cầu, nếu chưa cấm hoàn toàn việc
quảng cáo, phải tiết lộ với các nhà chức trách chính phủ về các chi phí mà
ngành công nghiệp thuốc lá dùng để quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ còn chưa bị
cấm. Các nhà chức trách này, tùy theo quy định của luật pháp quốc gia, có thể
công bố con số này cho công chúng biết và tại Hội nghị các Bên theo quy định của
Điều 21 ;
(e) đảm nhận thực hiện trong khoảng thời
gian 5 năm việc cấm toàn diện hoặc, trong trường hợp của Bên chưa thực hiện được
việc cấm toàn diện vì lý do hiến pháp hoặc các nguyên tắc của hiến pháp thì thực
hiện việc hạn chế quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá trên đài phát
thanh, vô tuyến truyền hình, các phương tiện truyền thông bằng in ấn và ở mức
phù hợp, trên các phương tiện truyền thông khác như internet; và
(f) cấm, hoặc trong trường hợp của Bên
chưa thực hiện được việc cấm toàn diện vì lý do hiến pháp hoặc các nguyên tắc
của hiến pháp thì thực hiện việc hạn chế tài trợ của các công ty thuốc lá cho
các sự kiện, hoạt động quốc tế hoặc người tham gia vào những sự kiện, hoạt động
này.
5. Các Bên được khuyến khích thực hiện
các biện pháp ngoài các nghĩa vụ nêu trong đoạn 4.
6. Các Bên sẽ hợp tác trong việc phát
triển các kỹ thuật và các biện pháp cần thiết khác để tạo điều kiện loại bỏ việc
quảng cáo xuyên biên giới.
7. Các Bên đã cấm một số hình thức quảng
cáo, khuyến mãi và tài trợ, có chủ quyền cấm các hình thức quảng cáo, khuyến
mãi và tài trợ xuyên biên giới xâm nhập vào lãnh thổ nước mình và có quyền áp đặt
các hình thức trừng phạt tương đương như các trường hợp vi phạm việc quảng
cáo, khuyến mãi và tài trợ xuất phát từ bên trong lãnh thổ theo quy định của luật
pháp quốc gia. Đoạn này không phê chuẩn hoặc chấp thuận bất kỳ hình thức trừng
phạt đặc biệt nào.
8. Các Bên sẽ xem xét việc soạn thảo một
nghị định thư nhằm đưa ra các biện pháp phù hợp để yêu cầu sự phối hợp quốc tế
nhằm cấm toàn diện việc quảng cáo khuyến mãi và tài trợ xuyên biên giới
Điều 14. Những
biện pháp giảm cầu liên quan đến cai nghiện thuốc lá.
1. Mỗi Bên sẽ phát triển và phổ biến các
hướng dẫn phù hợp, toàn diện và mang tính lồng ghép dựa trên các chứng cứ khoa
học và các thực hành tốt, có tính đến các ưu tiên và hoàn cảnh quốc gia, và tiến
hành các biện pháp hiệu quả để đẩy mạnh việc cai nghiện thuốc lá và điều trị đầy
đủ đối với việc phụ thuộc vào thuốc lá.
2. Nhằm mục đích này mỗi Bên sẽ nỗ lực để:
(a) thiết kế và thực hiện các chương
trình có hiệu quả nhằm đẩy mạnh việc cai nghiện thuốc lá tại các địa điểm như
các cơ sở giáo dục, y tế, nơi làm việc và nơi diễn ra các hoạt động thể thao;
(b) bao gồm việc chuẩn đoán và điều trị
sự phụ thuộc vào thuốc lá và các dịch vụ tư vấn về cai nghiện thuốc lá trong
các chương trình, kế hoạch và chiến lược về y tế và giáo dục quốc gia với sự
tham gia của các nhân viên y tế, nhân viên cộng đồng và các nhân viên xã hội ở
mức phù hợp;
(c) thiết lập dịch vụ chẩn đoán, tư vấn,
phòng ngừa và điều trị việc phụ thuộc vào thuốc lá tại các cơ sở y tế và các
trung tâm phục hồi chức năng;
(d) phối hợp với các Bên khác để tạo điều
kiện về có khả năng tiếp cận và khả năng chi trả đối việc điều trị cai nghiện
thuốc lá bao gồm các dược phẩm theo quy định tại Điều 22. Các sản phẩm như vậy
và thành phần của chúng có thể gồm thuốc, các sản phẩm dùng để sử dụng thuốc và
các chất dùng trong chẩn đoán khi thích hợp.
CÁC
BIỆN PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN GIẢM CUNG CẤP THUỐC LÁ
Điều 15. Buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc
lá
1. Các Bên công nhận rằng việc loại bỏ mọi
hình thức buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá bao gồm buôn lậu, sản xuất
bất hợp pháp và làm giả, và việc phát triển và thi hành các luật quốc gia liên
quan, ngoài các hiệp định của tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu là các thành tố
thiết yếu của việc kiểm soát thuốc lá.
2. Mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các
biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp khác có hiệu quả để
đảm bảo rằng tất cả các bao thuốc và các gói của các sản phẩm thuốc lá và bất kỳ
bao gói bên ngoài nào của các sản phẩm như vậy phải được đánh dấu để giúp cho
các Bên xác định được nguồn gốc của các sản phẩm thuốc lá, và phù hợp với luật
pháp quốc gia và các hiệp định đa phương hoặc song phương phù hợp, giúp các
Bên trong việc xác định điểm chuyển hướng và theo dõi, thu thập tài liệu và kiểm
soát sự di chuyển của các sản phẩm thuốc lá và tính hợp pháp của chúng. Ngoài
ra, mỗi bên sẽ:
(a) yêu cầu rằng mỗi bao thuốc và mỗi
gói các sản phẩm thuốc lá để bán buôn và bán lẻ bán ở thị trường trong nước
mang dòng chữ: "Chỉ được phép bán tại (tên của nước, tiểu quốc gia, khu vực
hoặc đơn vị liên bang)" hoặc mang bất kỳ dấu hiệu gì có hiệu quả chỉ rõ điểm
đến cuối cùng hoặc những dấu hiệu giúp cho nhà chức trách xác định sản phẩm thuốc
lá đó có hợp pháp để cho phép bán tại thị trường trong nước hay không; và
(b) xem xét, ở mức phù hợp, việc phát
triển một phương thức thực tiễn để theo dõi đường đi và lần theo dấu vết để đảm
bảo an toàn hơn nữa cho hệ thống phân phối và giúp cho việc điều tra buôn lậu bất
hợp pháp các sản phẩm thuốc lá.
3. Mỗi Bên sẽ yêu cầu rằng các thông tin
về đóng gói hoặc các ký hiệu đánh dấu nêu trong đoạn 2 của Điều khoản này sẽ được
trình bày dưới dạng đọc được và/hoặc được thể hiện bằng ngôn ngữ hoặc các ngôn
ngữ chính.
4. Để loại bỏ việc buôn bán các sản phẩm
thuốc lá bất hợp phấp, mỗi Bên sẽ:
(a) theo dõi và thu thập các số liệu về
việc buôn bán các sản phẩm thuốc lá qua biên giới, bao gồm cả buôn bán bất hợp
pháp, và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hải quan, cơ quan thuế và các cơ
quan có thẩm quyền khác, tùy theo sự thích hợp, và phù hợp với luật pháp quốc
gia và các hiệp định đa phương hoặc song phương phù hợp có thể áp dụng;
(b) ban hành hoặc tăng cường các quy định
pháp luật với các hình phạt phù hợp và các biện pháp để khắc phục việc buôn bán
bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá bao gồm cả thuốc lá giả và thuốc lá nhái
nhãn mác;
(c) tiến hành các bước thích hợp để đảm
bảo rằng tất cả các phương tiện sản xuất thuốc lá giả, thuốc lá nhái nhãn mác
và các sản phẩm thuốc lá bị tịch thu được tiêu hủy, sử dụng các phương pháp
tiêu hủy không ảnh hưởng tới môi trường ở những nơi có thể, hoặc hủy bỏ theo
đúng luật pháp trong nước;
(d) thông qua và thực hiện các biện pháp
để theo dõi, thu thập tài liệu và kiểm soát việc lưu kho, phân phối các Bản phẩm
thuốc lá bị giữ lại hoặc di chuyển do việc tạm đình chỉ thuế hoặc thuế hàng hóa
trong phạm vi quyền tài phán của Bên đó; và
(e) thông qua các biện pháp tùy theo sự
thích hợp tạo điều kiện cho việc tịch thu các khoản tiền thu được từ việc buôn
bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá;
5. Các thông tin thu thập được theo các
tiểu đoạn 4(a) và 4(d) của Điều khoản này sẽ, tùy theo sự thích hợp, được cung
cấp trong mẫu tập hợp bởi các Bên trong các báo cáo định kỳ gửi cho Hội nghị
các Bên theo Điều 21.
6. Các Bên, tùy theo sự thích hợp và
theo quy định của luật pháp quốc gia sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa các tổ chức
trong nước cũng như các tổ chức khu vực quốc tế và phi chính phủ phù hợp trong
việc điều tra, truy tố và tố tụng nhằm loại bỏ việc buôn bán bất hợp pháp các sản
phẩm thuốc lá. Đặc biệt nhấn mạnh tới sự hợp tác tại cấp độ khu vực tiểu khu vực
trong cuộc chiến chống lại việc buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá.
7. Mỗi Bên sẽ nỗ lực thông qua và thi
hành thêm các biện pháp bao gồm việc cấp giấy phép ở những nơi thích hợp để kiểm
soát hoặc điều chỉnh việc sản xuất và phân phối các sản phẩm thuốc lá nhằm ngăn
chặn việc buôn bán bất hợp pháp.
Điều 16. Bán thuốc lá cho và bởi trẻ vị thành niên
1.
Mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính
và các biện pháp khác có hiệu quả tại cấp chính phủ phù hợp để cấm việc bán các
sản phẩm thuốc lá cho những người dưới tuổi quy định bởi luật trong nước, luật
quốc gia hoặc người dưới 18 tuổi. Những biện pháp này có thể bao gồm:
(a) yêu cầu rằng mọi người bán các Bản
phẩm thuốc lá đặt một bảng hiệu rõ ràng và nổi bật tại các điểm bán của họ về
việc cấm bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên, và trong trường hợp nghi ngờ yêu cầu
mỗi người mua thuốc lá cung cấp bằng chứng phù hợp để chứng minh họ đã đến tuổi
hợp pháp để mua thuốc lá.
(b) cấm các sản phẩm thuốc lá bằng bất
ký phương thức nào mà người mua có thể trực tiếp tiếp cận với các sản phẩm này
như các giá bầy hàng trong cửa hàng;
(c) cấm việc sản xuất và bán các loại kẹo,
đồ ăn nhẹ, đồ chơi và các vật khác mang hình dáng của các sản phẩm thuốc lá mà
những vật này hấp dẫn đối với trẻ vị thành niên; và
(d) đảm bảo rằng trong phạm vi quyền tài
phán của mình các máy tự động bán thuốc lá không tiếp cận được đối với trẻ vị
thành niên và không khuyến khích việc bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên.
2. Mỗi Bên sẽ cấm hoặc khuyến khích việc
cấm phân phát các sản phẩm thuốc lá không mất tiền cho công chúng đặc biệt là
cho trẻ vị thành niên.
3. Mỗi Bên sẽ nỗ lực ngăn cấm việc bán
thuốc lá lẻ hoặc những bao thuốc lá nhỏ mà điều này sẽ làm tăng khả năng chi trả
đối với các sản phẩm này ở trẻ vị thành niên.
4. Các Bên công nhận rằng để tăng tính
hiệu quả, các biện pháp ngăn chặn việc bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên, ở những
nơi phù hợp, phải được thực hiện cùng với các điều khoản khác trong Công ước
này.
5. Khi ký, phê chuẩn, chấp thuận hoặc đồng
ý với Công ước hoặc vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, một Bên có thể, bằng một
văn bản tuyên bố mang tính ràng buộc, nêu rõ những cam kết của mình cấm việc
đưa vào sử dụng các máy bán thuốc lá trong phạm vi quyền tài phán của mình, hoặc,
ở mức phù hợp, cấm hoàn toàn các máy bán thuốc lá. Tuyên bố được đưa ra theo
Điều khoản này sẽ được người giữ văn kiện truyền đạt tới tất cả các Bên tham
gia Công ước.
6. Mỗi Bên sẽ thông qua và thực hiện các
biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp hữu hiệu khác, bao gồm
cả việc xử phạt những người bán và phân phối thuốc lá để đảm bảo việc tuân thủ
các nghĩa vụ quy định tại đoạn 1 - 5 của Điều khoản này.
7. Mỗi Bên cần, ở mức phù hợp, thông qua
và thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp hữu
hiệu khác để cấm việc bán thuốc lá cho những người chưa đến tuổi theo quy định
của luật pháp địa phương, quốc gia hoặc người dưới 18 tuổi.
Điều 17. Cung cấp sự hỗ
trợ cho các hoạt động thay thế khả thi về kinh tế. Các Bên sẽ, bằng cách phối hợp
với nhau và với các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên Chính phủ khu vực có thẩm
quyền, thúc đẩy, ở mức phù hợp, những lựa chọn khả thi về kinh tế cho người trồng
thuốc lá, công nhân sản xuất thuốc lá và có thể cả những cá nhân bán thuốc lá.
Điều 18. Bảo vệ môi trường và sức khỏe của mọi người
Trong
việc thực hiện các nghĩa vụ trong Công ước này, các Bên đồng ý phải quan tâm
thích đáng tới việc bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe của những người liên
quan đến môi trường liên quan đến lĩnh vực trồng và sản xuất thuốc lá trong phạm
vi lãnh thổ của mình.
CÁC
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
Điều 19. Trách nhiệm pháp lý
1. Vì mục đích kiểm soát thuốc lá, các
Bên sẽ xem xét việc thực hiện các hành động pháp lý hoặc tăng cường các luật hiện
có của mình, ở những nơi cần thiết, để giải quyết trách nhiệm pháp lý dân sự và
hình sự, bao gồm bồi thường thiệt hại nếu phù hợp.
2. Các Bên sẽ hợp tác với nhau trong việc
trao đổi thông tin thông qua Hội nghị Các Bên theo Điều 21 bao gồm:
(a) thông tin về các tác động về sức khỏe
của việc tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá theo Điều
20.3 (a); và
(b) thông tin về luật pháp, các quy định
đang có hiệu lực cũng như thông tin về khoa học luật pháp phù hợp.
3. Các Bên sẽ, ở mức phù hợp và theo thỏa
thuận, trong phạm vi luật pháp, chính sách và thực hành luật pháp của quốc gia
và những hiệp ước đang áp dụng, sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong các thủ tục tố tụng
liên quan tới trách nhiệm pháp lý dân sự và hình sự nhất quán với Công ước này.
4. Công ước sẽ không làm ảnh hưởng hoặc
hạn chế bất kỳ quyền tiếp cận nào của các Bên tới các Tòa án của nhau mà ở đó tồn
tại những quyền như vậy.
5. Hội nghị các Bên có thể xem xét, nếu
có thể, tại một thời điểm sớm, có tính đến những công việc đang được tiến hành
tại các diễn đàn quốc tế phù hợp, nếu có thể, những vấn đề liên quan đến trách
nhiệm pháp lý bao gồm các cách tiếp cận quốc tế phù hợp đối với các vấn đề này
và các biện pháp phù hợp để hỗ trợ, theo yêu cầu, các Bên trong các hoạt động
luật pháp và các hoạt động khác theo Điều khoản này.
HỢP
TÁC KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VÀ TRUYỀN THÔNG CÁC THÔNG TIN
Điều 20. Nghiên cứu, giám sát, và trao đổi thông
tin.
1.
Các Bên đảm nhận phát triển và tăng cường các nghiên cứu quốc gia và điều phối
các chương trình nghiên cứu khu vực và quốc tế trong lĩnh vực kiểm soát thuốc
lá. Để đạt được mục đích này, mỗi Bên sẽ:
(a) khởi xướng và hợp tác, trực tiếp hoặc
thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực có thẩm quyền và các tổ chức khác, tiến
hành các nghiên cứu và đánh giá khoa học; và bằng việc làm như vậy sẽ đẩy mạnh
và khuyến khích các nghiên cứu đề cập đến các yếu tố xác định và hậu quả của việc
tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá cũng như các nghiên cứu để
xác định các loại cây trồng thay thế thuốc lá; và
(b) tăng cường và củng cố, với sự trợ
giúp của các tổ chức quốc tế, khu vực và liên Chính phủ có thẩm quyền và các tổ
chức khác việc đào tạo và hỗ trợ cho tất cả những người tham gia trong công tác
kiểm soát thuốc lá bao gồm nghiên cứu, thực hiện và đánh giá.
2. Các Bên sẽ thiết lập, ở mức phù hợp,
các chương trình giám sát quốc gia, khu vực và toàn cầu về phạm vi ảnh hưởng,
mô hình, các yếu tố xác định và hậu quả của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm
với khói thuốc lá. Để làm được việc này, các Bên nên lồng ghép các chương
trình giám sát thuốc lá vào các chương trình giám sát sức khỏe quốc gia, khu vực
và toàn cầu để các số liệu này có thể so sánh và phân tích được tại cấp độ khu
vực và toàn cầu, ở mức phù hợp.
3. Các Bên công nhận tầm quan trọng của
sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên
Chính phủ khu vực và các tổ chức khác. Mỗi Bên sẽ nỗ lực để:
(a) thiết lập theo tiến độ một hệ thống
giám sát dịch tễ quốc gia về các chỉ số tiêu thụ thuốc lá, các yếu tố xã hội,
kinh tế có liên quan và các chỉ số về sức khỏe.
(b) hợp tác với các tổ chức quốc tế và
các tổ chức liên Chính phủ khu vực và các tổ chức khác, bao gồm cả các cơ quan
Chính phủ và phi chính phủ trong việc giám sát thuốc lá khu vực và toàn cầu và
trao đổi thông tin về các chỉ số nêu cụ thể trong đoạn 3(a) của Điều khoản này.
(c) hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới
trong việc phát triển các hướng dẫn hoặc phương thức chung để xác định việc thu
thập, phân tích và phổ biến số liệu giám sát liên quan đến thuốc lá.
4. Các Bên, tùy theo luật pháp quốc gia,
sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện việc trao đổi các thông tin sẵn có đã được công bố
về khoa học, kỹ thuật, kinh tế xã hội, thương mại và luật pháp cũng như các
thông tin liên quan đến cách thức làm ăn của ngành công nghiệp thuốc lá và việc
trồng thuốc lá mà các thông tin này phù hợp với Công ước này và bằng cách làm
như vậy sẽ xem xét và đề cập đến những nhu cầu đặc biệt của các nước đang phát
triển và các nước có nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ. Mỗi Bên sẽ nỗ lực để:
(a) thiết lập theo tiến độ và duy trì một
cơ sở dữ liệu được cập nhật về luật pháp và các quy định về kiểm soát thuốc lá
và ở mức phù hợp, các thông tin về việc thực thi các luật này cũng như các
thông tin về khoa học luật pháp thích hợp và hợp tác trong việc xây dựng các
chương trình kiểm soát thuốc lá khu vực và toàn cầu.
(b) thiết lập theo tiến độ và duy trì một
cơ sở dữ liệu được cập nhật từ các chương trình giám sát quốc gia theo đoạn
3(a) của Điều khoản này; và
(c) hợp tác với các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền thiết lập theo tiến độ và duy trì một hệ thống toàn cầu để thường
xuyên thu thập và phổ biến thông tin về sản xuất thuốc lá, các hoạt động sản xuất
của ngành công nghiệp thuốc lá mà có ảnh hưởng đến Công ước này hoặc các hoạt động
kiểm soát thuốc lá quốc gia.
5. Các Bên nên hợp tác với các tổ chức
liên Chính phủ quốc tế và khu vực và các cơ quan tài chính và phát triển mà họ
là thành viên để thúc đẩy và khuyến khích việc cung cấp các nguồn tài chính và
kỹ thuật cho Ban thư ký để giúp đỡ cho các Bên nước đang phát triển và các Bên
nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ để đáp ứng các cam kết của họ về
nghiên cứu, giám sát và trao đổi thông tin.
Điều 21. Báo cáo và trao đổi thông tin
1.
Mỗi Bên sẽ đệ trình lên Hội nghị các Bên, thông qua Ban thư ký, các báo cáo định
kỳ về việc thực hiện Công ước này, bao gồm các nội dung sau:
(a) các thông tin về các biện pháp mang
tính luật pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp khác đã áp dụng để thực
hiện Công ước này.
(b) những thông tin, ở mức phù hợp, về bất
kỳ trở ngại hoặc rào cản nào gặp phải trong quá trình thực hiện Công ước và các
biện pháp áp dụng để vượt qua những rào cản này.
(c) các thông tin, ở mức phù hợp, về sự
trợ giúp tài chính và kỹ thuật được cung cấp hoặc nhận được cho các hoạt động
kiểm soát thuốc lá.
(d) các thông tin về giám sát và nghiên
cứu được nêu cụ thể tại Điều 20.
(e) các thông tin được nêu cụ thể tại
các Điều 6.3, 13.2, 18.3, 13.4 (d), 15.5 và
2. Định kỳ và hình thức của các báo cáo
này của các Bên sẽ do Hội nghị các Bên xác định. Mỗi Bên sẽ làm bản báo cáo đầu
tiên trong vòng 2 năm đầu kể từ khi Công ước bắt đầu có hiệu lực đối với Bên
đó.
3. Hội nghị các Bên theo quy định tại
các Điều 22 và 26 sẽ xem xét các thu xếp nhằm giúp các Bên là nước đang phát
triển và các Bên có nền kinh tế quá độ, theo yêu cầu, nhằm hoàn thành các nghĩa
vụ của họ theo Điều này.
4. Thông báo và trao đổi thông tin theo
Công ước sẽ tuân thủ luật pháp quốc gia về bảo mật và bảo vệ sự riêng tư. Các
Bên sẽ bảo vệ, theo thỏa thuận chung, bất kỳ thông tin mật nào được trao đổi.
Điều 22. Hợp tác trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật
và luật pháp và cung cấp chuyên môn
1. Các Bên sẽ hợp tác trực tiếp hoặc
thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền để tăng cường năng lực nhằm thực hiện
các nghĩa vụ phát sinh từ Công ước này, có tính đến nhu cầu của các Bên là các
nước đang phát triển và các Bên là nước có nền kinh tế quá độ. Việc hợp tác như
vậy sẽ tăng cường việc chuyển giao chuyên môn về luật pháp, khoa học kỹ thuật
và công nghệ, theo thỏa thuận chung, để xây dựng và tăng cường các chiến lược
kiểm soát thuốc lá, các kế hoạch và chương trình nhằm các mục đích bao gồm:
(a) thúc đẩy sự phát triển, chuyển giao
và nắm bắt công nghệ, kiến thức, kỹ năng, .năng lực và chuyên môn liên quan đến
phòng chống thuốc lá;
(b) cung cấp chuyên môn về khoa học, kỹ
thuật, luật pháp và các lĩnh vực khác để xây dựng và tăng cường các chiến lược
kế hoạch và chương trình phòng chống thuốc lá quốc gia nhằm thực hiện Công ước
thông qua các việc bao gồm các việc sau:
(i) trợ giúp, theo yêu cầu, việc phát
triển cơ sở luật pháp cũng như các chương trình kỹ thuật, bao gồm cơ sở pháp
lý và chương trình ngăn ngừa việc bắt đầu hút thuốc lá, khuyến khích ngừng hút
thuốc lá và bảo vệ khỏi sự phơi nhiễm với khói thuốc lá.
(ii) trợ giúp, ở mức thích hợp, công
nhân sản xuất thuốc lá trồng việc phát triển các kế sinh nhai thay thế khả thi
về luật pháp và kinh tế theo cách khả thi về kinh tế. .
(iii) hỗ trợ, ở mức thích hợp, người trồng
thuốc lá trong việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang các cây trồng thay thế
theo cách khả thi về kinh tế,
(c) hỗ trợ các chương trình đào tạo hoặc
gây nhạy cảm cho các đối tượng phù hợp theo Điều 12;
(d) cung cấp, ở mức thích hợp, các
nguyên liệu, trang thiết bị và vật tư cần thiết cũng như các hỗ trợ hậu cần cho
các chiến lược, kế hoạch và chương trình kiểm soát thuốc lá;
(e) xác định các phương pháp kiểm soát
thuốc lá, kể cả việc điều trị toàn diện đối với nghiện nicotine; và
(f) đẩy mạnh, ở mức phù hợp các nghiên cứu
nhằm tăng cường khả năng có thể chi trả được cho việc điều trị toàn diện đối với
nghiện thuốc lá.
2. Hội nghị các Bên sẽ đẩy mạnh và tạo
điều kiện cho việc chuyển giao chuyên môn về khoa học kỹ thuật và luật pháp với
sự hỗ trợ tài chính được bảo đảm tại Điều 26.
CÁC
THU XẾP VỀ THỂ CHẾ VÀ NGUỒN TÀI CHÍNH
Điều 23. Hội nghị các Bên .
1. Một Hội nghị các Bên được tổ chức
theo văn bản này. Phiên họp đầu tiên của Hội nghị này sẽ do Tổ chức Y tế thế giới
triệu tập không quá 1 năm sau khi Công ước này có hiệu lực. Trong phiên họp đầu
tiên, Hội nghị sẽ xác định thời gian và địa điểm cho các phiên họp thường kỳ tiếp
theo.
2. Các phiên họp bất thường của Hội nghị
các Bên sẽ được tổ chức vào các thời điểm khác mà Hội nghị thấy cần thiết, hoặc
theo yêu cầu bằng văn bản của bất kỳ Bên nào với điều kiện là, trong vòng 6
tháng sau khi yêu cầu đó được Ban thư ký của Công ước truyền đạt tới các Bên,
yêu cầu này được 1/3 các Bên ủng hộ.
3. Hội nghị các Bên sẽ thông qua, bằng sự
nhất trí, các Quy định về Thủ tục tại phiên họp đầu tiên.
4. Hội nghị các Bên, bằng sự nhất trí, sẽ
thông qua các quy định về tài chính cho chính mình cũng như chi phối việc tài
trợ cho bất kỳ cơ quan chi nhánh nào mà Hội nghị có thể thành lập cũng như các
quy định tài chính chi phối hoạt động của Ban thư ký. Tại mỗi phiên họp, Hội
nghị sẽ thông qua một ngân sách cho giai đoạn tài chính kéo dài tới phiên họp lần
sau.
5. Hội nghị các Bên sẽ xem xét thường
xuyên việc thực hiện Công ước này và tiến hành các quyết định cần thiết để thúc
đẩy việc thực hiện công ước một cách hiệu quả và có thể thông qua các nghị định
thư, các bổ sung và sửa đổi cho Công ước theo các Điều 28, 29, và 33. Nhằm mục
đích này, Hội nghị sẽ:
(a) đẩy mạnh và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc trao đổi thông tin theo các Điều 20 và 21 ;
(b) đẩy mạnh và hướng dẫn việc phát triển
và hoàn thiện theo định kỳ các phương pháp có thể so sánh được cho việc nghiên
cứu và thu thập số liệu bổ sung cho các điều khoản quy định tại Điều 20, liên
quan đến thực hiện Công ước;
(c) đẩy mạnh, ở mức thích hợp, việc phát
triển, thực hiện và đánh giá các chiến lược, kế hoạch và chương trình cũng như
các chính sách, luật pháp, và các biện pháp khác;
(d) xem xét các thông báo mà các Bên đệ
trình theo Điều 21 và thông qua các báo cáo định kỳ về việc thực hiện công ước;
(e) đẩy mạnh và tạo điều kiện cho việc
huy động các nguồn tài chính để thực hiện Công ước theo Điều 26;
(f) thành lập các cơ quan chi nhánh cần
thiết để đạt được mục tiêu của Công ước;
(g) yêu cầu, ở mức phù hợp, các dịch vụ,
sự hợp tác của và thông tin được cung cấp bởi, các tổ chức và cơ quan có thẩm
quyền và liên quan thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế, liên
Chính phủ khu vực và các tổ chức và cơ quan phi chính phủ như những phương tiện
nhằm để thúc đẩy việc thực hiện Công ước; và
(h) xem xét các hành động khác, ở mức
thích hợp, để đạt được mục tiêu của Công ước dưới ánh sáng của các kinh nghiệm
thu lượm được trong việc thực hiện Công ước.
6. Hội nghị các Bên sẽ xây dựng các tiêu
chí cho việc tham gia của các quan sát viên trong các buổi họp của Hội nghị.
Điều 24. Ban thư ký
1.
Hội nghị các Bên sẽ chỉ định ban thư ký thường trực và tiến hành các thu xếp để
ban này thực hiện các chức năng của mình. Hội nghị các Bên sẽ cố gắng thực hiện
điều này tại cuộc họp đầu tiên.
2. Các chức năng của ban thư ký phục vụ
Công ước này sẽ do Tổ chức Y tế thế giới thực hiện cho đến khi ban thư ký thường
trực được chỉ định và thành lập.
3. Các chức năng của ban thư ký là:
(a) thu xếp các phiên họp của Hội nghị
các Bên và các tổ chức trợ giúp, cung cấp cho họ các dịch vụ theo yêu cầu;
(b) chuyển các báo cáo nhận được theo
đúng Công ước
(c) cung cấp hỗ trợ cho các Bên theo yêu
cầu đặc biệt cho các Bên là nước đang phát triển và các Bên là các nước có nền
kinh tế trong thời ký quá độ, trong việc soạn thảo và truyền thông các thông
tin được yêu cầu theo các điều khoản của Công ước;
(d) chuẩn bị các bản báo cáo về hoạt động
theo Công ước theo hướng dẫn của hội nghị các Bên và nộp báo cáo tới hội nghị
các Bên;
(e) đảm bảo sự điều phối cần thiết các tổ
chức, đại diện quốc tế và vùng theo hướng dẫn của hội nghị các Bên;
(f) tham gia vào các thỏa thuận hành
chính hoặc hợp đồng, trên cơ sở các hướng dẫn chung của hội nghị các Bên, để thực
hiện có hiệu quả chức năng của mình;
(g) thực hiện các chức năng của ban thư
ký đã được quy định trong Công ước và trong bất kỳ nghị định thư nào của Công ước
và các chức năng khác được xác định qua hội nghị các Bên.
Điều 25. Mối liên quan giữa Hội nghị các Bên với
các tổ chức liên Chính phủ.
Nhằm
cung cấp sự hợp tác kỹ thuật và tài chính để đạt được mục tiêu của Công ước
này, Hội nghị các Bên có thể yêu cầu sự hợp tác của các tổ chức quốc tế có năng
lực và các tổ chức liên Chính phủ khu vực bao gồm các tổ chức tài chính và phát
triển.
Điều 26. Các nguồn lực tài chính
1.
Các Bên công nhận vai trò quan trọng của nguồn lực tài chính để đạt được mục
tiêu của Công ước này.
2. Mỗi Bên sẽ hỗ trợ về tài chính liên
quan đến các hoạt động quốc gia được dự kiến nhằm đạt mục tiêu của Công ước phù
hợp với các kế hoạch, các ưu tiên và các chương trình quốc gia.
3. Các Bên sẽ đẩy mạnh, một cách phù hợp,
sử dụng các kênh song phương, đa phương, khu vực và tiểu khu vực để cung cấp
tài trợ cho việc phát triển và tăng cường các chương trình kiểm soát thuốc lá
toàn diện và đa ngành của các Bên là nước đang phát triển và các Bên là những nền
kinh tế quá độ. Theo đó, là các hoạt động khả thi về kinh tế nhầm thay thế sản
xuất thuốc lá kể cả đa dạng hóa mùa màng cần được đề cập và hỗ trợ trong hoàn cảnh
của các chiến lược phát triển bền vững do quốc gia xây dựng.
4. Các Bên có đại diện trong các tổ chức
khu vực và liên Chính phủ quốc tế và các tổ chức tài chính và phát triển có
liên quan sẽ khuyến khích các tổ chức này hỗ trợ về tài chính cho các Bên là nước
đang Phát triển và các Bên là các nước đang trong thời kỳ quá độ để hỗ trợ họ
trong thực hiện các nghĩa vụ theo Công ước mà không hạn chế các quyền tham gia
vào các tổ chức này.
5. Các bên đồng ý rằng:
(a) để trợ giúp các Bên thực hiện nghĩa
vụ theo Công ước, mọi nguồn tài chính tiềm tàng và hiện có về tài chính, kỹ thuật
và các lĩnh vực khác kể cả tư nhân và nhà nước sẵn có để cung cấp cho các hoạt
động kiểm soát thuốc lá cần được huy động và sử dụng vì lợi ích của tất cả các
Bên, đặc biệt là các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế đang ở thời
ký quá độ;
(b) ban thư ký sẽ tư vấn cho các Bên là
nước đang phát triển và các Bên là các nước đang quá độ, theo yêu cầu, về các
nguồn tài trợ sẵn có nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nghĩa
vụ của họ theo Công ước;
(c) trong phiên họp đầu tiên, hội nghị
các Bên sẽ xem lại các nguồn và cơ chế hỗ trợ tiềm tàng dựa trên một nghiên cứu
do Ban thư ký thực hiện và các thông tin liên quan khác, xem xét tính đầy đủ của
các thông tin này; và
(d) kết quả của việc xem lại này sẽ được
Hội nghị các Bên xem xét để xác định sự cần thiết phải tăng cường cơ chế hiện
nay hoặc thành lập một quỹ tình nguyện toàn cầu hoặc các cơ chế tài Chính phủ hợp
khác nhằm chuyển các nguồn lực tài chính bổ sung, tùy theo nhu cầu, cho các Bên
là nước đang phát triển và các Bên có nền kinh tế quá độ.
Điều 27. Giải quyết tranh chấp
1. Trong trường hợp có tranh chấp giữa
hai hoặc nhiều Bên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước này, các
Bên liên quan sẽ tìm cách thông qua các kênh ngoại giao để giải quyết tranh chấp
thông qua thương lượng hay bất kỳ biện pháp hòa bình khác họ tự lựa chọn bao gồm
giúp đỡ thiện chí, trung gian hoặc hòa giải. Nếu không đạt được thỏa thuận bằng
các biện pháp giúp đỡ thiện chí, trung gian hoặc hòa giải thì sẽ không miễn
trách các Bên tranh chấp khỏi trách nhiệm tiếp tục tìm kiếm phương thức giải
quyết tranh chấp.
2. Khi phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt,
chính thức khẳng định hoặc tán thành Công ước này, hoặc vào bất kỳ thời điểm
nào sau đó, một tổ chức Nhà nước hay hội nhập kinh tế khu vực có thể thông báo
bằng văn bản tới Người giữ văn kiện rằng đối với một tranh chấp không giải quyết
được theo đoạn 1 của Điều này, tổ chức này chấp nhận, mang tính bắt buộc, sự
phân xử trọng tài đặc biệt theo các thủ tục sẽ được thực hiện với sự nhất trí của
Hội nghị các Bên.
3. Các quy định trong Điều này sẽ áp dụng
liên quan đến bất kỳ nghị định thư nào được ký giữa các Bên tham gia nghị định
thư trừ khi được quy định khác đi trong nghị định đó.
Điều 28. Sửa đổi công ước
1. Bất kỳ Bên nào cũng có thể đề nghị
các sửa đổi đối với Công ước này. Các sửa đổi như vậy sẽ được xem xét bởi Hội
nghị các Bên
2. Các sửa đổi đối với công ước sẽ được
thực hiện bởi Hội nghị các Bên. Văn bản về bất kỳ sự sửa đổi nào được đề xuất
cũng sẽ được Ban thư ký gửi tới các Bên ít nhất 6 tháng trước phiên họp tại đó
việc sửa đổi được dự kiến thông qua. Ban thư ký cũng sẽ truyền đạt các đề xuất
sửa đổi tới các bên ký Công ước và thông báo tới Người giữ văn kiện
3. Các Bên sẽ cố gắng hết sức để đi đến
nhất trí thỏa thuận về bất kỳ sửa đổi nào đối với Công ước. Nếu mọi cố gắng đi
đến nhất trí đã cạn kiệt mà vẫn không thỏa thuận được thì biện pháp cuối cùng
cho việc sửa đổi sẽ được quyết định bởi 2/3 đa số phiếu trong tổng số các Bên
có mặt tại cuộc họp. Vì các mục đích của Điều này các Bên có mặt và bỏ phiếu có
nghĩa là các Bên có mặt bỏ phiếu phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Bất kỳ khoản bổ
sung nào được thông qua cũng sẽ được Ban thư ký truyền đạt tới Người giữ văn kiện
và cơ quan này sẽ luân chuyển tới các Bên để chấp nhận sự điều chỉnh.
4. Các văn bản chấp thuận sửa đổi sẽ được
lưu tại Người giữ văn kiện. Một sửa đổi được thông qua theo đoạn 3 của Điều này
sẽ có hiệu lực đối với các Bên đã chấp nhận sửa đổi vào ngày thứ 90 sau khi Người
giữ văn kiện nhận được văn bản chấp thuận của 2/3 các Bên tham gia Công ước
này.
5. Việc sửa đổi sẽ có hiệu lực đối với bất
kỳ Bên nào khác kể từ ngày thứ 90 sau ngày mà Bên đó gửi cho Người giữ văn kiện
văn bản chấp thuận điều chỉnh nói trên.
Điều 29. Thông qua và sửa đổi các phụ lục của Công
ước này
1.
Các phụ lục của Công ước và các điều chỉnh cho Phụ lục sẽ được đề xuất, thông
qua và sẽ có hiệu lực theo các thủ tục nêu tại Điều 28.
2. Các phụ lục của Công ước này sẽ là một
bộ phận của Công ước, và tham chiếu tới công ước cũng đồng thời là tham chiếu tới
các phụ lục này, trừ phi có quy định khác.
3. Các phụ lục sẽ được giới hạn ở các
danh sách, biểu mẫu và bất kỳ tài liệu mô tả nào khác liên quan đến các vấn đề
về thủ tục, khoa học, kỹ thuật hoặc hành chính.
Điều 30. Bảo lưu
Không có sự bảo lưu nào được phép thực
hiện đối với Công ước này
Điều 31. Rút lui khỏi Công ước
1.
Vào bất cứ thời điểm nào sau 2 năm kể từ ngày Công ước có hiệu lực đối với một
Bên, Bên đó có thể rút lui khỏi Công ước bằng cách gửi văn bản thông báo tới
Người giữ văn kiện
2. Bất kỳ việc rút lui nào như vậy sẽ có
hiệu lực sau khi hết 1 năm kể từ khi Người giữ văn kiện nhận thông báo xin rút
lui hoặc vào một ngày sau đó như được nêu cụ thể trong thông báo rút lui.
3. Bất kỳ một Bên nào rút khỏi Công ước
sẽ được xem xét như rút khỏi bất kỳ một nghị định thư nào cho Bên đó.
Điều 32. Quyền bỏ phiếu
1. Mỗi Bên tham gia Công ước này có quyền
bỏ phiếu. Trường hợp ngoại lệ tham khảo ở đoạn 2 của Điều khoản này.
2. Các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ sẽ sử dụng quyền bỏ phiếu với số phiếu
bầu bằng số nước thành viên tham gia Công ước. Tổ chức sẽ không sử dụng quyền bỏ
phiếu của họ nếu một nước nào đó trong các nước thành viên sử dụng quyền bỏ phiếu
của tổ chức và ngược lại.
3. Bất kỳ Bên nào rút lui khỏi Công ước
cũng sẽ được coi là đã rút khỏi bất cứ nghị định thư nào trong đó Bên đó là một
bên tham gia.
Điều 33. Các Nghị định thư
1.
Bất kỳ Bên nào cũng có thể đề xuất các nghị định thư. Các đề nghị như vậy sẽ được
Hội nghị các Bên xem xét.
2. Hội nghị các Bên có thể thông qua các
nghị định thư cho Công ước này. Trong khi thông qua các nghị định thư này, mọi
cố gắng sẽ được thực hiện để đạt được sự nhất trí. Nếu mọi cố gắng để đi đến nhất
trí không thành công, thì nghị định thư sẽ được thông qua với biện pháp cuối
cùng là bằng đa số phiếu của các Bên có mặt và bỏ phiếu trong phiên họp. Vì các
mục đích của Điều này, các Bên có mặt và bỏ phiếu có nghĩa là các Bên có mặt và
bỏ phiếu thuận hoặc phiếu chống.
3. Văn bản của bất kỳ nghị định thư được
đề xuất nào cũng sẽ được Ban thư ký truyền đạt tới các Bên ít nhất 6 tháng trước
phiên họp tại đó nó được đề xuất thông qua.
4. Chỉ có các Bên trong Công ước này mới
được tham gia vào nghị định thư
5. Bất kỳ nghị định thư nào của Công ước
cũng sẽ chỉ ràng buộc đối với các Bên ký Nghị định thư liên quan. Chỉ có các
bên của nghị định thư mới có thể ra các quyết định về các vấn đề hên quan riêng
đến nghị định thư cụ thể đó.
6. Các yêu cầu về thời gian bắt đầu có
hiệu lực của bất kỳ nghị định thư cũng sẽ do văn bản đó quy định.
Điều 34. Chữ ký
Công ước này sẽ để ngỏ để lấy chữ ký của
mọi Thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới và của bất kỳ Quốc gia nào không phải
thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới nhưng là thành viên của Liên Hiệp quốc và
của các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực tại Tổng hành dinh của Tổ chức Y tế Thế
giới tại Giơ-ne-vơ từ ngày 16 tháng 6 năm 2003 tới ngày 22 tháng 6 năm 2003 và
sau đó tại Tổng hành dinh của Liên Hiệp quốc tại Niu- Oóc từ ngày 30 tháng 6
năm 2003 tới ngày 29 tháng 6 năm 2004.
Điều 35. Phê chuẩn, chấp nhận, tán thành, khẳng định
hay tham gia chính thức
1. Công ước này sẽ tùy thuộc vào sự phê
chuẩn, chấp nhận, tán thành hay tham gia của các Quốc gia vào sự khẳng định hoặc
tham gia chính thức của các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực. Công ước sẽ được
để ngỏ cho các Bên tham gia kể từ sau ngày kết thúc việc ký Công ước. Các văn
kiện phê chuẩn, chấp nhận, tán thành, khẳng định hay tham gia chính thức sẽ được
lưu tại Người giữ văn kiện.
2. Bất kỳ một tổ chức hội nhập kinh tế
khu vực nào trở thành một Bên của Công ước này mà không theo Quốc gia Thành
viên nào tham gia Công ước sẽ bị ràng buộc bởi mọi nghĩa vụ theo Công ước.
Trong trường hợp trong số các tổ chức này, có một hay nhiều Quốc gia Thành viên
là một Bên tham gia Công ước, thì tổ chức và các Quốc gia Thành viên sẽ quyết định
các trách nhiệm tương ứng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công
ước. Trong các trường hợp trên, tổ chức và các Quốc gia Thành viên sẽ không được
quyền thực hiện kiêm nhiệm các quyền theo cùng một Công ước.
3. Các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
trong các văn bản của họ liên quan đến việc khẳng định chính thức hoặc trong
các văn bản về sự tham gia, sẽ tuyên bố phạm vi thẩm quyền của mình liên quan đến
các vấn đề do Công ước chi phối. Các tổ chức này cũng sẽ thông báo cho Người giữ
văn kiện. Phòng Lưu giữ sẽ thông báo tới các Bên về bất kỳ một sự điều chỉnh
quan trọng nào trong phạm vi thẩm quyền của mình.
1 . Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày
thứ 90 sau ngày nộp các văn kiện thứ 40 về việc phê chuẩn, chấp nhận, tán
thành, khẳng định hay tham gia chính thức tại Người giữ văn kiện.
2. Đối với mỗi Quốc gia phê chuẩn, chấp
nhận hoặc tán thành Công ước hoặc tham gia Công ước này sau khi các điều kiện
nêu tại đoạn 1 của điều này về việc bắt đầu hiệu lực đã được thỏa mãn, Công ước
sẽ có hiệu lực từ ngày thứ 90 sau ngày nộp các văn kiện về phê chuẩn, chấp nhận,
tán thành hay xin gia nhập.
3. Đối với mỗi tổ chức hội nhập kinh tế
khu vực nộp văn bản chính thức chấp thuận hay đơn xin tham gia sau khi các điều
kiện nêu tại đoạn 1 của Điều này về việc bắt đầu có hiệu lực đã được thỏa mãn,
Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 90 sau ngày nộp văn kiện khẳng định chính
thức hay xin tham gia.
4. Vì các mục đích của Điều này, bất kỳ
văn kiện nào được tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nộp lên sẽ không được tính
là bổ sung cho các văn kiện do các Quốc gia Thành viên của tổ chức này nộp lên.
:
Tổng Thư ký Liên hiệp quốc sẽ là người
giữ văn kiện của Công ước này và các văn bản sửa đổi Công ước, các nghị định
thư và các phụ lục được thông qua theo các Điều 28, 29, và 33
Điều 38. Văn bản gốc
Bản gốc của Công ước này, trong đó các
văn bản bằng tiếng Ả rập, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha đều có giá
trị pháp lý như nhau được lưu trữ tại Tổng thư ký Liên hiệp quốc.
Chứng kiến những đều viết ở trên, những
người ký tên dưới đây, được uỷ nhiệm để ký, đã ký vào Công ước này.
Làm tại Giơ-ne- vơ vào [ngày, tháng] năm
2003.
Phiên họp toàn thể thứ 4, 21 tháng 5,
2003
A56VR/4
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét