VỀ BẢN QUYỀN
(Được
sửa đổi tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971)
Xuất phát
từ nguyện vọng bảo đảm các quyền về bản quyền tại tất cả các nước trên thế giới
đối với các tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật.
Tin tưởng
rằng một hệ thống bản quyền thích hợp với mọi quốc gia trên thế giới được thể
hiện qua một Công ước Toàn cầu mang tính chất bổ sung và không gây tổn hại đến
các hệ thống bản quyền quốc tế hiện sẽ có sự bảo đảm tôn trọng quyền của các cá
nhân và khuyến khích sự phát triển của văn học, khoa học và nghệ thuật.
Tin tưởng
rằng một hệ thống bản quyền toàn cầu như vậy sẽ thúc đẩy phổ cập rộng rãi hơn
các tác phẩm trí tuệ và tăng cường sự hiểu biết quốc tế.
Các nước
tham gia Công ước quyết định sửa đổi Công ước Toàn cầu về bản quyền tại Geneva
ngày 6 tháng 9 năm 1952 và tiếp theo đó đã thoả thuận như sau:
Điều
1. Mỗi nước tham gia Công ước cam kết bảo
đảm việc bảo hộ các quyền của các tác giả và những người sở hữu bản quyền khác
của các tác giả và những người sở hữu bản quyền khác về văn học, khoa học và
nghệ thuật bao gồm các tác phẩm viết, các tác phẩm âm nhạc, kịch, điện ảnh, các
tranh vẽ, khắc và điêu khắc.
1. Ngoài sự
bảo hộ bản quyền đặc biệt do Công ước này mang lại các tác phẩm được công bố
của công dân của bất kì nước nào tham gia Công ước và các tác phẩm được công bố
lần đầu ở nước đó còn được hưởng tại các nước tham gia Công ước khác sự bảo hộ
bản quyền mà các nước này áp dụng đối với các tác phẩm của các công dân của
mình lần đầu tiên được công bố trong lãnh thổ của mình.
2. Ngoài sự
bảo hộ bản quyền đặc biệt do Công ước này mang lại, các tác phẩm còn chưa được
công bố của công dân mỗi nước tham gia Công ước còn được hưởng tại các nước
tham gia Công ước khác sự bảo hộ bản quyền mà các nước này áp dụng đối với các
tác phẩm còn chưa được công bố của các công dân của mình.
3. Công ước
này còn có mục đích là bất kì nước nào tham gia Công ước, trên cơ sở luật pháp
của nước mình, có thể cho phép mọi công dân cư trú tại nước mình trở thành công
dân của nước mình.
1. Các nước
tham gia Công ước mà theo luật pháp của nước mình coi sự tuân thủ các thủ tục
như lưu chiểu, đăng ký, thông báo, công chứng, thanh toán các khoản phí, chế
tạo hay ấn hành ở các nước đó như là một điều kiện để bảo hộ bản quyền phải coi
các thủ tục này là đã được đáp ứng như là một điều kiện để bảo hộ bản quyền
phải coi các thủ tục này là đã được đáp ứng đối với mọi tác phẩm được bảo hộ
theo Công ước này và được công bố lần đầu ở ngoài lãnh thổ của mình và tác giả
của chúng không phải là công dân của mình, nếu như từ lần công bố đầu tiên mọi
bản của tác phẩm được công bố với quyền tác giả của tác giả hay của người sở
hữu bản quyền khác có mang dấu (c) kèm theo tên người sở hữu bản quyền và năm
in đầu tiên được sắp xếp theo cách như vậy cùng tên địa phương với tư cách là
địa chỉ đúng trong trường hợp khiếu nại về bản quyền.
2. Các qui
định tại Đoạn 1 không ngăn cản việc bất kì một nước nào tham gia Công ước yêu
cầu có các thủ tục hay có các điều kiện khác để được có hay được hưởng sự bảo
hộ bản quyền đối với các tác phẩm được in lần đầu ở nước đó hay các tác phẩm
của các công dân của nước đó dù được in ở bất kì nơi nào.
3. Các điều
kiện của Đoạn 1 không ngăn cản việc bất kì nước tham gia Công ước nào qui định
rằng người tìm kiếm sự giúp đỡ của Toà án trong khi tiến hành khiếu nại phải
tuân thủ các yêu cầu thủ tục, ví dụ như người khiếu nại phải trình diện thông
qua luật sư trong nước hay người khiếu nại phải lưu tại Toà hay tại một cơ quan
hành chính (hay tại cả hai nơi) một bản của tác phẩm được khiếu nại; với điều
kiện rằng việc không tuân thủ các yêu cầu này không ảnh hưởng đến giá trị của
bản quyền cũng như bất kì một yêu cầu như vậy sẽ không được áp đặt cho công dân
của một nước khác tham gia Công ước một khi nó không được áp dụng cho công dân
của một nước mà tại đó có sự khiếu nại về bảo hộ bản quyền.
4. Mỗi nước
tham gia Công ước phải có các biện pháp pháp luật không kèm theo các thủ tục để
bảo hộ các tác phẩm còn chưa công bố của các công dân của các nước tham gia
Công ước khác.
5. Nếu một
nước tham gia Công ước đưa ra một sự bảo hộ bản quyền gồm nhiều giai Đoạn và
giai Đoạn đầu tiên dài hơn một trong số các giai Đoạn ngắn nhất được ghi ở Điều
4 thì nước đó không phải tuân thủ các điều kiện của Đoạn 1 của Điều này....
1. Theo các
điều kiện của Điều 2 và Điều này, thời hạn bảo hộ bản quyền cho một tác phẩm sẽ
được quyết định bởi pháp luật của nước tham gia Công ước mà tại đó xảy ra việc
khiếu nại về bản quyền của tác phẩm.
2. a) Thời
hạn bảo hộ bản quyền của tác phẩm được bảo hộ bởi Công ước này không được ngắn
hơn đời người của tác giả và 25 năm sau khi tác giả chết. Tuy nhiên, nếu bất kỳ
một nước nào tham gia Công ước vào ngày Công ước này có hiệu lực tại nước đó
hạn chế thời hạn này đối với một số tác phẩm bằng một thời hạn được tính từ lần
công bố đầu tiên của tác phẩm sẽ được quyền duy trì các hạn chế này và được phổ
cập các hạn chế này sang các loại tác phẩm khác. Đối với các loại tác phẩm này,
thời hạn bảo hộ quyền tác phẩm không được dưới 25 năm kể từ ngày công bố lần
đầu tiên của tác phẩm.
b) Bất kỳ
một nước nào tham gia Công ước này nếu vào ngày Công ước này có hiệu lực tại
nước đó không tính thời hạn bảo hộ quyền tác phẩm trên cơ sở đời người của tác
giả thì có quyền tính thời hạn bảo hộ bản quyền từ ngày công bố lần đầu tiên
của tác phẩm hoặc ngày đăng ký của tác phẩm trước khi công bố, tuỳ theo từng
trường hợp, với điều kiện là thời hạn bảo hộ bản quyền của tác phẩm không dưới
25 năm kể từ ngày công bố lần đầu tiên hoặc từ ngày đăng ký của tác phẩm, tuỳ
theo từng trường hợp.
c) Nếu cơ
quan lập pháp của nước tham gia Công ước cho phép có từ hai thời hạn bảo hộ bản
quyền liên tiếp trở lên thì thời gian của thời hạn thứ nhất không được ngắn hơn
một trong những thời hạn tối thiểu được ghi trong phần Đoạn (a) và (b).
3. Các điều
kiện của Đoạn 2 sẽ không được áp dụng đối với các tác phẩm nhiếp ảnh hay các
tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, tuy nhiên với điều kiện rằng thời hạn bảo hộ bản
quyền tại các nước tham gia Công ước (mà các nước đó bảo hộ bản quyền các tác
phẩm nhiếp ảnh hay các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng trong chừng mực chúng được
bảo hộ bản quyền như là các tác phẩm nghệ thuật), không được ngắn hơn 10 năm
đối với mỗi loại tác phẩm được nói trên.
4. a) Trong
trường hợp các tác phẩm không được công bố theo pháp luật của nước tham gia
Công ước mà tác giả của tác phẩm là công dân và trong trường hợp các tác phẩm
được công bố theo pháp luật của nước tham gia Công ước mà tại đó tác phẩm được
công bố lần đầu tiên, không nước tham gia Công ước nào phải bị bắt buộc phải
bảo hộ bản quyền cho một tác phẩm trong một thời hạn dài hơn thời hạn được quy
định cho loại tác phẩm của tác phẩm đó.
b) Nhằm mục
đích áp dụng phân Đoạn (a), nếu pháp luật của nước tham gia Công ước nào cho
phép có hai thời hạn bảo hộ bản quyền liên tiếp trở lên thì thời hạn bảo hộ bản
quyền của nước đó sẽ là tổng thời hạn của các thời hạn nói trên. Tuy nhiên, nếu
tác phẩm được nói trên không được bảo hộ bản quyền trong thời hạn thứ hai hay
trong bất kỳ thời hạn tiếp theo nào, vì bất cứ lý do nào, thì các nước tham gia
Công ước khác sẽ không bị bắt buộc phải bảo hộ tác phẩm này trong thời hạn thứ
hai hay bất kỳ thời hạn tiếp theo nào.
5. Nhằm mục
đích áp dụng Đoạn 4, một tác phẩm của công dân của nước tham gia Công ước nếu
lần đầu tiên được công bố tại nước không tham gia Công ước sẽ được coi như được
công bố lần đầu tiên tại nước tham gia Công ước mà tác giả của tác phẩm là công
dân.
6. Nhằm mục
đích áp dụng Đoạn 4, trong trường hợp một tác phẩm được công bố đồng thời tại
hai nước tham gia Công ước trở lên, tác phẩm đó sẽ được coi như tác phẩm được
in lần đầu tiên tại nước cho phép thời hạn bảo hộ bản quyền ngắn nhất. Bất kì
tác phẩm nào được công bố tại hai nước tham gia Công ước trở lên trong vòng 30
ngày của lần công bố đầu tiên sẽ được coi như được công bố đồng thời tại các
nước tham gia Công ước được nói trên.
1. Các
quyền được nêu trong Điều 1 bao gồm các quyền cơ bản bảo đảm lợi ích kinh tế
của tác giả trong đó có cả quyền đặc biệt được uỷ quyền tạo ra phiên bản bằng
bất cứ phương tiện nào, cho phép trình diễn công cộng hay truyền thanh, truyền
hình. Các điều kiện của Điều này sẽ được phép phổ cập sang cho các tác phẩm
được bảo hộ bởi Công ước này dưới hình thức nguyên tác hay dưới bất kì hình
thức có thể nhận biết nào được bắt nguồn từ nguyên tác
2. Tuy
nhiên, bất kì một nước tham gia Công ước nào trên cơ sở pháp luật của nước
mình, có thể cho phép các ngoại lệ mà không đối lập với tinh thần và các điều
kiện của Công ước này, không đối lập với các quyền được nhắc tại Đoạn 1 của
Điều này. Tuy nhiên, bất kì nước nào mà cơ sở pháp luật cho phép như vậy phải
đưa lại một mức độ bảo hộ bản quyền có hiệu quả hợp lí cho mỗi quyền trong số
các quyền được có các ngoại lệ.
1. Các
quyền được nói trong Điều 1 bao gồm cả quyền đặc biệt của tác giả được làm,
công bố và uỷ quyền làm và công bố các bản dịch của các tác phẩm được bảo hộ
bản quyền theo Công ước này.
2. Tuy
nhiên, bất kì nước tham gia Công ước nào trên cơ sở pháp luật của mình đều có
thể hạn chế quyền dịch các bản viết mà chỉ tuân theo các điều kiện sau:
a) Nếu thời
hạn 7 năm kể từ ngày công bố lần đầu tiên của bản viết chấm dứt bản dịch của
bản viết đó còn chưa được công bố bởi người giữ bản quyền của bản dịch hay có
uỷ quyền về bản dịch bằng ngôn ngữ sử dụng phổ thông tại nước tham gia Công ước
thì bất kì công dân nào của nước tham gia Công ước đó có thể xin giấy phép bình
thường từ một cơ quan có thẩm quyền để dịch tác phẩm thành tiếng của nước tham
gia Công ước này và công bố tác phẩm dịch này.
b) Theo thủ
tục của Nhà nước liên quan, công dân này sẽ xác định hoặc đã yêu cầu, nhưng bị
từ chối sự uỷ quyền bởi người sở hữu quyền làm và công bố bản dịch, hoặc xác
định rằng sau khi thực hiện các nỗ lực cần thiết về phía mình công dân đó không
thể tìm ra chủ sở hữu bản quyền. Một giấy phép có thể trao cho các điều kiện
như thế nếu mọi bản xuất bản trước của bản dịch bằng tiếng phổ thông của nước
tham gia Công ước không còn nữa.
c) Nếu chủ
sở hữu bản quyền dịch không thể tìm ra được thì người xin giấy phép phải gửi
các bản sao đơn của người đó đến người công bố có tên trong tác phẩm, và trong
trường hợp quốc tịch của người sở hữu bản quyền dịch đã rõ, thì gửi đến tổ chức
đại diện ngoại giao hay lãnh sự của nước mà người sở hữu bản quyền dịch là công
dân hoặc đến một tổ chức này mà có thể được Chính phủ của nước đó uỷ nhiệm.
Giấy phép chỉ được trao sau thời hạn hai tháng kể từ ngày gửi các bản sao của
đơn xin giấy phép.
d) Luật
pháp trong nước phải qui định điều kiện nhằm bảo đảm cho người sở hữu bản quyền
dịch một sự bồi thường công bằng và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm
việc thanh toán và chuyển khoản bồi thường đó và bảo đảm bản dịch đúng của tác
phẩm.
e) Tên gọi
nguyên tác và tên tác giả của tác phẩm phải được in tại mọi bản của bản dịch
được công bố. Giấy phép chỉ có giá trị để công bố bản dịch tại lãnh thổ của
nước tham gia Công ước mà đơn xin phép yêu cầu. Các bản được công bố như vậy có
thể được nhập và bán ở nước tham gia Công ước khác nếu tiếng phổ thông của nước
khác đó cũng chính là tiếng mà tác phẩm được dịch sang và nếu pháp luật của
nước khác đó có qui định cho phép các giấy phép như vậy và không cấm việc nhập
khẩu và bán các bản dịch. Trong trường hợp các điều kiện nói trên không được
qui định, việc nhập và bán các bản dịch như vậy sẽ được quyết định bởi pháp
luật trong nước và các thoả thuận. Người được cấp giấy phép không được chuyển
giao giấy phép.
f) Giấy
phép không được cấp khi tác giả rút lưu hành mọi bản của tác phẩm.
1. Bất kì
nước tham gia Công ước nào được coi là nước phát triển theo qui định của Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc vào thời gian phê chuẩn, tiếp nhận và bổ sung (hoặc vào
các thời gian tiếp theo) bản thông báo do Tổng giám đốc của Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi chung là Tổng giám đốc) đều có thể
sử dụng một trong các ngoại lệ được đưa ra tại Điều 5 ter và Điều 5 quater.
2. Bất kì
thông báo nào như vậy sẽ có hiệu lực 10 năm kể từ ngày Công ước này có hiệu lực
hoặc là có hiệu lực trong thời gian còn lại của thời hạn 10 năm kể từ ngày bản
thông báo được gửi đến. Thông báo này có thể được đổi mới toàn bộ hay một phần
cho mỗi thời hạn 10 năm tiếp theo nếu trong thời gian ít nhất là 3 tháng và
nhiều nhất là 15 tháng trước thời hạn 10 năm kết thúc nước tham gia Công ước
gửi bản thông báo tiếp theo cho Tổng giám đốc.
Các thông
báo đầu tiên vẫn có thể được ban hành trong các thời hạn tiếp theo (theo các
điều kiện của Điều này).
3. Bất chấp
các điều kiện của Đoạn 2, một nước tham gia Công ước không được coi là nước
phát triển (như được nêu trong Đoạn 1) sẽ thôi không được quyền đổi mới thông
báo của mình được thực hiện theo các điều kiện của Đoạn 1 và 2, và dù nước đó
có rút hay không rút chính thức bản thông báo, thì nước đó sẽ không được sử
dụng các ngoại lệ ghi trong các Điều 5 ter và 5 quater vào lúc kết thúc của
thời hạn 10 năm hiện hành hay vào lúc kết thúc thời hạn 3 năm kể từ khi thôi
không được coi là nước phát triển, bất kể thời hạn nào chấm dứt muộn hơn.
4. Bất kì
bản nào của tác phẩm được tái tạo theo các ngoại lệ của Điều 5 ter và Điều 5
quater có thể được tiếp tục phát hành sau thời hạn có hiệu lực của các thông
báo của Điều này cho tới khi kho sách hết.
5. Bất kỳ
nước tham gia Công ước nào đã gửi thông báo phù hợp với Điều 13 nhằm mục đích
áp dụng Công ước này tại một nước hay một lãnh thổ nào đó có tình hình có thể
coi là tương tự với tình hình của những nước được nói đến trong Đoạn 1 của Điều
này thì có thể gửi các thông báo hay đổi mới chúng theo các điều kiện của Điều
này đối với bất kỳ một nước nào hay lãnh thổ nào như vậy. Trong thời hạn có
hiệu lực của các thông báo này, các điều kiện của các Điều 5 ter và 5 quater có
thể được áp dụng đối với một nước hay một lãnh thổ như vậy. Việc gửi các bản từ
một nước hay một lãnh thổ đến nước tham gia Công ước sẽ được coi như là một sự
xuất khẩu theo ý nghĩa của các Điều 5 ter và 5 quater.
1. a) Bất
kỳ một nước tham gia Công ước nào mà các Điều 5 ter được áp dụng có thể thay
thế thời hạn 7 năm được đưa ra trong Điều 5 (2) bằng một thời hạn 3 năm hay
bằng một thời hạn dài hơn mà pháp luật của nước đó qui định. Tuy nhiên, trong
trường hợp bản dịch được dịch sang thứ tiếng không phổ thông ở một hay nhiều
hơn các nước phát triển là một bên của Công ước này hay chỉ của Công ước năm
1952 thì thời hạn sẽ là 1 năm thay cho 3 năm.
b) Nước
tham gia Công ước mà các Điều 5 bis (1) được áp dụng có thể (với sự thoả thuận
nhất trí của các nước phát triển tham gia vào Công ước này hay chỉ của Công ước
năm 1952 và ở các nước đó tiếng mà tác phẩm được dịch sang là thứ tiếng phổ
thông) có thể thay thế ( trong trường hợp dịch sang tiếng đó) thời hạn 3 năm
được nêu ở phân Đoạn (a) bằng một thời hạn khác được xác định bằng thoả thuận
đó nhưng không được ngắn hơn 1 năm. Tuy nhiên, phân Đoạn này không áp dụng ở
nơi mà ngôn ngữ được đề cập là tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha. Thông báo về một
thoả thuận như vậy phải được báo lên Tổng giám đốc.
c) Giấy
phép chỉ được cấp nếu người xin (phù hợp với thủ tục của nước liên quan) xác
định rằng hoặc người xin đã yêu cầu, và bị từ chối, sự uỷ quyền của người sở
hữu bản quyền dịch, hay xác định rằng, sau khi người xin đã có những nỗ lực cần
thiết, người xin không thể tìm ra người sở hữu bản quyền dịch. Vào lúc mà người
xin yêu cầu, người xin phải thông báo hoặc là cho Trung tâm thông tin bản quyền
quốc tế của Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc hoặc là cho
bất kỳ Trung tâm Thông tin quốc gia hay khu vực nào mà Chính phủ quốc gia thông
báo cho Tổng giám đốc là có chức năng làm nhiệm vụ này; và tại nước mà Chính
phủ quốc gia của nó thông báo cho Tổng giám đốc thì người công bố phải được coi
là có trụ sở kinh doanh chính.
d) Nếu
người sở hữu bản quyền chính không thể tìm ra được thì người xin phép giấy phép
phải gửi (bằng bưu điện bảo đảm) cho các bản sao đơn của người xin cho người
công bố có tên ở tác phẩm hay đến bất kỳ Trung tâm Thông tin quốc gia hay khu
vực nào như được nêu ở phân Đoạn (c). Nếu không gửi đến Trung tâm nào như vậy
thì người xin phải gửi một bản sao đến Trung tâm thông tin bản quyền quốc tế
của Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc.
2. (a) Các
giấy phép nhận được sau 3 năm theo Điều này sẽ không được trao trước khi thời
hạn 6 tháng tiếp theo kết thúc và giấy phép nhận được sau một năm sẽ không được
trao trước khi thời hạn 9 tháng tiếp theo kết thúc. Thời hạn tiếp theo được bắt
đầu hoặc là từ ngày yêu cầu cho phép dịch như được nhắc ở Đoạn 1(c) hoặc (nếu
đặc điểm hay địa chỉ của người sở hữu bản quyền không rõ) từ ngày gửi các bản
sao của đơn xin giấy phép như được nhắc ở Đoạn 1(d), (b) các giấy phép không
được trao nếu bản dịch đã được công bố bởi người sở hữu bản quyền dịch hoặc
được công bố với sự uỷ quyền của người sở hữu bản quyền trong thời hạn 6 tháng
hay 9 tháng được nói trên.
3. Bất kì
giấy phép nào, theo điều này, sẽ chỉ được trao với mục đích giáo dục, học thuật
và nghiên cứu.
4. a) Bất
kì giấy phép nào được trao theo Điều này không được mở rộng sang việc xuất khẩu
các bản sao và chỉ có giá trị cho việc công bố tác phẩm tại lãnh thổ của nước
tham gia Công ước mà ở đó yêu cầu giấy phép.
b) Bất kì
bản thảo nào được công bố theo giấy phép được cấp phù hợp với điều này phải có
thông báo bằng ngôn ngữ thích hợp, thông báo rằng bản thảo được phát hành chỉ ở
nước tham gia Công ước mà nước đó cấp giấy phép. Nếu bản thảo có thông báo như
được ghi ở Điều 3 (1) thì các bản sao phải có thông báo như vậy.
Việc cấm
xuất khẩu được nêu ở Đoạn (a) sẽ không được áp dụng nếu thực tế Chính phủ hay
công cộng của quốc gia đã cấp giấy phép theo Điều này cho phép dịch tác phẩm
sang một thứ tiếng khác với tiếng Anh, Pháp hay Tây Ban Nha gửi các bản dịch
được thực hiện theo giấy phép đó đến một nước khác nếu:
(i) Những
người nhận là các cá nhân là công dân của nước tham gia Công ước cấp giấy phép
hay là các tổ chức tập hợp các cá nhân đó;
(ii) Các
bản in sẽ được sử dụng chỉ cho mục đích giáo dục, học thuật và nghiên cứu;
(iii) Việc
gửi các bản in và việc phát hành tiếp theo đến người nhận không nhằm mục đích
thương mại; và
(iv) Các
nước mà các bản in được gửi đến đã thoả thuận với nước tham gia Công ước cho
phép thực hiện việc nhận, phát hành hay cho phép cả việc nhận và phát hành và
Tổng giám đốc đã được thông báo về một sự thoả thuận như vậy bởi bất kì một
Chính phủ nào đã giao kết Công ước.
5. Một điều
kiện thích đáng ở tầm quốc gia phải được ban hành nhằm bảo đảm:
a) Giấy
phép bảo đảm một sự bồi thường công bằng và phù hợp với các mức tiền bản quyền
thông thường trong trường hợp các giấy phép được đàm phán một cách tự do giữa
các cá nhân của hai nước liên quan; và
b) Việc
thanh toán hay chuyển tiền bồi thường. Tuy nhiên, nếu việc thanh toán bằng tiền
trong nước gây trở ngại thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện mọi nỗ lực bằng
cách huy động chính quyền quốc tế để bảo đảm việc chuyển tiền bằng đồng tiền
quốc tế chuyển đổi được hay bằng một thứ tương đương.
6. Bất kì
giấy phép nào mà nước tham gia Công ước cấp theo Điều này sẽ chấm dứt khi một
bản dịch của tác phẩm cùng một ngôn ngữ có nội dung về thực chất giống như là
bản đã xuất bản theo giấy phép đã cấp được công bố ở nước tham gia Công ước đó
bởi người sở hữu bản quyền dịch hay theo sự uỷ quyền của người đó với giá cả
hợp lý so với các giá được nước đó qui định đối với các tác phẩm tương đương.
Mọi bản in được in ra trước khi giấy phép hết hạn vẫn có thể được tiếp tục phát
hành cho đến khi kho sách hết.
7. Đối với
các tác phẩm chủ yếu gồm các minh họa thì giấy phép cho dịch phần văn bản và
tái tạo các minh hoạ chỉ có thể được cấp nếu các điều kiện của Điều 5 quarter
cũng được thực hiện.
8. a) Giấy
phép cho dịch một tác phẩm được bảo hộ bản quyền theo Công ước này (được công
bố dưới hình thức in hay tương tự) cũng có thể được trao cho tổ chức phát
thanh, truyền hình có trụ sở ở nước tham gia Công ước được áp dụng Điều 5 bis
(1) sau khi tổ chức này làm đơn xin giấy phép ở nước đóng trụ sở theo các điều
kiện sau:
(i) Bản
dịch được dịch từ văn bản được thực hiện và có được phù hợp với pháp luật của
nước tham gia Công ước;
(ii) Bản
dịch chỉ được sử dụng cho các chương trình phát thanh, truyền hình chỉ nhằm mục
đích giáo dục hay phổ biến các kết quả nghiên cứu kỹ thuật hay khoa học chuyên
ngành cho các chuyên gia của một ngành nhất định;
(iii) Bản
dịch chỉ được sử dụng cho các mục đích được nêu trong điều kiện (ii), thông qua
các chương trình phát thanh hay truyền hình được thực hiện đúng pháp luật nhằm
vào thính giả, khán giả trong lãnh thổ của nước tham gia Công ước bao gồm cả
các chương trình phát thanh hay truyền hình thông qua phương tiện ghi âm, ghi
hình được thực hiện hợp pháp và chỉ nhằm vào mục đích của các chương trình phát
thanh và truyền hình như vậy.
(iv) Các
ghi âm, ghi hình bản dịch chỉ được trao đổi giữa các tổ chức phát thanh, truyền
hình có trụ sở đóng tại nước tham gia Công ước cấp giấy phép; và
(v) Mọi
việc sử dụng bản dịch không nhằm mục đích thương mại.
(b) Nếu mọi
tiêu chuẩn và điều kiện nêu trong phân Đoạn (a) được thoả mãn thì giấy phép
cũng có thể được cấp cho tổ chức phát thanh hay truyền hình cho phép dịch bất
kỳ văn bản nào là bộ phận hợp thành của bản ghi âm, ghi hình mà bản thân nó
được thực hiện và công bố chỉ nhằm để sử dụng gắn liền với các hoạt động giáo
dục có hệ thống.
(c) Theo
phân Đoạn (a) và (b), các điều kiện khác của điều này sẽ được áp dụng cho việc
cấp và thực hiện giấy phép.
9. Theo các
điều kiện của điều này, bất kỳ giấy phép nào được cấp theo điều này sẽ được
quyết định bởi các điều kiện của Điều 5 và sẽ tiếp tục được quyết định bởi các
điều kiện của Điều 5 và của Điều này thậm chí sau khi thời hạn 7 năm được nêu ở
Điều 5 (2) kết thúc. Tuy nhiên, sau khi thời hạn đã nói kết thúc thì người được
cấp giấy phép được tự do yêu cầu đổi giấy phép mới; điều này được quyết định
đặc biệt bởi các điều kiện của Điều 5.
1. Bất kỳ
nước tham gia Công ước nào mà Điều 5 bis(1) được áp dụng có thể chấp nhận các
điều kiện sau:
(a) Nếu sau
khi sự kết thúc của (i) thời hạn thích hợp được ghi trong phân Đoạn (c) được
bắt đầu từ ngày công bố lần đầu của một ấn phẩm văn học, khoa học hay nghệ
thuật được nêu ở mục 3, hay (ii) bất kì một thời hạn dài hơn mà pháp luật một
quốc gia qui định mà các bản in của ấn phẩm chưa được phát hành ở quốc gia đó
cho công chúng hay gắn liền với hoạt động giáo dục hệ thống với giá cả hợp lí
vẫn thường được qui định cho các sách tương đương bởi người sở hữu quyền tái
tạo lại hay với sự uỷ quyền của người đó thì bất kì công dân nào của nước đó có
thể nhận được giấy phép bình thường từ cơ quan có thẩm quyền để công bố ấn phẩm
đó theo giá ngang bằng hay thấp hơn để sử dụng gắn liền với các hoạt động giáo
dục có hệ thống. Giấy phép chỉ có thể được cấp nếu công dân đó (theo thủ tục
của nước liên quan) xác định rằng hoặc công dân đó đã yêu cầu và bị từ chối, sự
uỷ quyền của sở hữu quyền công bố tác phẩm hay sau khi đã thực hiện các nỗ lực
cần thiết, công dân đó không thể tìm ra người chủ sở hữu quyền công bố. Khi
công dân yêu cầu thì công dân phải thông báo hoặc cho trung tâm thông tin bản
quyền của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá hoặc là cho bất kì trung tâm
thông tin khu vực hay quốc gia nào được nêu ở phân Đoạn (d).
b) Giấy
phép cũng có thể được cấp theo các điều kiện này nếu trong thời hạn 6 tháng
không có các bản có giấy phép nào của ấn phẩm được in theo giấy phép được bán ở
nước liên quan cho công chúng hay gắn liền với các hoạt động giáo dục có hệ
thống theo giá cả hợp lí thông thường vẫn được nhà nước đó qui định cho các tác
phẩm tương đương.
c) Thời hạn
được nêu ở phân Đoạn (a) sẽ là 5 năm trừ:
(i) Đối với
các tác phẩm khoa học tự nhiên và vật chất bao gồm các tác phẩm toán học hay
công nghệ thì thời hạn sẽ là 3 năm;
(ii) Đối
với các tác phẩm văn học thơ, kịch và âm nhạc và các sách nghệ thuật thì thời
hạn sẽ là 7 năm.
d) Nếu
người sở hữu quyền phiên bản không thể tìm thấy người xin giấy phép phải gửi
(bằng bưu điện bảo đảm) các bản sao đơn của người xin đến người công bố có tên
trong tác phẩm và đến bất kỳ trung tâm thông tin quốc gia hay khu vực nào như
được ghi trong thông báo gửi cho Tổng thư ký bởi nước mà ở đó người công bố
được coi là có trụ sở chính đóng. Nếu không có thông báo như vậy thì người xin
giấy phép phải gửi một bản sao đến trung tâm thông tin bản quyền quốc tế của Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc. Giấy phép không được cấp
trước khi thời hạn 3 tháng kể từ ngày gửi các bản sao đơn xin giấy phép kết
thúc.
e) Các giấy
phép nhận được sau 3 năm sẽ không được trao theo Điều này:
(i) Trước
khi thời hạn 6 tháng kể từ ngày xin phép được nêu ở phân Đoạn (a) kết thúc hay,
nếu đặc điểm hay địa chỉ của người sở hữu quyền phiên bản không rõ kể từ ngày
gửi các bản sao đơn xin giấy phép được nêu ở phân Đoạn (d);
(ii) Nếu
bất kỳ một sự phát hành của các bản như vậy của ấn phẩm diễn ra trong thời hạn
đó.
f) Tên của
tác giả và tên của tác phẩm của một lần xuất bản nhất định phải được in ở mọi
phiên bản. Giấy phép sẽ không được mở rộng sang việc xuất khẩu các bản in và
chỉ có giá trị cho việc công bố ở lãnh thổ của nước tham gia Công ước được yêu
cầu xin. Người có giấy phép không được chuyển giao giấy phép.
g) Pháp
luật trong nước phải ban hành điều kiện thích hợp để đảm bảo sự phiên bản chính
xác của ấn phẩm.
h) Giấy
phép làm phiên bản và công bố bản dịch của tác phẩm, theo Điều này, sẽ không
được trao trong các điều kiện sau:
(i) Nếu bản
dịch không được công bố bởi người sở hữu bản quyền dịch hay với sự uỷ nhiệm của
nười đó.
(ii) Nếu
bản dịch không được dịch sang thứ tiếng phổ thông ở nước có quyền cấp giấy
phép.
2. Các
ngoại lệ được nêu ở Đoạn 1 phải tuân thủ các điều kiện bổ sung sau:
(a) Bất kỳ
bản in nào được công bố theo giấy phép được cấp theo Điều này phải có thông báo
bằng ngôn ngữ thích hợp thông báo rằng bản in được phát hành chỉ ở nước tham
gia Công ước mà giấy phép được áp dụng. Nếu ấn phẩm có thông báo như được nêu ở
Điều 3 (1) các bản in cũng phải có thông báo như vậy.
b) Điều
kiện thích đáng phải được ban hành để:
(i) Giấy
phép phải quy định một sự bồi thường công bằng phù hợp với các mức tiền bản
quyền thông thường của trường hợp các giấy phép được tự do đàm phán giữa các cá
nhân trong hai nước liên quan; và
(ii) Thanh
toán và chuyển tiền bồi thường. Tuy nhiên, nếu các qui định về tiền trong nước
gây trở ngại thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện mọi nỗ lực bằng cách huy
động cơ quan quốc tế để đảm bảo việc chuyển bằng đồng tiền quốc tế chuyển đổi
được hay bằng một thứ tương đương.
c) Bất kỳ
lúc nào khi các bản in của một ấn phẩm của tác phẩm được phát hành ở nước tham
gia Công ước cho công chúng hay gắn liền với các hoạt động giáo dục có hệ thống
bởi người sở hữu quyền phiên bản hay với sự uỷ quyền của người đó với giá cả
hợp lý thông thường được qui định trong nước đối với các tác phẩm tương đương
thì bất kỳ giấy phép nào được cấp theo Điều này sẽ chấm dứt nếu ấn phẩm đó có
cùng ngôn ngữ và có thực chất nội dung giống như ấn phẩm được công bố theo giấy
phép. Mọi bản in có trước khi giấy phép kết thúc có thể được tiếp tục phát hành
cho đến khi kho sách hết.
d) Giấy
phép không được cấp khi tác giả rút mọi bản của ấn phẩm khỏi lưu hành.
3. a) Theo
phân Đoạn (b), các tác phẩm văn học, khoa học hay nghệ thuật được áp dụng Điều
này sẽ được hạn chế ở các tác phẩm được công bố dưới hình thức in hay tương tự.
b) Các điều
kiện của Điều này cũng được áp dụng cho việc phiên bản dưới dạng ghi âm, ghi
hình các bản ghi âm, ghi hình bao gồm bất kỳ mọi tác phẩm được bảo hộ bản quyền
được đưa vào bản ghi âm, ghi hình, và các điều kiện này cũng được áp dụng cho
bản dịch bất kỳ Đoạn ghi âm, ghi hình nào sang ngôn ngữ phổ thông tại nước có
quyền cấp giấy phép; nhưng luôn luôn với điều kiện rằng các bản ghi âm, ghi
hình được thực hiện và công bố chỉ cho mục đích sử dụng gắn liền với các hoạt
động giáo dục có hệ thống.
Điều
6. Thuật ngữ "Công bố " của Công ước
này có nghĩa là làm phiên bản dưới hình thức nắm bắt được và sự phát hành chung
đến công chúng của các bản in của tác phẩm mà có thể đọc hay thẩm thị.
Điều
7. Công ước này không áp dụng cho các tác phẩm
hay các quyền trong tác phẩm mà các tác phẩm đó vào thời hạn có hiệu lực của
Công ước này tại nước tham gia Công ước nơi có sự khiếu nại về bản quyền luôn
luôn có trong lĩnh vực công cộng.
1. Công ước
này có ghi ngày tháng là 24 tháng 7 năm 1971 sẽ được gửi cho Tổng giám đốc và
sẽ để ngỏ cho việc ký kết của tất cả các nước tham gia Công ước 1952 trong thời
hạn 120 ngày sau ngày của Công ước. Công ước phải được phê chuẩn hay chấp nhận
bởi các nước ký tên.
2. Bất kỳ
nước nào chưa ký Công ước này đều có thể tham gia Công ước.
3. Việc phê
chuẩn, chấp nhận hay tham gia Công ước sẽ có hiệu lực thông qua việc gửi một
văn bản chính thức về các việc này cho Tổng giám đốc.
1. Công ước
này sẽ có hiệu lực sau 3 tháng kể từ khi có 12 văn bản phê chuẩn, chấp nhận hay
tham gia được gửi đến.
2. Tiếp
theo Công ước này sẽ có hiệu lực đối với từng nước sau 3 tháng kể từ khi nước
này gửi văn bản chính thức của mình báo rằng đã phê chuẩn, chấp nhận hay tham
gia Công ước.
3. Việc
tham gia Công ước này bởi một nước không tham gia Công ước 1952 đồng nghĩa với
việc tham gia vào Công ước 1952; tuy nhiên, nếu văn bản chính thức về việc tham
gia Công ước được gửi trước khi Công ước này có hiệu lực, thì nước đó có thể
tham gia Công ước 1952 tuỳ thuộc vào quá trình hiệu lực hoá của Công ước này.
Sau khi Công ước này có hiệu lực, không nước nào có thể chỉ tham gia Công ước
1952.
4. Quan hệ
giữa các nước tham gia Công ước này và các nước tham gia Công ước 1952 sẽ được
quyết định bởi Công ước 1952. Tuy nhiên, nước chỉ tham gia Công ước 1952, qua
thông báo gửi cho Tổng giám đốc, có thể tuyên bố rằng nước đó sẽ chấp nhận việc
áp dụng Công ước 1971 cho các tác phẩm của công dân mình hay cho các tác phẩm
được công bố trong lãnh thổ của mình bởi mọi nước tham gia Công ước này.
1. Mỗi nước
tham gia Công ước theo Hiến pháp của mình, cam kết thông qua các biện pháp được
coi là cần thiết để đảm bảo việc áp dụng Công ước này.
2. Đương
nhiên là vào ngày Công ước này có hiệu lực tại nước bất kỳ nào thì nước đó,
theo pháp luật của mình, phải sẵn sàng làm cho các điều khoản của Công ước này
có hiệu lực.
Điều
11. Theo đó một Uỷ ban liên Chính phủ được
thành lập với các nhiệm vụ sau:
a) Nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến việc áp dụng và thực hành Công ước Toàn cầu về bản
quyền;
b) Chuẩn bị
sửa đổi theo trình tự đều đặn Công ước này;
c) Nghiên
cứu mọi vấn đề khác liên quan đến bảo hộ bản quyền quốc tế với sự phối hợp với
các tổ chức quốc tế quan tâm khác nhau như Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hoá của Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Quốc tế bảo hộ bản quyền các tác phẩm văn học
và nghệ thuật và tổ chức các nước châu Mỹ.
d) Thông
báo cho các quốc gia tham gia Công ước toàn cầu về bản quyền về các hoạt động
của mình.
2. Uỷ ban
được thành lập từ các đại diện của 18 nước tham gia Công ước này hay chỉ tham
gia Công ước 1952.
3. Uỷ ban
sẽ được lựa chọn thông qua sự cân nhắc cần thiết để tạo ra sự cân bằng thích
đáng về lợi ích quốc gia, vị trí địa lý, dân số, ngôn ngữ và giai Đoạn phát
triển giữa các nước.
4. Tổng thư
ký của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc, Tổng thư ký
của tổ chức Sở hữu Trí tuệ quốc tế và Tổng thư ký Tổ chức các nước châu Mỹ hay
các đại diện của họ có thể tham dự các cuộc họp của Uỷ ban với tư cách tư vấn.
Điều
12. Bất kỳ nước tham gia Công ước nào vào
thời gian gửi văn bản chính thức cho Tổng giám đốc về việc phê chuẩn, chấp nhận
hay tham gia, hay vào bất kỳ thời gian tiếp theo nào, đều có thể tuyên bố qua
thông báo gửi cho Tổng giám đốc rằng Công ước này sẽ được áp dụng cho toàn bộ
hay bất kỳ nước nào hay lãnh thổ nào có quan hệ quốc tế được đại diện bởi nước
đó, và do đó Công ước này được áp dụng cho các nước hay lãnh thổ đã được nêu
trong thông báo sau khi thời hạn 3 tháng được ghi tại Điều 9 kết thúc.
Nếu không
có thông báo như vậy thì Công ước này sẽ được áp dụng cho bất kì nước nào hay
lãnh thổ nào như vậy.
Tuy nhiên
Điều này không chứa đựng điều gì ngụ ý đến việc một nước tham gia Công ước công
nhận hay chấp nhận tình hình thực tế liên quan đến một nước hay một lãnh thổ mà
ở đó Công ước này được áp dụng bởi nước tham gia Công ước khác theo các qui
định của Điều này.
1. Mọi nước
tham gia Công ước có thể bãi bỏ Công ước này với danh nghĩa của mình hay đại
diện cho toàn bộ hay là một nước hay lãnh thổ được nêu trong thông báo theo
Điều 13. Việc bãi bỏ được thực hiện qua việc gửi thông báo cho Tổng giám đốc.
Sự bãi bỏ như vậy đồng nghĩa với bãi bỏ Công ước 1952.
2. Sự bãi
bỏ như vậy sẽ được áp dụng chỉ đối với quốc gia, nước hay lãnh thổ nằm trong sự
bãi bỏ này và chỉ có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo.
Điều
15. Nếu việc tranh chấp giữa hai nước hay
nhiều nước về cách diễn giải hay áp dụng Công ước này không giải quyết được
bằng thương lượng hoà bình sẽ được đưa ra Toà phán xử quốc tế để quyết định
(nếu các nước liên quan không đồng ý với biện pháp giải quyết khác nào đó).
1. Công ước
này được lập bằng tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Cả ba bản ngữ đều được ký và
có giá trị như nhau.
2. Văn bản
chính thức của Công ước này được lập bởi Tổng giám đốc sau khi đã hội ý với các
Chính phủ liên quan bằng tiếng ảrập, tiếng Đức, tiếng ý và tiếng Bồ Đào Nha.
3. Nước
tham gia Công ước hay nhóm nước tham gia Công ước có quyền yêu cầu Tổng giám
đốc lập các văn bản khác bằng tiếng mình chọn theo thoả thuận.
4. Mọi văn
bản như vậy sẽ được kèm theo các văn bản đã ký của Công ước này.
1. Công ước
này không tác động dưới bất kì hình thức nào đến các điều kiện của Công ước
Berne về bản quyền của các tác phẩm văn học và nghệ thuật hay thành phần Thành
viên của Liên hiệp do Công ước này lập ra.
2. Để việc
áp dụng Đoạn nói trên sẽ có một công bố kèm theo Điều này. Công bố đó là một
phần của Công ước này đối với các nước được ràng buộc bởi Công ước Berne ngày 1
tháng 1 năm 1951 hay đối với các nước đã hoặc có thể sẽ bị ràng buộc bởi Công
ước đó vào thời điểm muộn hơn việc các nước ký Công ước đó cũng bao hàm việc ký
tuyên bố nói trên và việc các nước đó phê chuẩn, chấp nhận hay tham gia sẽ bao
hàm cả công bố lần Công ước này.
Điều
18. Công ước này không thay bỏ các Công ước
đa phương hay song phương về bản quyền hay các thoả thuận có hay có thể có hiệu
lực chỉ cho hai hay nhiều hơn quốc gia Cộng hoà ở châu Mỹ. Trong trường hợp có
bất kì bất đồng nào hoặc giữa các điều kiện của Công ước đó hay các thoả thuận
và các điều kiện của Công ước này và các điều kiện của bất kì công ước mới nào
hay thoả thuận mới nào mà có thể được lập giữa hai hay nhiều nước Cộng hoà châu
Mỹ sau khi Công ước này có hiệu lực thì Công ước hay thoả thuận mới nhất sẽ
chiếm ưu thế giữa các bên. Các quyền trong các tác phẩm có ở bất kì nước tham
gia Công ước nào theo các Công ước hay thoả thuận lưu hành trước khi Công ước
này có hiệu lực ở nước đó đều không có hiệu lực.
Điều
19. Công ước này không thay bỏ các Công ước
đa phương hay song phương hay các thoả thuận có hiệu lực giữa hai hay nhiều
nước tham gia Công ước. Trong trường hợp có bất kì bất đồng nào giữa các điều
kiện của các Công ước hay thoả thuận đó và các điều kiện của Công ước này thì
các điều kiện của các Công ước này sẽ chiếm ưu thế. Các quyền trong các tác
phẩm có ở bất kì nước tham gia Công ước nào theo các Công ước và thoả thuận lưu
hành trước ngày Công ước này có hiệu lực ở nước đó sẽ không có hiệu lực. Điều
này cũng không bao gồm điều nào tác động đến các điều kiện của các Điều 11 và
18.
Điều
20. Mọi bảo lưu đối với Công ước này đều
không được phép.
1. Tổng
giám đốc sẽ gửi các bản sao hợp lệ của Công ước này đến các nước quan tâm và
đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để vào sổ đăng ký.
2. Tổng
giám đốc cũng thông báo cho các nước quan tâm về các phê chuẩn, chấp nhận và
tham gia đã được gửi đến, ngày có hiệu lực của Công ước này, các thông báo theo
Công ước này và mọi sự bãi bỏ theo Điều 14.
Tuyên bố
phụ lục liên quan đến điều 17
Các nước
Thành viên của Liên Hiệp Quốc tế về bảo hộ bản quyền các tác phẩm văn học và
nghệ thuật (sau đây được gọi là Liên hiệp Berne) và các nước ký Công ước này,
xuất phát từ nguyện vọng củng cố các mối quan hệ tương hỗ trên cơ sở của Liên
hiệp và tránh mọi xung đột có thể xảy ra do có sự cùng tồn tại của Công ước
Berne và Công ước Toàn cầu về bản quyền, đồng thời công nhận rằng hiện thời cần
thiết phải có một số nước nắm việc điều chỉnh việc bảo hộ bản quyền phù hợp với
mức phát triển của các nước đó về văn hoá, xã hội và kinh tế bằng thoả thuận
chung đã chấp nhận các điều khoản của tuyên bố sau đây:
a) Trừ
những điều được nêu ở Khoản (b), các tác phẩm mà theo Công ước Berne có nước
gốc là nước đã rút khỏi Liên hiệp Berne sau ngày 1 tháng 1 năm 1951 sẽ không
được Công ước Toàn cầu về bản quyền bảo hộ bản quyền tại các nước của Liên hiệp
Berne;
b) Nếu nước
tham gia Công ước được coi là nước phát triển theo thông lệ của Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc và vào lúc rút khỏi Liên hiệp Berne đã gửi cho Tổng giám đốc của
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc một thông báo về việc
nước đó coi mình là nước phát triển thì điều kiện của Đoạn (a) sẽ không được áp
dụng cho nước này bởi vì nước này vẫn có thể sử dụng các ngoại lệ mà Công ước
này đưa ra theo Điều 5 bis;
c) Hiệp ước
Toàn cầu về bản quyền sẽ không áp dụng cho các mối quan hệ giữa các nước trong
Liên hiệp Berne do nó liên quan đến việc bảo hộ bản quyền của các tác phẩm mà
theo Công ước Berne có nước gốc là nước của Liên hiệp Berne.
Nghị quyết
liên quan đến Điều 11
Hội nghị
sửa đổi Công ước Toàn cầu về bản quyền sau khi xem xét các vấn đề liên quan đến
Uỷ ban liên chính phủ được nêu tại Điều 11 của Công ước này mà có Nghị định này
kèm theo Nghị định:
1. Trong
giai Đoạn đầu, Uỷ ban sẽ gồm đại diện của 12 nước Thành viên của Uỷ ban liên
chính phủ thành lập theo Điều 11 của Công ước 1952 và Nghị định kèm theo và các
đại diện bổ sung của các nước sau: Algeria, Australia, Nhật, Mexico, Senegal và
Nam tư.
2. Các quốc
gia không tham gia Công ước 1952 và không tham gia Công ước này cho đến trước
phiên họp thường lệ đầu tiên của Uỷ ban sau khi Công ước này có hiệu lực sẽ bị
thay thế bởi các nước khác do Uỷ ban chọn trong phiên họp thường lệ đầu tiên
theo các điều kiện của Điều 11 (2) và (3).
3. Ngay sau
khi Công ước này có hiệu lực, Uỷ ban, theo Đoạn 1, sẽ được coi là đã được thành
lập phù hợp với Điều 11 của Công ước này.
4. Một
phiên họp của Uỷ ban sẽ diễn ra trong vòng 1 năm sau khi Công ước này có hiệu
lực, sau đó Uỷ ban sẽ họp ở phiên thường lệ sau khoảng thời gian không quá 2
năm.
5. Uỷ ban
sẽ bầu chủ tịch và 2 phó chủ tịch Uỷ ban sẽ xác lập các qui định về thủ tục, về
các ngyên tắc sau:
a) Nhiệm kì
bình thường của các Thành viên đại diện của Uỷ ban là 6 năm và hai năm một lần,
1/3 số thành viên sẽ nghỉ hưu, tức là trong số nhiệm kì gốc thì 1/3 sẽ chấm dứt
vào lúc kết thúc của phiên họp thường lệ thứ hai của Uỷ ban diễn ra sau khi
Công ước này có hiệu lực, 1/3 tiếp theo chấm dứt vào lúc kết thúc của phiên họp
thường lệ thứ ba và 1/3 còn lại chấm dứt vào lúc kết thúc của phiên họp thường
lệ thứ tư.
b) Các qui
tắc chỉ đạo thủ tục bổ sung các Thành viên khuyết của Uỷ ban, trình tự mãn
nhiệm của các Thành viên của Uỷ ban, tư cách của Thành viên để được bầu lại và
các thủ tục bầu cử phải được đặt cơ sở trên sự cân đối các nhu cầu về duy trì
thành phần thành viên và sự luân chuyển của các đại diện cũng như những xem xét
đưa ra ở Điều 11 (3).
Hội nghị
thể hiện nguyện vọng rằng Tổ chức giáo dục khoa học và văn hoá của Liên Hiệp
Quốc sẽ qui định ban thư ký của mình.
Tin tưởng
vào Công ước này nước có tên ở dưới, cùng với mọi thẩm quyền của mình, ký Công
ước này.
Lập tại
Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971 trong một biên bản duy nhất.
(Kèm theo
Công ước toàn cầu về bản quyền sửa đổi tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971 liên
quan đến việc áp dụng Công ước này đối với các công dân không có quốc tịch và
người tị nạn.)
Các nước
tham gia ở đây cũng là các nước tham gia Công ước Toàn cầu về bản quyền được
sửa đổi tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971 (sau đây được gọi là Công ước 1971)
chấp nhận các điều kiện sau:
1. Các cá
nhân không có quốc tịch và người tị nạn có chỗ ở thường xuyên ở một nước tham
gia biên bản này, với mục đích của Công ước 1971, sẽ trở thành công dân của
nước đó.
2. a) Biên
bản này sẽ được ký và phải được phê chuẩn, thông qua, hay có thể cho tham gia
như thể là các điều kiện của Điều 8 của Công ước 1971 được áp dụng ở đây.
b) Biên bản
này sẽ có hiệu lực đối với mỗi nước vào ngày gửi văn bản chính thức về phê
chuẩn, chấp nhận hay tham gia của nước liên quan hay vào ngày có hiệu lực của
Công ước 1971 đối với nước đó bất kể ngày nào xảy ra muộn hơn.
c) Khi biên
bản này có hiệu lực đối với nước không tham gia vào biên bản 1 kèm theo Công
ước 1952 thì biên bản có sau sẽ được coi là có hiệu lực đối với nước đó.
Tin tưởng
vào biên bản này, các nước có tên dưới đây, với thẩm quyền của mình, ký biên
bản này.
Biên bản
này được lập tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971 bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và
tiếng Tây ban Nha trong một bản duy nhất với giá trị của cả ba tiếng như nhau
và sẽ được gửi cho Tổng giám đốc của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của
Liên Hiệp Quốc. Tổng giám đốc sẽ gửi các bản sao đã được chứng thực cho các
nước ký kết và gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để vào sổ đăng ký.
(Kèm theo
Công ước Toàn cầu về bản quyền được sửa đổi tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971
về việc áp dụng Công ước này đối với các tác phẩm của một số tổ chức quốc tế).
Các nước
tham gia biên bản này cũng là các nước tham gia Công ước Toàn cầu về bản quyền
được sửa đổi tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971 (sau đây được gọi là Công ước
1971) chấp nhận các điều kiện sau:
1. a) Việc
bảo hộ bản quyền được nêu ở Điều 2 (1) của Công ước 1971 sẽ được áp dụng cho
các tác phẩm được công bố lần đầu tiên bởi Liên Hiệp Quốc, bởi các hãng đặc
biệt liên quan với Liên Hiệp Quốc hay bởi tổ chức các nước châu Mỹ.
b) Tương
tự, Điều 2 của Công ước 1971 sẽ được áp dụng cho tổ chức hay các hãng đã được
nói.
2. a) Biên
bản này sẽ được ký và sẽ phải được phê chuẩn hay chấp nhận hay có thể cho tham
gia như thể các điều kiện của Điều 8 của Công ước 1971 được áp dụng ở đây.
b) Biên bản
này sẽ có hiệu lực đối với mỗi nước vào ngày gửi văn bản chính thức về phê
chuẩn, thông qua hay tham gia của nước liên quan hay vào ngày hiệu lực của Công
ước 1971 đối với nước đó bất kể ngày nào diễn ra muộn hơn.
Tin tưởng
vào biên bản này, các nước có tên dưới đây, với thẩm quyền của mình, ký biên
bản này.
Biên bản
này được lập tại Paris ngày 24 tháng 7 năm 1971 bằng tiếng Anh, tiếng Pháp,
tiếng Tây Ban Nha trong một bản duy nhất với giá trị của các tiếng như nhau và
sẽ được gửi cho Tổng giám đốc của tổ chức giáo dục khoa học và văn hoá của Liên
Hiệp Quốc. Tổng giám đốc sẽ gửi các bản sao đã được chứng thực cho các nước ký
kết và cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để vào sổ đăng ký.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét