CÔNG ƯỚC
VỀ BẢO VỆ
TẤT CẢ MỌI NGƯỜI KHỎI BỊ CƯỠNG BỨC MẤT TÍCH, 2006
LỜI NÓI
ĐẦU
Các Quốc
gia thành viên của Công ước này,
Xem xét nghĩa vụ của các quốc
gia theo Hiến chương của Liên Hợp Quốc để thúc đẩy sự tôn trọng phổ cập, và
tuân thủ các quyền con người và các tự do cơ bản,
Quan tâm tới Tuyên ngôn Toàn
thế giới về Quyền con người,
Nhắc lại Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính
trị và các văn kiện quốc tế có liên quan khác trong lĩnh vực luật nhân quyền,
luật nhân đạo và luật hình sự quốc tế,
Cũng
nhắc lại
Tuyên bố về bảo hộ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích được thông qua
bởi Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc trong Nghị quyết số 47/133 ngày 18 tháng 12 năm
1992,
Nhận
thức được
mức độ nghiêm trọng của việc cưỡng bức mất tích, cấu thành một tội phạm, và
trong một số trường hợp được quy định trong luật pháp quốc tế, là một tội ác
chống nhân loại,
Xác định để ngăn ngừa việc
cưỡng bức mất tích và để trừng phạt tội phạm thực hiện việc cưỡng bức mất tích,
Xem xét quyền của bất kỳ người
nào không phải chịu việc cưỡng bức mất tích, quyền của nạn nhân đối với công lý
và việc bồi thường,
Khẳng
định
quyền của bất kỳ nạn nhân nào để được biết sự thật về các hoàn cảnh của việc
cưỡng bức mất tích và số phận của người bị cưỡng bức mất tích, và quyền tự do
để tìm kiếm, tiếp nhận và thông báo tin tức cho kết cục này,
Đã thỏa
thuận
về các điều khoản sau:
PHẦN I
Điều 1.
1. Không ai
phải chịu cưỡng bức mất tích.
2. Không có
bất kỳ trường hợp ngoại lệ nào, dù là trong chiến tranh hay đe dọa của chiến
tranh, trong tình hình chính trị nội bộ bất ổn hay các trường hợp cấp thiết
khác, có thể viện dẫn để biện minh cho việc cưỡng bức mất tích.
Điều 2.
Với mục
đích của Công ước này, "cưỡng bức mất tích" được coi là việc bắt giữ,
tạm giam, bắt cóc hoặc bất cứ hình thức tước đoạt quyền tự do được thực hiện
bởi các cơ quan nhà nước hoặc của người hoặc nhóm người được ủy quyền, hỗ trợ
hoặc hẫu thuẫn của Nhà nước, được đi cùng với một sự khước từ nhận biết về việc
tước đoạt tự do hoặc bởi việc che giấu số phận hoặc nơi cư trú của người mất
tích, ở nơi như vậy một người nằm ngoài sự bảo vệ của pháp luật.
Điều 3.
Mỗi Quốc
gia thành viên phải thực hiện những biện pháp cần thiết để điều tra những hành
vi được quy định trong Điều 2 được thực hiện bởi những người hay nhóm người
hành động không được phép, không được hỗ trợ hay chấp thuận của quốc gia và
chịu trách nhiệm trước công lý.
Điều 4.
Mỗi một
Quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc
cưỡng bức mất tích cấu thành một tội phạm theo luật hình sự của quốc gia đó.
Điều 5.
Việc tiến
hành một cách rộng rãi hay có hệ thống hành vi cưỡng bức mất tích cấu thành một
tội ác chống lại loài người như được định nghĩa trong luật quốc tế tương ứng và
sẽ tạo ra những hệ quả theo các điều luật quốc tế tương ứng như trên.
Điều 6.
1. Mỗi một
Quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm xác định trách
nhiệm hình sự đối với ít nhất:
a. Bất cứ
người nào thực hiện, ra lệnh, lôi kéo hay xui khiến hoạt động, cố gắng thực
hiện, là kẻ đồng phạm hoặc tham gia vào hoạt động cưỡng bức mất tích.
b. Cấp
trên:
i. Đã biết,
hoặc cố tình bỏ qua thông tin đã rõ ràng, mà dưới sự quản lý và kiểm soát theo
thẩm quyền của người đó đang thực hiện hoặc sắp thực hiện hoạt động cưỡng bức
mất tích;
ii. Chịu
trách nhiệm thực hiện và kiểm soát các hoạt động liên quan đến tội phạm cưỡng
bức mất tích, và
iii. Không
thực hiện các biện pháp hợp lý và cần thiết trong quyền hạn của mình để ngăn
chặn hay hạn chế hoạt động cưỡng bức mất tích hoặc đệ trình vấn đề đó cho các
cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra và truy tố;
c. Tiểu mục
(b) ở trên không ảnh hưởng đến các tiêu chuẩn trách nhiệm cao hơn theo luật
quốc tế có thể được áp dụng đối với người chỉ huy quân đội hoặc đối với những
người hoạt động như một chỉ huy quân đội.
2. Không có
bất kỳ mệnh lệnh hay chỉ dẫn của bất cứ quan chức nhà nước, công dân, quân nhân
hay người nào khác, có thể được viện dẫn cho hành vi cưỡng bức mất tích.
Điều 7.
1. Mỗi Quốc
gia thành viên phải có hình phạt hợp lý tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành
vi cưỡng bức mất tích.
2. Mỗi Quốc
gia thành viên cần ban hành:
a. những
tình tiết giảm nhẹ, cho những người đã có dính líu đến hành vi cưỡng bức mất
tích, đóng góp hiệu quả trong việc đưa người mất tích trở lại hoặc làm rõ tình
trạng cưỡng bức mất tích hay khai báo thủ phạm của hành vi cưỡng bức mất tích.
b. Không
gây tác hại đến những thủ tục tố tụng hình sự khác, các tình tiết tăng nặng,
đặc biệt là gây ra cái chết cho người bị cưỡng bức mất tích hay liên quan đến
hành vi cưỡng bức mất tích đối với phụ nữ có thai, vị thành niên, người khuyết
tật hay những người dễ bị tổn thương khác.
Điều 8.
Không ảnh
hưởng đến điều 5,
1. Một Quốc
gia thành viên khi áp dụng những giới hạn với việc cưỡng bức mất tích phải đưa
ra những biện pháp hợp lý để đảm bảo điều khoản giới hạn đối với thủ tục tố
tụng hình sự:
a. có thời
hạn lâu dài và tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội
b. bắt đầu
ngay từ thời điểm hành vi cưỡng bức mất tích xảy ra, có tính đến tính liên tục
của hành vi.
2. Mỗi Quốc
gia thành viên cần đảm bảo quyền được bồi thường xứng đáng của các nạn nhân của
tội phạm cưỡng bức mất tích trong suốt quá trình giới hạn.
Điều 9.
1. Mỗi Quốc
gia thành viên cần có những biện pháp thích hợp để thực hiện thẩm quyền của
mình đối với các tội phạm cưỡng bức mất tích:
a. Khi tội
phạm thực hiện trên bất kỳ vùng lãnh thổ nào của quốc gia đó, hay trên thuyền,
máy bay đã đăng ký tại quốc gia đó;
b. Khi
người phạm tội bị cáo buộc là một trong các công dân của quốc gia đó;
c. Khi
người mất tích là một trong các công dân của quốc gia đó và Quốc gia thành viên
đó xem xét một cách thích đáng.
2. Tương
tự, mỗi Quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp thích hợp để thực hiện
thẩm quyền đối với tội phạm cưỡng bức mất tích khi người bị cáo buộc đang có
mặt tại vùng lãnh thổ thuộc thẩm quyền của quốc gia đó, trừ khi quốc gia đó dẫn
độ hay trao trả người đó cho quốc gia khác phù hợp với luật pháp quốc tế hoặc
giao nộp cho một tòa án hình sự quốc tế được công nhận.
3. Công ước
này không loại trừ bất kỳ thẩm quyền hình sự bổ sung nào thực hiện theo pháp
luật của quốc gia.
Điều 10.
1. Khi được
chứng minh đầy đủ, sau khi tiến hành kiểm tra thông tin hiện có về những tình
huống được bảo đảm, trong lãnh thổ của bất kỳ Quốc gia thành viên nào mà có một
người bị tình nghi phạm tội cưỡng bức mất tích thì cần phải bắt giam người đó
hoặc thực thi các biện pháp pháp lý cần thiết khác để đảm bảo sự hiện diện của
tội phạm. Biện pháp giam giữ và các biện pháp pháp lý khác phải được xác định
theo pháp luật của Quốc gia thành viên đó, nhưng chỉ được tiến hành trong
khoảng thời gian cần thiết để đảm bảo sự hiện diện của người đó trong các thủ
tục dẫn độ, bắt giữ hay tố tụng hình sự.
2. Một Quốc
gia thành viên đã thực hiện những biện pháp đã nêu ở khoản 1 của điều này cần
ngay lập tức thực hiện việc thẩm vấn và điều tra sơ bộ để xác lập bằng chứng
thực tế. Quốc gia đó phải thông báo cho các Quốc gia thành viên quy định trong
khoản 1, Điều 9, những biện pháp phù hợp với khoản 1 của điều này, bao gồm cả
việc tạm giam và các trường hợp bảo đảm tạm giam, và những kết quả của việc
thẩm vấn và điều tra sơ bộ, chỉ ra rằng liệu có ý định thực hiện thẩm quyền của
quốc gia đó.
3. Bất cứ
người nào bị giam giữ theo khoản 1 của điều này có thể liên lạc ngay lập tức
với đại diện thích hợp gần nhất của quốc gia mà người đó mang quốc tịch, hoặc,
nếu người đó là người không quốc tịch thì liên hệ với đại diện quốc gia mà
người đó thường xuyên cư trú.
Điều 11.
1. Một
người bị cáo buộc đã thực hiện hành vi cưỡng bức mất tích trong lãnh thổ thuộc
thẩm quyền của Quốc gia thành viên khi bị tìm thấy, nếu không dẫn độ hay giao
nộp người đó tới quốc thành viên khác theo các nghĩa vụ quốc tế hay giao nộp
người đó cho một tòa án hình sự quốc tế được công nhận, thì sẽ đệ trình trường
hợp đó tới các cơ quan có thẩm quyền để tiến hành truy tố.
2. Các cơ
quan có thẩm quyền này cần đưa ra quyết định với phương thức giống như bất kỳ
các trường hợp tội phạm thông thường vi phạm nghiêm trọng pháp luật của Quốc
gia thành viên. Trong những trường hợp được nêu trong khoản 2 của Điều 9, những
tiêu chuẩn của bằng chứng cần thiết để truy tố và kết án sẽ không ít nghiêm
ngặt hơn so với các quy định được áp dụng trong các trường hợp được đề cập
trong khoản 1 của Điều 9.
3. Bất cứ
ai chống lại người mà thủ tục tố tụng có sự liên quan đến hành vi phạm tội
cưỡng bức mất tích phải được đảm bảo xét xử công bằng trong tất cả các giai
đoạn của quá trình tố tụng. Bất kỳ người nào bị xét xử vì hành vi phạm tội
cưỡng bức mất tích sẽ được hưởng lợi từ một phiên tòa công bằng trước một tòa
án hay trọng tài có thẩm quyền, độc lập và công bằng được thiết lập theo pháp
luật.
Điều 12.
1. Mỗi Quốc
gia thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ một cá nhân nào là đối tượng của việc
cưỡng bức mất tích đều có quyền báo cáo tình trạng thực tế với các cơ quan chức
năng, các cơ quan này phải thực hiện ngay lập tức và công bằng, không được trì
hoãn để tiến hành điều tra một cách công bằng và kỹ lưỡng. Các bước tương ứng
sẽ được thực hiện để đảm bảo rằng các nguyên đơn, các nhân chứng, những người
họ hàng của người bị cưỡng bức mất tích và luật sư bảo vệ họ, cũng như những
người tham gia trong cuộc điều tra, được bảo vệ chống lại mọi sự đe dọa hay sự
ngược đãi như là hậu quả của đơn kiện hay bất cứ bằng chứng nào được đưa ra.
2. Khi có
những cơ sở hợp lý để tin rằng một người là đối tượng của hành vi cưỡng bức mất
tích, những cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 điều này phải tiến hành
một cuộc điều tra, thậm chí ngay cả khi không có đơn khiếu kiện chính thức.
3. Mỗi Quốc
gia thành viên phải đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại
khoản 1 của điều này:
a. Có các nguồn lực và
thẩm quyền cần thiết để tiến hành cuộc điều tra hiệu quả, bao gồm tiếp cận
nguồn tài liệu và các thông tin khác phù hợp với cuộc điều tra của họ;
b. Có quyền tiếp cận, nếu
cần thiết với sự cho phép trước của cơ quan tư pháp, trong đó quy định kịp thời
về vấn đề này, đến bất kỳ nơi giam giữ hoặc nơi nào khác, nơi có căn cứ hợp lý
để tin rằng người mất tích có thể có mặt.
4. Mỗi Quốc
gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn và xử phạt các
hành vi làm cản trở việc tiến hành điều tra. Cần phải đảm bảo rằng những người
tình nghi phạm tội cưỡng bức mất tích không ở trong vị trí gây ảnh hưởng đến
tiến độ của một cuộc điều tra bằng cách tạo áp lực hay hành vi đe dọa hoặc nhằm
mục đích trả thù người khiếu nại, các nhân chứng, thân nhân của người cưỡng bức
mất tích hoặc luật sư bào chữa của họ, hoặc bất kỳ người nào tham gia điều tra.
Điều 13.
1. Vì các
mục đích dẫn độ giữa các Quốc gia thành viên, các tội phạm cưỡng bức mất tích
không được coi là một tội phạm chính trị hay là một hành vi phạm tội được kết
nối với một hành vi phạm tội chính trị hay là một hành vi phạm tội bắt nguồn từ
động cơ chính trị. Theo đó, một yêu cầu dẫn độ dựa trên hành vi phạm tội như
vậy có thể không được từ chối nếu chỉ dựa trên các căn cứ như vậy.
2. Các tội
phạm cưỡng bức mất tích được coi là tội phạm có thể dẫn độ trong bất kỳ hiệp
ước dẫn độ nào đang tồn tại giữa Các Quốc gia thành viên trước khi Công ước này
có hiệu lực.
3. Các Quốc
gia thực hiện quy định các tội phạm cưỡng bức mất tích như là một tội phạm có
thể dẫn độ trong bất kỳ một hiệp ước dẫn độ nào sau đó sẽ được ký kết giữa các
quốc gia đó.
4. Nếu một
Quốc gia thành viên thực hiện dẫn độ có điều kiện về sự tồn tại của một hiệp
ước nhận được yêu cầu dẫn độ từ một Quốc gia thành viên khác mà không có hiệp
ước dẫn độ, thì có thể xem xét Công ước này như là cơ sở pháp lý cần thiết cho
việc dẫn độ đối với các hành vi phạm tội cưỡng bức mất tích.
5. Các quốc
gia mà không thực hiện dẫn độ có điều kiện trên cơ sở tồn tại của một hiệp ước
công nhận tội phạm cưỡng bức mất tích như là một tội phạm có thể dẫn độ giữa
các quốc gia đó với nhau.
6. Trong
mọi trường hợp, dẫn độ là đối tượng của các điều kiện được quy định bởi pháp
luật của Quốc gia thành viên yêu cầu hoặc điều ước dẫn độ có thể áp dụng, bao
gồm, cụ thể như các điều kiện liên quan đến các yêu cầu về hình phạt tối thiểu
cho việc dẫn độ và các căn cứ theo đó Quốc gia thành viên yêu cầu có thể từ
chối dẫn độ hoặc thực hiện dựa trên những điều kiện nhất định.
7. Không có
quy định nào trong Công ước này được hiểu là việc áp đặt một nghĩa vụ phải dẫn
độ nếu Quốc gia thành viên yêu cầu có căn cứ quan trọng để tin rằng yêu cầu đã
được thực hiện với mục đích truy tố hoặc trừng phạt một người trên cơ sở giới
tính, tôn giáo, chủng tộc, quốc tịch, nguồn gốc dân tộc, quan điểm chính trị
hoặc thành viên của một nhóm xã hội cụ thể, hoặc việc tuân thủ yêu cầu sẽ gây
hại cho người đó cho bất kỳ một trong những lý do này.
Điều 14.
1. Các Quốc
gia thành viên có thể cung cấp cho thành viên khác biện pháp trợ giúp pháp lý
lẫn nhau tốt nhất để tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm
cưỡng bức mất tích, bao gồm cả việc cung cấp các chứng cứ cần thiết cho quá
trình tố tụng.
2. Những sự
trợ giúp pháp lý lẫn nhau như vậy phải tuân theo các điều kiện theo pháp luật
quốc gia của Quốc gia thành viên được yêu cầu hoặc bằng các hiệp ước thích hợp
về trợ giúp pháp lý lẫn nhau, bao gồm, cụ thể là, những điều kiện liên quan đến
các căn cứ mà dựa vào đó Quốc gia thành viên được yêu cầu có thể từ chối nhận
trợ giúp pháp lý lẫn nhau hoặc có thể đưa ra những điều kiện thực hiện.
Điều 15.
Các Quốc
gia thành viên có thể hợp tác lẫn nhau và cần cung cấp cho nhau những biện pháp
trợ giúp tốt nhất nhằm hỗ trợ các nạn nhân của việc cưỡng bức mất tích, và cả
trong việc tìm kiếm, xác định và phóng thích cho người bị mất tích và, nếu
người đó bị chết, trong việc khai quật và nhận dạng rồi chuyển thi hài của họ.
Điều 16.
1. Không
một Quốc gia thành viên nào được phép trục xuất, trả lại, giao lại hay dẫn độ
một người đến một quốc gia khác mà ở đó có những căn cứ xác đáng tin rằng người
đó đang chịu nguy cơ của việc cưỡng bức mất tích.
2. Với mục
đích xác định liệu có những căn cứ như trên, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét
những mối liên quan, bao gồm, sự tồn tại ở quốc gia có liên quan đến hành vi vi
phạm ở phạm vi rộng, trắng trợn hoặc những vi phạm hàng loạt về nhân quyền hoặc
vi phạm nghiêm trọng đến luật nhân đạo quốc tế.
Điều 17.
1. Không ai
bị giam giữ một cách bí mật.
2. Không
ảnh hưởng đến các nghĩa vụ quốc tế khác của các Quốc gia thành viên đối với
việc tước quyền tự do, mỗi Quốc gia thành viên, trong luật pháp của nó phải:
a. Thiết
lập các điều kiện theo đó các quy định về tước quyền tự do có thể được tiến
hành;
b. Xác định
những cơ quan có thẩm quyền thực hiện tước quyền tự do;
c. Bảo đảm
rằng bất kỳ người nào bị tước đoạt tự do sẽ chỉ phải thực hiện tại những nơi
được công nhận và giám sát chính thức về việc tước bỏ quyền tự do;
d. Bảo đảm
rằng bất kỳ người nào bị tước mất tự do phải được quyền liên lạc với và được
gia đình của mình viếng thăm, luật sư hay bất kỳ người nào khác theo sự lựa
chọn của họ đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, hoặc, nếu anh ta
hoặc cô là người nước ngoài, được liên lạc với các cơ quan lãnh sự của mình,
phù hợp với luật pháp quốc tế thích hợp;
e. Đảm bảo
sự tiếp cận của các cơ quan có thẩm quyền và được ủy quyền và các tổ chức đến
những nơi người đang bị tước quyền tự do, nếu cần thiết với sự cho phép trước
từ một cơ quan tư pháp;
f. Bảo đảm
rằng bất kỳ người nào bị tước quyền tự do hoặc, trong trường hợp bị tình nghi
thực hiện việc cưỡng bức mất tích, kể từ khi người mất tự do không có khả năng
thực hiện quyền này, bất kỳ người nào có một quan tâm chính đáng, chẳng hạn như
thân nhân của người bị tước đoạt tự do, đại diện hoặc luật sư của họ, trong mọi
trường hợp, có quyền tham gia tố tụng trước tòa án, để tòa án có thể quyết định
không chậm trễ về tính hợp pháp của việc tước quyền tự do và ra quyết định thả
người nếu việc tước bỏ tự do như vậy là không hợp pháp.
3. Mỗi Quốc
gia thành viên bảo đảm việc tập hợp và duy trì một hoặc nhiều sổ sách chính
thức cập nhật và / hoặc hồ sơ của những người mất tự do, được thực hiện kịp
thời, theo yêu cầu, đến bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc cơ quan có thẩm quyền khác
hoặc tổ chức có thẩm quyền với mục đích theo pháp luật của Quốc gia thành viên
có liên quan hoặc bất kỳ thiết chế pháp lý quốc tế thích hợp mà quốc gia liên
quan là thành viên. Những thông tin chứa đựng trong đó sẽ bao gồm, tối thiểu
như:
a. Việc
nhận dạng của người mất tự do;
b. Ngày,
giờ và địa điểm nơi người bị mất tự do và xác định cơ quan đã tước đi tự do của
người đó;
c. Cơ quan
đã ra quyết định tước quyền tự do và các căn cứ để tước quyền tự do;
d. Cơ quan
chịu trách nhiệm giám sát việc tước quyền tự do;
e. Nơi tước
bỏ sự tự do, ngày và thời gian xác định nơi tước bỏ sự tự do và cơ quan chịu
trách nhiệm về nơi tước bỏ sự tự do;
f. Các yếu
tố liên quan đến tình trạng sức khỏe của người mất tự do;
g. Trong
trường hợp tử vong trong thời gian tước sự tự do, các hoàn cảnh và nguyên nhân
của cái chết và nơi chuyển thi hài;
h. Ngày và
thời gian phóng thích hoặc chuyển đến một nơi giam giữ khác, nơi đến và cơ quan
chịu trách nhiệm chuyển giao.
Điều 18.
1. Theo
Điều 19 và 20, các Quốc gia thành viên cần đảm bảo rằng bất cứ ai có quan tâm
hợp pháp đến những thông tin này, như thân nhân của người bị tước đoạt quyền tự
do, hay các đại diện hoặc luật sư của họ, được phép tiếp cận ít nhất một trong
những thông tin sau:
a. Nhà chức
trách đã ra lệnh tước đoạt quyền tự do;
b. Ngày,
giờ và địa điểm mà người bị tước quyền tự do và nhận vào nơi tước quyền tự do;
c. Các cơ
quan chịu trách nhiệm giám sát việc tước đoạt quyền tự do;
d. Địa chỉ
cư trú của người bị tước quyền tự do, bao gồm cả việc bị trung chuyển sang nơi
khác chịu chế tài tước quyền tự do, điểm đến và những nhà chức trách có trách
nhiệm trung chuyển;
e. Ngày,
giờ và nơi được tha bổng;
f. Các yếu
tố liên quan đến tình trạng sức khỏe của người bị tước quyền tự do
g. Trong
trường hợp tử vong khi bị tước quyền tự do, các trường hợp và nguyên nhân dẫn
đến tử vong và nơi chôn cất thi thể.
2. Khi cần
thiết, các biện pháp phù hợp phải được tiến hành, để bảo vệ cho những người nêu
ở khoản 1 của điều này cùng với những người tham gia trong quá trình điều tra
khỏi bất kỳ sự ngược đãi, đe dọa, hay bị xử phạt như là kết quả của việc tìm
kiếm thông tin liên quan đến người bị tước bỏ quyền tự do.
Điều 19.
1. Những
thông tin cá nhân, bao gồm cả các dữ liệu về y tế và gen, mà được thu thập hoặc
truyền đi trong khuôn khổ của việc tìm kiếm người bị mất tích không được phép
sử dụng hay cung cấp cho những mục đích khác hơn là mục đích tìm kiếm người bị
mất tích. Điều này không ảnh hưởng đến việc sử dụng những thông tin đó cho các
thủ tục tố tụng hình sự liên quan đến tội phạm cưỡng bức mất tích hoặc thực
hiện các quyền được nhận bồi thường.
2. Việc thu
thập, xử lý, sử dụng và lưu trữ thông tin cá nhân, bao gồm cả dữ liệu về tình
trạng y tế và gen, không được vi phạm hoặc có khả năng xâm phạm đến nhân quyền,
quyền tự do cơ bản hoặc nhân phẩm của cá nhân.
Điều 20.
1. Khi một
người đặt dưới sự bảo hộ của pháp luật và sự tước đoạt quyền tự do là đối tượng
của việc kiểm soát tư pháp, thì có thể quyền đối với thông tin được nêu tại
Điều 18 là bị cấm, trên cơ sở ngoại lệ, khi thực sự cần thiết và khi được luật
pháp hỗ trợ, và nếu việc truyền tải thông tin có thể có ảnh hưởng bất lợi tới
tính riêng tư hoặc an toàn của con người, cản trở việc điều tra hình sự, hay
những nguyên nhân tương ứng khác theo quy định của pháp luật trong nước, và phù
hợp với luật pháp quốc tế thích hợp và các mục tiêu của Công ước này. Không có
trường hợp nào có thể bị cấm trong quyền thông tin được nêu trong Điều 18 có
thể cấu thành hành vi quy định tại Điều 2 hay vi phạm khoản 1 của Điều 17.
2. Không
ảnh hưởng đến việc xem xét tính hợp pháp của hành vi tước đoạt quyền tự do của
con người, các Quốc gia thành viên phải đảm bảo những người được nêu trong
khoản 1 của Điều 18, có quyền được sự bồi thường pháp lý hiệu quả và kịp thời
như là một phương tiện để có được thông tin mà không bị trì hoãn như đã nêu
trong đoạn 1 của Điều 18. Quyền này không thể bị đình chỉ hay bị cấm trong bất
cứ trường hợp nào.
Điều 21.
Mỗi Quốc
gia thành viên cần thực hiện các biện pháp cần thiết để chắc chắn rằng người bị
tước quyền tự do được phóng thích một cách đáng tin cậy cho phép xác minh là
người đó thực sự được phóng thích. Mỗi một Quốc gia thành viên cũng cần thực
hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự toàn vẹn về thể chất và khả năng của
người đó thực hiện đầy đủ các quyền tại thời điểm được phóng thích, không ảnh
hưởng đến bất cứ nghĩa vụ nào mà người đó có thể phải thực hiện theo luật pháp
quốc gia.
Điều 22.
Không ảnh
hưởng đến Điều 6, mỗi Quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp cần thiết
để ngăn chặn và xử phạt đối với hành vi sau:
1. Làm chậm
hoặc cản trở các biện pháp được nêu trong khoản 2 (mục f) của Điều 7, và khoản
2 của Điều 20;
2. Không
ghi hồ sơ việc tước đoạt quyền tự do của người khác, hoặc những bản ghi chép
thông tin mà quan chức có trách nhiệm về đăng ký chính thức đã biết hoặc cần
phải biết về sự thiếu chính xác;
3. Từ chối
cung cấp thông tin về việc tước đoạt quyền tự do của người khác, hoặc cung cấp
thông tin lệch lạc, ngay cả khi những thông tin được cung cấp đó tuân thủ theo
các điều kiện pháp lý.
Điều 23.
1. Mỗi một
Quốc gia thành viên sẽ đảm bảo rằng việc đào tạo nhân viên thực thi pháp luật,
sĩ quan hay dân quân, bác sĩ, viên chức và những người khác có thể liên quan
đến việc chăm sóc hay đối xử bất kỳ người nào bị mất tự do bao gồm sự giáo dục
cần thiết và những thông tin liên quan đến những quy định thích hợp của Công
ước này, để:
a. Ngăn
chặn sự liên quan của những viên chức như trên vào các trường hợp mất tích
cưỡng bức;
b. Nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc ngăn chặn và điều tra liên quan đến các trường hợp
mất tích cưỡng bức;
c. Đảm bảo
rằng nhu cầu khẩn cấp để giải quyết những trường hợp mất tích cưỡng bức được
công nhận.
2. Mỗi Quốc
gia thành viên cần đảm bảo để những mệnh lệnh hoặc hướng dẫn quy định, cho phép
hay khuyến khích hành vi cưỡng bức mất tích là bị nghiêm cấm. Cũng cần đảm bảo
rằng những người từ chối thi hành những mệnh lệnh đó sẽ không bị xử phạt.
3. Mỗi Quốc
gia thành viên cần tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo cho những người
đã nói trong đoạn 1 của điều này có lý do để tin rằng hành vi cưỡng bức mất
tích đã xảy ra hoặc được lên kế hoạch báo cáo vụ việc cho cấp quản lý và, khi
cần, cho những quan chức hay chính quyền được ủy nhiệm có quyền lực xem xét lại
hoặc bồi thường.
Điều 24.
1. Vì mục
đích của Công ước này, “nạn nhân” có nghĩ là người bị mất tích và bất kỳ cá
nhân nào chịu sự hãm hại như là hậu quả trực tiếp của việc cưỡng bức mất tích.
2. Mỗi nạn
nhân đều có quyền được biết sự thật về các hoàn cảnh cưỡng bức mất tích, tiến
trình và các kết quả của việc điều tra và số phận của người bị mất tích. Mỗi
Quốc gia thành viên sẽ thực hiện các giải pháp thích hợp về vấn đề này.
3. Mỗi Quốc
gia thành viên sẽ thực hiện các giải pháp phù hợp để tìm kiếm, xác định và giải
cứu những người bị mất tích và, trong trường hợp bị chết, để xác định, bảo vệ
và đưa thi thể của họ trở về với gia đình.
4. Mỗi quốc
gia phải đảm bảo rằng trong hệ thống pháp lý của mình các nạn nhân của việc mất
tích cưỡng bức có quyền nhận được đền bù và bồi thường nhanh chóng, công bằng
và hợp lý.
5. Quyền
được bồi thường quy định tại khoản 4 của điều này bao gồm những thiệt hại vật
chất và tinh thần, và các hình thức phù hợp khác như sau:
a. Phục hồi tình trạng ban
đầu;
b. Khôi phục lại danh dự,
sức khỏe;
c. Bồi thường, bao gồm
phục hồi về nhân phẩm và danh tiếng;
d. Sự bảo lãnh để tình
trạng đó không bị tái diễn.
6. Không có
thành kiến đối với nghĩa vụ để tiếp tục điều tra cho đến khi số phận của người
mất tích được làm rõ, mỗi Quốc gia thành viên sẽ có các bước đi thích hợp đối
với tình trạng pháp lý của người bị mất tích mà số phận của họ không được làm
rõ và của thân nhân của họ, trong các lĩnh vực như an sinh xã hội, vấn đề tài
chính, luật gia đình và quyền sở hữu.
7. Mỗi một
Quốc gia thành viên bảo đảm quyền thành lập và tham gia một cách tự do trong
các tổ chức và hiệp hội có liên quan đến các hoàn cảnh cưỡng bức mất tích và số
phận của những người mất tích, và để trợ giúp các nạn nhân của việc cưỡng bức
mất tích.
Điều 25.
1. Mỗi Quốc
gia thành viên sẽ thực hiện những giải pháp cần thiết để ngăn ngừa và trừng trị
theo luật hình sự của nước mình:
a. Việc di chuyển trái
phép trẻ em, những trẻ em bị ép buộc cưỡng bức mất tích, trẻ em mà bố, mẹ hoặc
người đại diện theo pháp lý là đối tượng của việc cưỡng bức mất tích hoặc trẻ
em được sinh ra trong tình trạng bị giam cầm của người mẹ là đối tượng của việc
cưỡng bức mất tích;
b. Làm giả, che giấu hoặc
phá hủy các tài liệu làm chứng cứ cho việc xác minh sự thật về trẻ em được quy
định tại đoạn (a) ở trên.
2. Mỗi Quốc
gia thành viên phải thực hiện các giải pháp cần thiết để tìm kiếm và nhận biết
trẻ em được quy định tại khoản 1 (a) của điều này và đưa chúng trở về gia đình
của mình, tuân thủ các thủ tục pháp lý và các thỏa thuận quốc tế thích hợp.
3. Các Quốc
gia thành viên sẽ hỗ trợ các quốc gia khác trong việc tìm kiếm, nhận biết và
xác định trẻ em là đối tượng được quy định tại đoạn (1) của điều này.
4. Do sự
cần thiết phải bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em nêu tại khoản 1 (a) của điều
này và quyền của trẻ em được duy trì, hoặc tái lập danh tính của chúng, bao gồm
quốc tịch, tên và các quan hệ gia đình đã được pháp luật công nhận, các Quốc
gia thành viên công nhận một hệ thống nhận con nuôi hoặc hình thức khác về thân
thế của trẻ em phải có thủ tục pháp lý tại chỗ để xem xét thủ tục nhận con nuôi
hoặc vị thế của trẻ em, và, khi thích hợp, bãi bỏ bất kỳ việc nhận con nuôi mà
bắt nguồn từ một sự cưỡng bức mất tích.
5. Trong
mọi trường hợp, và cụ thể trong các trường hợp liên quan tới điều này, những
lợi ích tốt nhất của trẻ em sẽ là mối quan tâm hàng đầu, và một đứa trẻ có khả
năng thể hiện các quan điểm của mình phải có quyền thể hiện quan điểm đó một
cách tự do, các quan điểm của trẻ em được tính đến dựa trên độ tuổi và sự
trưởng thành của đứa trẻ.
PHẦN II
Điều 26.
1. Một Ủy
ban về vấn đề cưỡng bức mất tích (sau đây gọi là “the Committee”) sẽ được thành
lập để thực hiện các chức năng được quy định Công ước này. Ủy ban gồm mười
chuyên gia có tư cách đạo đức tổt và có vị thế được công nhận trong lĩnh vực
quyền con người, những người có trách nhiệm thực hiện công việc bằng năng lực
cá nhân của họ và được độc lập và vô tư khi làm việc. Các thành viên của Ủy ban
sẽ được lựa chọn bởi các Quốc gia thành viên theo sự phân bố công bằng về mặt
địa lý. Do đó phải tính đến sự tham gia hiệu quả vào công việc của các Ủy ban
của người có kinh nghiệm pháp lý phù hợp và tính đến đại diện cân bằng về giới
tính.
2. Các
thành viên của Ủy ban phải được bầu bằng bỏ phiếu kín từ một danh sách những
người được đề cử bởi các Quốc gia thành viên từ các công dân của họ, tại cuộc
họp hai năm một lần của các quốc gia do Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập vì
mục đích này.Tại các cuộc họp này, hai phần ba các Quốc gia thành viên sẽ là số
đại biểu tối thiểu cần thiết, những người được bầu vào Ủy ban phải là những
người đạt được số phiếu lớn nhất và chiếm đa số tuyệt đối số phiếu của
các đại diện của các quốc gia có mặt và biểu quyết.
3. Cuộc bầu
cử đầu tiên sẽ được tổ chức không muộn hơn sáu tháng sau ngày có hiệu lực của
Công ước này. Bốn tháng trước ngày bắt đầu của mỗi cuộc to bầu cử, Tổng Thư ký
của Liên Hợp Quốc sẽ gửi một bức thư cho các Quốc gia thành viên mời họ đệ
trình đề cử trong vòng ba tháng. Tổng Thư ký sẽ chuẩn bị một danh sách theo thứ
tự chữ cái của tất cả những người được đề cử như vậy, theo đó Quốc gia thành
viên mà đề cử ứng cử viên sẽ đệ trình danh sách này tới tất cả các Quốc gia
thành viên.
4. Các
thành viên của Ủy ban sẽ được bầu với nhiệm kỳ bốnyears. năm. Họ sẽ được tái cử
một lần. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của năm ;thành viên được bầu tại cuộc bầu cử đầu
tiên sẽ hết hạn khi kết thúc hai năm; ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên, tên của
những năm thành viên được chủ tịch của cuộc họp, được nêu tại khoản 2 của điều
này, lựa chọn bằng cách rút thăm.
5. Nếu một
thành viên của Ủy ban chết hoặc từ chức hoặc vì bất kỳ lý do nào khác không thể
thực hiện các nhiệm vụ của mình, các Quốc gia thành viên đã đề cử thành viên đó
sẽ, phù hợp với các tiêu chí đặt ra trong khoản 1 của điều này, chỉ định một
ứng cử viên khác trong số các công dân của mình để thực hiện nhiệm kỳ của thành
viên đó, khi được sự thông qua của đa số các Quốc gia thành viên Sự thông qua
như vậy sẽ được xem là đã đạt được, trừ khi một nửa hoặc nhiều hơn các quốc gia
phản đối trong vòng sáu tuần sau khi được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc thông báo
về sự bổ nhiệm được đề xuất..
6. Ủy ban
sẽ thiết lập các quy tắc riêng của mình về thủ tục.
7. Tổng Thư
ký Liên Hợp Quốc sẽ cung cấp cho Ủy ban những công cụ, phương tiện và đội ngũ
nhân viên cho việc thực hiện hiệu quả các chức năng của mình. Tổng Thư ký của
Liên Hợp Quốc sẽ triệu tập cuộc họp đầu tiên của Ủy ban.
8. Các
thành viên của Ủy ban sẽ được trao cho các phương tiện, các quyền ưu đãi và
miễn trừ của các chuyên gia đang thực thi nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc, như đã
được quy định trong Công ước về các quyền Ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc.
9. Mỗi Quốc
gia thành viên sẽ hợp tác với Ủy ban và hỗ trợ các thành viên của mình trong
việc thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của họ, trong phạm vi các chức năng của Ủy
ban mà các Quốc gia thành viên đã chấp nhận.
Điều 27.
Một Hội
nghị của các Quốc gia thành viên sẽ diễn ra vào bốn năm đầu tiên và 6 năm sau
khi Công ước có hiệu lực để đánh giá các chức năng của Ủy ban và để quyết định
theo thủ tục được quy định tại Điều 44, khoản 2, liệu nó có phù hợp để chuyển
giao cho cơ quan khác – không bao gồm bất kỳ khả năng nào – giám sát của công
ước này, theo các chức năng được quy định tại các Điều 28 và 36.
Điều 28.
1. Trong
khuôn khổ thẩm quyền theo Công ước, Ủy ban sẽ hợp tác với các cơ quan, văn
phòng, chi nhánh thích hợp của Liên Hợp Quốc, với các cơ quan điều ước được
thiết lập bởi các thiết chế quốc tế, với các thủ tục đặc biệt của Liên Hợp Quốc
và với các cơ quan hay các tổ chức liên chính phủ khu vực thích hợp, cũng như
với các viện, cơ quan, văn phòng quốc gia thích hợp thực hiện công việc bảo vệ
tất cả mọi người chống lại việc mất tích cưỡng bức.
2. Khi thực
hiện xong nhiệm vụ của mình, Ủy ban sẽ tư vấn các cơ quan điều ước khác thiết
lập các thiết chế nhân quyền quốc tế phù hợp, cụ thể Ủy ban Nhân quyền được
thành lập bởi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, nhằm đảm bảo
sự phù hợp của các nhận xét và khuyến nghị tương ứng.
Điều 29.
1. Mỗi Quốc
gia thành viên sẽ đệ trình lên Ủy ban, thông qua Tổng Thư ký của Liên Hợp Quốc,
một báo cáo về các giải pháp để thực hiện hiệu quả các nghĩa vụ của mình theo
Công ước, trong vòng hai năm sau khi Công ước có hiệu lực cho quốc gia quan
tâm.
2. Tổng Thư
ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển báo cáo này đến tất cả các Quốc gia thành viên.
3. Mỗi một
báo cáo sẽ được xem xét bởi Ủy ban, Ủy ban sẽ đưa ra các nhận xét, bình luận và
các khuyến nghị về báo cáo đó. Các nhận xét, bình luận và khuyến nghị sẽ được
chuyển đến quốc quốc gia liên quan, quốc gia có thể có trách nhiệm đối với báo
cáo đó, tới quốc gia đã chủ động hay đề nghị Ủy ban.
4. Ủy ban
cũng có thể đề nghị các Quốc gia thành viên cung cấp thêm thông tin về việc
thực hiện công ước này.
Điều 30.
1.1. Một đề
xuất rằng một người bị mất tích phải được tìm kiếm có thể đệ trình lên Ủy ban,
như là một vấn đề khẩn cấp, bởi thân nhân của người mất tích hay những người
đại diện hợp pháp của họ, luật sư của họ hay bất kỳ người nào có thẩm quyền với
họ, cũng như với bất kỳ người nào khác có mối quan tâm hợp pháp.
2. Nếu Ủy
ban xem xét rằng một đề xuất cho hành động khẩn cấp theo khoản 1 của điều này:
a. Không
phải rõ ràng không thể tìm được;
b. Không
phải là sự lạm dụng quyền đệ trình những đề xuất như vậy
c. Đã thực
sự được xem xét thích đáng của các cơ quan có thẩm quyền của Quốc gia thành
viên, như thẩm quyền thực hiện việc điều tra, nơi người mất tích có khả năng
tồn tại;
d. Phù hợp
với các quy định của Công ước này; và
e. Vần đề
này đang không được giải quyết theo một thủ tục khác của việc điều tra hay giải
quyết quốc tế có cùng bản chất;
Ủy ban sẽ
đề nghị Quốc gia thành viên có liên quan cung cấp thông tin về tình trạng của
những người cần tìm kiếm, trong một khoảng thời gian do Ủy ban thiết lập.
3. Sau khi
xem xét kỹ lưỡng các thông tin do các Quốc gia thành viên liên quan cung cấp
theo khoản 2 của điều này, Ủy ban có thể chuyển các khuyến nghị tới Quốc gia
thành viên, bao gồm đề nghị để Quốc gia thành viên thực hiện những giải pháp
cần thiết, bao gồm cả các biện pháp tạm thời, để xác định và bảo vệ người có
liên quan trong Công ước này và để thông báo cho Ủy ban, trong một khoảng thời
gian cụ thể, những biện pháp được thực hiện, tính đến sự khẩn cấp của tình
huống. Ủy ban cũng sẽ thông báo cho người đệ trình đề xuất hành động khẩn cấp
về các khuyến nghị của nó và những thông tin do các quốc gia cung cấp khi nó có
hiệu lực.
4. Ủy ban
phải tiếp tục những nỗ lực của mình để hợp tác với Quốc gia thành viên liên
quan chừng nào mà số phận của những người cần tìm kiếm vẫn chưa được xác định.
Người đề xuất sẽ tiếp tục được thông báo.
Điều 31
1. Một Quốc
gia thành viên tại thời điểm phê chuẩn Công ước này hoặc bất kỳ thời điểm nào
sau khi tuyên bố rằng quốc gia đó công nhận thẩm quyền của Ủy ban để tiếp nhận
hay xem xét các thông tin từ/hoặc nhân danh các cá nhân thuộc thẩm quyền của nó
được xác định là các nạn nhân của một sự vi phạm của Quốc gia thành viên theo
các quy định này của Công ước này. Ủy ban sẽ không được xem xét bất kỳ thông
tin nào liên quan đến một Quốc gia thành viên mà không đưa ra một tuyên bố như
vậy.
2. Ủy ban
sẽ xem xét một thông tin không được tiếp nhận khi:
a. Thông
tin nặc danh;
b. Thông
tin nhằm lạm dụng quyền đệ trình hoặc thông tin không phù hợp với các quy định
của Công ước này;
c. Cùng một
vấn đề đang được giải quyết dưới một thủ tục điều tra và giải quyết khác về
cùng bản chất; hoặc khi
d. Tất cả
các giải pháp trong nước có thể thực hiện hiệu quả đã sử dụng hết.
Quy định
này không áp dụng khi việc áp dụng các giải pháp không hợp lý kéo dài.
3. Khi Ủy
ban xem xét rằng thông tin đáp ứng các yêu cầu theo khoản 2 của điều này, nó sẽ
chuyển thông tin cho các Quốc gia thành viên liên quan, đề nghị quốc gia đó
cung cấp các nhận xét và bình luận trong một khoảng thời gian nhất định cho Ủy
ban đặt ra.
4. Ở bất kỳ
thời điểm nào sau khi nhận được thông tin và trước khi quyết định vấn đề cần
giải quyết, Ủy ban có thể chuyển giao cho các quốc gia việc xem xét khẩn cấp đề
xuất của nó để Quốc gia thành viên sẽ thực hiện các giải pháp tạm thời ở mức độ
cần thiết nhằm tránh thiệt hại có khả năng xảy ra đối với các nạn nhân của vụ
vi phạm được viện dẫn. Khi Ủy ban tự mình quyết định hành động, thì không ám
chỉ một sự chấp nhận hay dựa trên tinh thần của hoạt động truyền thông.
5.5. Ủy ban
sẽ tổ chức các cuộc họp kín khi xác định tình huống theo điều này. Nó sẽ thông
báo cho cơ quan truyền thông có trách nhiệm trả lời của các quốc gia liên quan.
Khi Ủy ban quyết định hoàn thành thủ tục, nó sẽ thể hiện các quan điểm của mình
đến các Quốc gia thành viên và cơ quan truyền thông.
Điều 32.
Một Quốc
gia thành viên của Công ước này tại bất kỳ thời điểm nào có thế tuyên bố rằng
nó công nhận thẩm quyền của Ủy ban với việc tiếp nhận và xem xét các thông tin
trong đó một Quốc gia thành viên yêu sách rằng một Quốc gia thành viên khác
không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của nó theo Công ước này. Ủy ban sẽ không
tiếp nhận các thông tin liên quan tới một Quốc gia thành viên mà không đưa ra
một tuyên bố như vậy, hay những thông tin từ một Quốc gia thành viên khác đã
không đưa ra một tuyên bố như vậy.
Điều 33.
1. Khi Ủy
ban tiếp nhận thông tin chắc chắn xác định rằng một Quốc gia thành viên đang vi
phạm nghiêm trọng các quy định của Công ước này, nó có thể, sau khi tham khảo
Quốc gia thành viên liên quan, đề xuất một hay nhiều thành viên của nó thực
hiện việc viếng thăm và báo cáo ngay lập tức tới Ủy ban.
2. Ủy ban
sẽ thông báo cho Quốc gia thành viên liên quan, bằng văn bản, ý định của mình
về việc tổ chức việc viếng thăm, thông báo sơ lược thành phần của phái đoàn và
mục đích của chuyến viếng thăm. Quốc gia thành viên sẽ trả lời Ủy ban trong một
khoảng thời gian hợp lý.
3. Dựa trên
đề xuất cụ thể của Quốc gia thành viên, Ủy ban có thể quyết định hoãn hay hủy
chuyến viếng thăm của mình.
4. Nếu Quốc
gia thành viên đồng ý về việc viếng thăm, Ủy ban và Quốc gia thành viên liên
quan sẽ làm việc cùng nhau để xác định thể thức của chuyến viếng thăm và Quốc
gia thành viên sẽ cung cấp cho Ủy ban tất cả các phương tiện cần thiết cho việc
thực hiện thành công chuyến viếng thăm.
5. Sau
chuyến viếng thăm đó, Ủy ban sẽ thông tin đến Quốc gia thành viên liên quan về
những nhận xét và các khuyến nghị của mình.
Điều 34.
Nếu Ủy ban
tiếp nhận các thông tin có sự xác định rõ ràng rằng việc cưỡng bức mất tích
đang diễn ra một cách phổ biến và có hệ thống trong lãnh thổ thuộc thẩm quyền
của một Quốc gia thành viên, Ủy ban có thể, sau khi tìm kiếm mọi thông tin phù
hợp từ Quốc gia thành viên có liên quan, khẩn trương đưa vấn đề đó ra trước Đại
Hội đồng, thông qua Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 35.
1. 1. Ủy
ban sẽ chỉ có thẩm quyền với các trường hợp cưỡng bức mất tích mà đã được đưa
ra sau khi Công ước có hiệu lực.
2. 2. Nếu
một Quốc gia trở thành thành viên của Công ước này sau khi nó có hiệu lực, các
nghĩa vụ của quốc gia đó với Ủy ban sẽ chỉ liên quan tới các trường hợp cưỡng
bức mất tích đã được đưa ra sau khi Công ước có hiệu lực đối với quốc gia có
liên quan.
Điều 36.
1. Ủy ban
sẽ đệ trình một báo cáo về các hoạt động của mình theo Công ước này tới các
Quốc gia thành viên và tới Đại Hội đồng của Liên Hợp Quốc.
2. Trước
khi một nhận xét về một Quốc gia thành viên được công bố trong báo cáo thường
niên, Quốc gia thành viên liên quan sẽ được thông báo trước và sẽ có thời gian
hợp lý để trả lời. Quốc gia thành viên có thể đề nghị xuất bản những nhận xét
và bình luận của nó trong báo cáo.
PHẦN III
Điều 37.
Không có
bất kỳ quy định nào trong Công ước này ảnh hưởng tới bất kỳ quy định nào mà
nhằm giúp đỡ hơn nữa việc bảo vệ mọi người từ việc cưỡng bức mất tích và có thể
nằm trong:
1. Pháp
luật của một Quốc gia thành viên;
2. Luật
quốc tế có hiệu lực đối với quốc gia đó.
Điều 38.
1.1. Công
ước này mở để ký cho tất cả các Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc.
2.2. Công
ước này là đối tượng để phê chuẩn bởi tất cả các Quốc gia thành viên của Liên
Hợp Quốc. Các văn kiện phê chuẩn sẽ được lưu chiểu với Tổng Thư ký Liên Hợp
Quốc.
3.3. Công
ước này để mở cho tất cả các quốc gia của Liên Hợp Quốc gia nhập. Việc gia nhập
sẽ được xác nhận bằng việc lưu chiểu văn kiện gia nhập lên Tổng Thư ký.
Điều 39.
1.1. Công
ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày nộp văn kiện lưu chiểu lên Tổng
Thư ký của văn kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ 20.
2.2. Đối
với mỗi quốc gia phê chuẩn hay gia nhập Công ước này sau khi có lưu chiểu thứ
20 của các văn kiện gia nhập hay phê chuẩn, Công ước này sẽ có hiệu lực vào
ngày thứ 30 sau ngày lưu chiểu các văn kiện phê chuẩn hay gia nhập của quốc gia
đó.
Điều 40.
Tổng Thư ký
Liên Hợp Quốc sẽ thông báo với tất cả các Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
và tất cả các quốc gia đã ký hay gia nhập Công ước này về:
1. Các hoạt
động ký, phê chuẩn và gia nhập theo Điều 38;
2. Ngày có
hiệu lực của Công ước này theo Điều 39.
Điều 41.
Những quy
định của Công ước này sẽ áp dụng cho tất cả các bang của các nhà nước liên bang
mà không có bất kỳ sự giới hạn hay ngoại lệ nào.
Điều 42.
1.1. Bất kỳ
tranh chấp nào giữa hai hay nhiều Quốc gia thành viên liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng Công ước này mà vấn đề không thể giải quyết thông qua đàm
phán hay bằng các thủ tục được quy định trong Công ước, sẽ đề xuất với một
trong các bên, đệ trình lên trọng tài. Nếu trong vòng sáu tháng kể từ ngày đề
xuất giải quyết bằng trọng tài, các thành viên không đạt được thỏa thuận về tổ
chức trọng tài, thì bất cứ bên nào trong số các quốc gia này đều có thể chuyển
tranh chấp này đến Tòa án Công lý quốc tế thông qua trình tự phù hợp với Quy
chế của Tòa án
2.2. Một
Quốc gia, tại thời điểm ký hay phê chuẩn Công ước này hoặc gia nhập, có thể
tuyên bố rằng nó không chịu ràng buộc bởi quy định tại khoản 1 điều này. Các
Quốc gia thành viên khác sẽ không bị trói buộc bởi khoản 1 của điều này đối với
bất kỳ quốc gia nào đã đưa ra tuyên bố như vậy.
3.3. Bất kỳ
Quốc gia thành viên nào đưa ra tuyên bố theo các quy định tại khoản 2 điều này
có thể rút tuyên bố ở mọi thời điểm và thông báo lên Tổng Thư ký của Liên Hợp
Quốc.
Điều 43.
Công ước
này không làm ảnh hưởng đến các quy định của luật nhân đạo quốc tế, bao gồm các
nghĩa vụ của các Quốc gia thành viên đối với bốn Công ước Geneva ngày 12 tháng
8 năm 1949 và hai Nghị định thư bổ sung kèm theo ngày 8 tháng 6 năm 1977, hoặc
đối với cơ hội cho bất kỳ Quốc gia thành viên nào để thực hiện thẩm quyền của
Hội chữ thập đỏ quốc tế thăm viếng những nơi giam giữ trong những tình huống
không được quy định trong luật nhân đạo quốc tế.
Điều 44.
1.1. Bất kỳ
Quốc gia thành viên nào trong Công ước này đều có thể đề xuất một sự sửa đổi
hay chỉnh lý nó với Tổng Thư ký của Liên Hợp Quốc. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
sau đó sẽ chuyển vấn đề sửa đổi được đề xuất đó tới các Quốc gia thành viên của
Công ước này với đề nghị tổ chức một hội nghị của Quốc gia thành viên với mục
đích xem xét và bỏ phiếu cho đề nghị trênproposal.. Trong vòng bốn tháng tính
từ ngày thông báo như vậy phải có ít nhất một phần ba các Quốc gia thành viên
ủng hộ cho hội nghị như vậy, Tổng Thư ký sẽ triệu tập hội nghị dưới sự bảo trợ
của Liên Hợp Quốc.
2.2. Bất kỳ
một sự sửa đổi nào được thông qua bởi đa số hai phần ba các Quốc gia thành viên
có mặt và bỏ phiếu tại hội nghị sẽ được đệ trình lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
để tất cả các Quốc gia thành viên chấp nhận.
3.3. Một sự
sửa đổi được thông qua theo khoản 1 của điều này sẽ có hiệu lực khi hai phần ba
các Quốc gia thành viên của Công ước chấp nhận theo thủ tục hợp hiến của
họ.processes.
4.4. Khi
những vấn đề sửa đổi có hiệu lực, các Quốc gia thành viên khác sẽ vẫn bị trói
buộc bởi các quy định của Công ước này và bất kỳ một sự sửa đổi sớm hơn nào mà
các quốc gia đó đã chấp nhận.
Điều 45.
1.1. Công
ước này được làm thành các bản bằng tiếng Ả-rập, Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga và
Tây Ban Nha, sáu bản này có giá trị pháp lý như nhau, sẽ được lưu chiểu bởi
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
2.2. Tổng
Thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển giao các bản sao Công ước tới tất cả các quốc
gia theo quy định tại Điều 38.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét