CÔNG ƯỚC VỀ CÁC DÂN TỘC
VÀ BỘ LẠC BẢN ĐỊA Ở CÁC QUỐC GIA ĐỘC LẬP, 1989
(Công ước số 169, được
Đại Hội đồng của Tổ chức Lao động quốc tế thông qua trong kỳ họp lần thứ 76,
ngày 27/6/1989. Có hiệu lực từ ngày 05/9/1991).
Đại Hội
đồng của Tổ chức Lao động quốc tế, được Hội đồng Quản trị Văn phòng Lao động
quốc tế triệu tập trong kỳ họp lần thứ 76, ngày 7/6/1989.
Ghi nhớ những chuẩn mực quốc tế
đã được thiết lập trong Công ước và Khuyến nghị của ILO về nhân dân bản địa và
bộ lạc năm 1957,
Nhắc lại
những
chuẩn mực được ghi nhận trong Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người; Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước quốc tế về các
quyền dân sự. chính trị và nhiều văn kiện quốc tế khác về ngăn chặn sự phân
biệt đối xử, và
Nhận
thức rằng, sự
phát triển trong luật quốc tế từ năm 1957 cũng như sự phát triển về tình hình
của nhân dân bản địa và bộ lạc ở tất cả các khu vực trên thế giới đã cho thấy
sự cần thiết phải thông qua những chuẩn mực quốc tế mới về chủ đề người bản
địa, với mục đích xóa bỏ xu hướng đồng hóa trong các chuẩn mực trước đó, và
Thừa
nhận những
nguyện vọng khát khao của các dân tộc bản địa trong việc thiết lập và điều hành
những thiết chế riêng của họ; trong việc xác lập cách sống, sự phát triển kinh
tế và việc duy trì, phát triển những bản sắc, ngôn ngữ, tôn giáo của họ, trong
khuôn khổ của các quốc gia mà họ sống, và
Ghi nhớ
rằng, ở
nhiều khu vực trên thế giới, những dân tộc bản địa vẫn chưa được hưởng thụ
những quyền con người cơ bản của họ giống như những cộng đồng khác trong cùng
một quốc gia mà họ đang sống, và rằng, luật pháp, các giá trị, tập quán và tiền
đồ của họ vẫn bị hao mòn, và
Kêu gọi quan tâm tới sự đóng
góp đặc biệt của các dân tộc và bộ tộc bản địa vào tính đa dạng và hài hòa về
văn hóa, xã hội, sinh thái của nhân loại và sự hợp tác và hiểu biết quốc tế, và
Ghi nhớ
rằng, những
quy định sau đây đã được soạn thảo với sự hợp tác của Liên Hợp Quốc; Tổ chức
Nông - Lương của Liên Hợp Quốc; Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên
Hợp Quốc, Tổ chức Y tế thế giới cũng như của Viện người da đỏ Liên Mỹ, ở tất cả
các cấp độ và lĩnh vực tương ứng, và rằng, cần tiếp tục sự hợp tác trong việc
thúc đẩy và bảo đảm sự áp dụng các quy định này, và
Quyết
định chấp
nhận những đề xuất cụ thể liên quan đến sự sửa đổi từng phần của Công ước về
nhân dân bản địa và bộ lạc năm 1957 (Công ước số 107 của ILO) thể hiện trong
bốn mục trong chương trình nghị sự của kỳ họp, và
Đã quyết
định rằng, những
đề xuất này cần được thể hiện dưới hình thức của một điều ước quốc tế sửa đổi
Công ước về nhân dân bản địa và bộ lạc năm 1957,
Thông
qua Công
ước này vào ngày 27/6-1989, gọi là Công ước về các dân tộc và bộ lạc bản địa
năm 1989.
a. Các bộ
tộc trong các quốc gia độc lập mà tình trạng kinh tế, xã hội, văn hóa của họ
khác biệt so với các bộ phận dân cư khác trong quốc gia đó, và một phần hay
toàn bộ vị thế của họ được quy định bởi các tập tục truyền thống hay các luật
lệ, quy định đặc biệt của riêng họ.
b. Các dân
tộc trong các quốc gia độc lập mà được đề cập như là những người bản địa, trên
cơ sở xem xét nguồn gốc của các cộng đồng dân cư định cư ở quốc gia đó, hoặc
trên cơ sở khu vực địa lý mà quốc gia đó thuộc vào, mà ở thời điểm sự xâm
chiếm, thuộc địa hóa hay việc thiết lập đường biên giới hiện tại của quốc gia
đó thì họ là những người, bất kể vị thế pháp lý của họ, đã duy trì được một số
hoặc tất cả các thể chế về chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội của riêng cộng
đồng mình.
2. Sự tự
đồng nhất với phạm trù người bản địa hay bộ tộc sẽ được coi như là một tiêu
chuẩn cơ bản cho việc xác định các nhóm là chủ thể được áp dụng các quy định
trong Công ước này.
3. Việc sử
dụng thuật ngữ "các dân tộc" trong Công ước này không có nghĩa là gắn
với việc áp dụng tất cả các quyền liên quan đến khái niệm này trong luật quốc
tế.
2. Những
hành động như vậy cần phải bao gồm các biện pháp:
a. Bảo đảm
rằng các thành viên của các dân tộc được hưởng thụ trên cơ sở bình đẳng, các
quyền và cơ hội mà pháp luật và quy định của quốc gia trao cho các thành viên
của các cộng đồng khác.
b. Thúc đẩy
sự thừa nhận đầy đủ các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc này đồng
thời với việc bảo đảm sự tôn trọng tính toàn vẹn về văn hóa, xã hội của họ, các
tập quán, truyền thống và các thể chế của họ.
c. Trợ giúp
các thành viên của các dân tộc được đề cập trong Công ước này xóa bỏ những
khoảng cách về văn hóa - xã hội mà có thể đang hiện hữu giữa những người bản
địa và những thành viên khác của cộng đồng quốc gia, theo tinh thần phù hợp với
những nguyện vọng về cách sống của họ.
2. Không
được sử dụng các thủ tục, quyền lực hoặc sự ép buộc nào để vi phạm các quyền
con người và tự do cơ bản của các dân tộc bản địa, bao gồm các quyền được ghi
nhận trong Công ước này.
2. Các biện
pháp đặc biệt này sẽ không được trái với những ước nguyện thực sự của các dân
tộc được đề cập trong Công ước này.
3. Việc
hưởng thụ các quyền cơ bản của công dân không có sự phân biệt đối xử, theo bất
kỳ cách thức nào, phải không được làm tổn hại đến các biện pháp đặc biệt như
vậy.
Trong
việc áp dụng các quy định của Công ước:
1. Các giá
trị tư tưởng, tín ngưỡng, văn hóa, xã hội và các thói quen của các dân tộc này
phải được thừa nhận và bảo vệ, và cần phải lưu ý đến bản chất của các vấn đề
khó khăn mà cả các cá nhân cũng như các nhóm này phải đối mặt.
2. Tính
toàn vẹn của các giá trị, thói quen và thể chế của các dân tộc này phải được
tôn trọng.
3. Cần ban
hành những chính sách hướng vào việc giảm nhẹ những khó khăn mà các dân tộc này
phải gánh chịu trong những hoàn cảnh mới của cuộc sống, với sự tham gia và hợp
tác của các dân tộc được đề cập trong Công ước này.
1. Trong việc áp dụng các quy định của Công ước này, các chính
phủ phải:
a. Lấy ý
kiến tư vấn của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, thông qua các thủ
tục phù hợp và các thể chế đại diện cụ thể của họ vào bất cứ khi nào có sự cân
nhắc đưa các biện pháp pháp lý và hành chính có liên quan trực tiếp đến họ.
b. Thiết
lập các biện pháp để cho các dân tộc này có thể tham gia một cách tự do, ít
nhất là với mức độ rộng rãi như các bộ phận dân cư khác, vào tất cả các cấp độ
của quá trình ra quyết định trong các thể chế dân cử, hành chính và các cơ quan
có trách nhiệm thiết lập các chính sách. chương trình liên quan đến họ.
2. Cần lấy
ý kiến tư vấn của các dân tộc này trong quá trình áp dụng Công ước, với niềm
tin và bằng hình thức thích hợp, với mục đích nhằm đạt được sự nhất trí hoặc
đồng ý của họ về các biện pháp đưa ra.
2. Việc
thúc đẩy điều kiện sống, việc làm, các cấp độ về chăm sóc y tế và sức khỏe cho
các dân tộc được đề cập trong Công ước này, với sự tham gia và hợp tác của họ,
cần phải coi là một vấn đề ưu tiên trong kế hoạch phát triển toàn diện về kinh
tế ở các vùng họ cư trú. Cũng cần thiết phải xây dựng các dự án đặc biệt về
phát triển các khu vực như vậy để thúc đẩy tiến trình này.
3. Các
chính phủ phải bảo đảm rằng, ở bất cứ nơi nào thích hợp, tiến hành các nghiên
cứu, với sự tham gia của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, về những
tác động tới họ trong các hoạt động phát triển đã được xác định, trên các lĩnh
vực về môi trường, văn hóa, tinh thần và xã hội của họ.
4. Các
chính phủ phải tiến hành các biện pháp, với sự hợp tác của các dân tộc được đề
cập trong Công ước này, để bảo vệ và bảo tồn môi trường tự nhiên ở các khu vực
mà họ đang cư trú.
2. Những
dân tộc được đề cập trong Công ước này phải có quyền được duy trì những tập
quán và thể chế của riêng họ, nếu như chúng không trái với những quyền cơ bản
được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia và với những quyền con người đã
được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Các thủ tục phải được thiết lập ở
những nơi cần thiết, để giải quyết những xung đột có thể phát sinh trong việc
áp dụng nguyên tắc này.
3. Việc áp
dụng quy định trong đoạn 1 và 2 của điều này không ngăn cản các thành viên của
các dân tộc được đề cập trong Công ước này được hưởng thụ các quyền và phải
gánh vác những trách nhiệm pháp lý mà được quy định với tất cả các công dân của
quốc gia đó.
2. Các tập
quán của các dân tộc được đề cập trong Công ước này liên quan tới vấn đề hình
sự sẽ được xét xử bởi các nhà chức trách và tòa án có thẩm quyền trong các vụ
việc đó.
2. Trong
việc xử lý hình sự những thành viên của các dân tộc được đề cập trong Công ước
này cần lựa chọn các biện pháp trừng phạt khác, hơn là biện pháp bỏ tù.
2. Việc sử
dụng thuật ngữ "đất đai" trong Điều 15 và 16 của Công ước sẽ bao gồm
cả các lãnh thổ bao chứa các khu vực môi trường toàn vẹn mà trên đó các dân tộc
được đề cập trong Công ước này đang cư trú hoặc sử dụng.
2. Các
chính phủ phải tiến hành những biện pháp cần thiết để xác định các vùng đất đai
mà các dân tộc được đề cập trong Công ước này cư trú trong truyền thống, và để
bảo đảm sự bảo vệ có hiệu quả các quyền sở hữu và chiếm hữu của họ.
2. Trong trường hợp mà các
quốc gia duy trì quyền sở hữu công cộng với các khoáng sản hoặc các nguồn tài
nguyên dưới lòng đất hoặc các quyền với các nguồn tài nguyên khác ở một vùng
đất, các chính phủ phải thiết lập và duy trì những thủ tục lấy ý kiến tư vấn
của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, nhằm xác định là các quyền lợi
của các dân tộc được đề cập trong Công ước này có bị ảnh hướng hay không và ảnh
hưởng như thế nào, trước khi quyết định hoặc cho phép tiến hành bất kỳ một
chương trình khảo sát hoặc khai thác những nguồn tài nguyên như vậy ở trên các
vùng đất đó. Các dân tộc được đề cập trong Công ước này phải được hưởng lợi từ
các hoạt động khai thác đó ở bất cứ nơi nào, và phải được nhận sự đền bù cho
bất kỳ sự thiệt hại nào mà họ phải gánh chịu do hậu quả từ những hành động khảo
sát, khai thác đó.
2. Việc tái
định cư các dân tộc được đề cập trong Công ước này cần thiết phải được xem như
là một biện pháp ngoại lệ, việc tái định cư như vậy chỉ được thực hiện với sự
đồng ý một cách tự do và có nhận thức của họ. Tại những nơi mà không thể đạt
được sự tự nguyện đồng ý của họ, việc tái định cư như vậy chỉ được thực hiện
theo những thủ tục thích hợp mà được quy định trong pháp luật và các quy định
của quốc gia, bao gồm những hướng dẫn chung ở những nơi thích hợp mà cho phép
các dân tộc được đề cập trong Công ước này có cơ hội đại diện có hiệu quả trong
quá trình đó.
3. Tại bất
kỳ nơi nào có thể, các dân tộc được đề cập trong Công ước này phải có quyền
được trở lại những vùng đất truyền thống của họ ngay khi những cơ sở cho việc
tái định cư họ ở vùng đất khác không còn nữa.
4. Khi việc
trở về như vậy là không thể được, theo quyết định trong một thỏa thuận, hoặc
nếu như không có một thỏa thuận như vậy, thì thông qua những thủ tục thích hợp,
các dân tộc được đề cập trong Công ước này phải được cung cấp tất cả những khả
năng có thể được định cư ở những vùng đất có chất lượng và với vị thế pháp lý
ít nhất là ngang bằng với những vùng đất mà họ đã sinh sống trước đó, các vùng
đất mới đó phải phù hợp với những nhu cầu hiện tại và sự phát triển trong tương
lai của họ. Tại những nơi mà các dân tộc được đề cập trong Công ước này bày tỏ
yêu cầu về sự bồi thường bằng tiền hoặc về những thứ khác, họ phải được bảo đảm
sự bồi thường như vậy.
5. Những
người mà đã tái định cư phải được đền bù đầy đủ cho tất cả những thiệt hại và
mất mát mà họ phải gánh chịu.
2. Các dân
tộc được đề cập trong Công ước này phải được trưng cầu ý kiến bất cứ khi nào
đặt ra việc xem xét việc chuyển nhượng các vùng đất của họ hoặc các hình thức
chuyển giao khác về các quyền của họ diễn ra bên ngoài cộng đồng của họ.
3. Cần phải
ngăn chặn việc những người không thuộc các dân tộc này kiếm lợi từ việc khai
thác các tập tục của họ hoặc từ việc thiếu hiểu biết về pháp luật của một số
thành viên trong các cộng đồng của họ, liên quan tới các quyền sở hữu, chiếm
hữu hoặc sử dụng các vùng đất đai của họ.
1. Quy định
về đất đai thêm cho các dân tộc được đề cập trong Công ước này khi họ không có
các khu vực cần thiết mà có thể cung cấp những thứ thiết yếu cho cuộc sống bình
thường, hoặc cho bất kỳ sự tăng trưởng dân số nào của họ.
2. Quy định
về các biện pháp cần thiết cho việc thúc đẩy sự phát triển ở các vùng đất mà họ
đã chiếm hữu.
PHẦN
III: TUYỂN DỤNG VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN LÀM VIỆC
2. Các
chính phủ phải làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn bất kỳ sự phân biệt đối
xử nào giữa những người lao động thuộc các dân tộc được đề cập trong Công ước
này và những người lao động khác cụ thể liên quan tới:
a. Việc thu
nhận vào làm việc, bao gồm cả các việc làm đòi hỏi kỹ năng cũng như trong việc
thăng chức và đề bạt.
b. Việc trả
lương bình đẳng cho các công việc như nhau.
c. Sự trợ
giúp xã hội và y tế, an toàn và vệ sinh lao động, tất cả các lợi ích về bảo trợ
xã hội và bất kỳ lợi ích nào khác liên quan đến việc làm, và nơi ở;
d. Quyền
được lập hội và tự do hoạt động công đoàn theo pháp luật và quyền được thỏa ước
tập thể với những người sử dụng lao động hoặc với các tổ chức của những người
sử dụng lao động.
3. Các biện
pháp đó cần bảo đảm rằng:
a. Những
người lao động thuộc các dân tộc được đề cập trong Công ước này, bao gồm lao
động di trú, lao động theo mùa, lao động theo vụ việc trong nông nghiệp và
trong các nghề nghiệp khác, cũng như lao động theo hợp đồng, đều được hưởng sự
bảo vệ của luật pháp quốc gia như những người lao động thuộc các cộng đồng khác
trong cùng các bối cảnh như vậy.
b. Những
người lao động thuộc các dân tộc dược đề cập trong Công ước này không phải làm
việc trong các điều kiện có hại cho cho sức khỏe của họ, đặc biệt là các công
việc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu và các hóa chất độc hại khác.
c. Những
người lao động nam và nữ thuộc các dân tộc được đề cập trong Công ước này được
hưởng các cơ hội bình đẳng và được đối xử bình đẳng trong lao động, và được bảo
vệ khỏi sự quấy rối tình dục.
4. Phải có
sự quan tâm đặc biệt tới việc thiết lập các cơ quan thanh tra lao động thích
hợp ở những vùng mà những người lao động thuộc các dân tộc được đề cập trong
Công ước này đang làm việc để bảo đảm sự tuân thủ các quy định trong Phần này
của Công ước.
PHẦN
IV: ĐÀO TẠO NGHỀ, THỦ CÔNG VÀ CÁC NGHỀ NGHIỆP NÔNG THÔN
2. Bất cứ
khi nào có các chương trình đào tạo nghề nghiệp được áp dụng chung mà không đáp
ứng những nhu cầu đặc biệt của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, các
chính phủ phải bảo đảm cung cấp cho các dân tộc đó những chương trình đào tạo
và trợ giúp đặc biệt, với sự tham gia của các dân tộc đó.
3. Bất kỳ
chương trình đào tạo đặc biệt nào cũng phải dựa trên các điều kiện về văn hóa,
xã hội, kinh tế, môi trường và các nhu cầu thực tế của các dân tộc được đề cập
trong Công ước này. Bất kỳ nghiên cứu nào về vấn đề này cần được thực hiện với
sự cộng tác của các dân tộc được đề cập trong Công ước này đều phải lấy ý kiến
tư vấn của họ về việc tổ chức và điều hành các chương trình như vậy. Tại những
nơi có thể thực hiện được, các dân tộc được đề cập trong Công ước này phải từng
bước được giao gánh vác trách nhiệm trong việc tổ chức và điều hành các chương
trình đào tạo đặc biệt như vậy, nếu họ muốn.
2. Trên cơ
sở những yêu cầu của các dân tộc được đề cập trong Công ước này, phải cung cấp
cho họ sự trợ giúp về tài chính và kỹ thuật ở bất cứ nơi nào có thể, có tính
đến những kỹ thuật truyền thống và các đặc trưng văn hóa của họ cũng như với
tầm quan trọng của sự phát triển thỏa đáng và hợp lý của họ.
PHẦN
V: BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ Y TẾ
2. Các dịch
vụ y tế phải được mở rộng đến mức có thể và phải dựa trên cơ sở cộng đồng. Các
dịch vụ này phải được xây dựng và quản lý với sự hợp tác của các dân tộc được
đề cập trong Công ước này, có tính đến các điều kiện về văn hóa, xã hội, địa lý
và kinh tế của họ cũng như đến các loại dược thảo, phương pháp phòng, chữa bệnh
truyền thống của họ.
3. Phương
thức chăm sóc sức khỏe phải được chuyển giao và đào tạo để được thực hiện bởi
các nhân viên y tế cộng đồng, và chú trọng đến việc chăm sóc sức khỏe ban đầu
trong khi vẫn chú ý duy trì các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở các cấp độ khác.
4. Quy định
về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe như vậy phải phù hợp với các điều kiện về văn
hóa, kinh tế và xã hội ở quốc gia.
PHẦN
VI: GIÁO DỤC VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
2. Các nhà
chức trách có thẩm quyền phải bảo đảm đào tạo các thành viên của các dân tộc
được đề cập trong Công ước này cũng như bảo đảm sự tham gia của họ vào việc
thiết lập và thực hiện các chương trình giáo dục, nhằm chuyển giao dần dần
trách nhiệm điều hành các chương trình này cho các dân tộc đó khi thích hợp.
3. Thêm vào
đó, các chính phủ phải thừa nhận quyền của các dân tộc được đề cập trong Công
ước này được thiết lập các thiết chế và cơ sở giáo dục của riêng họ, với điều
kiện các thiết chế đó phải đáp ứng những chuẩn mực tối thiểu do nhà chức trách
có thẩm quyền quy định trên cơ sở có sự tư vấn của các dân tộc này. Các nguồn
lực thích hợp phải được cung cấp cho mục đích này.
2. Phải
thực hiện các biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng các dân tộc được đề cập trong
Công ước này có cơ hội đạt được sự thuần thục về ngôn ngữ chính thức dùng trong
quốc gia hoặc về một trong các ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở quốc gia.
3. Phải
thực hiện các biện pháp nhằm bảo tồn và thúc đẩy sự phát triển, thực hành các
ngôn ngữ bản địa của các dân tộc được đề cập trong Công ước này.
2. Nếu cần
thiết, vấn đề này cần phải được thực hiện bằng các biện pháp như dịch các văn
kiện có liên quan ra các ngôn ngữ của họ và sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng tuyên truyền bằng các ngôn ngữ của họ.
PHẦN
VII: LIÊN LẠC VÀ HỢP TÁC QUA BIÊN GIỚI
2. Các
chương trình này cần bao gồm:
a. Việc
thiết lập, điều phối, thực hiện và đánh giá các biện pháp để thực hiện Công ước
này, với sự cộng tác của các dân tộc được đề cập trong Công ước này.
b. Đề xuất
các văn bản pháp luật và các biện pháp khác với các nhà chức trách có thẩm
quyền và việc giám sát việc áp dụng các biện pháp đã tiến hành, với sự cộng tác
của các dân tộc được đề cập trong Công ước này.
PHẦN
X: CÁC QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG
Công
ước này sửa đổi Công ước về nhân dân bản địa và bộ lạc năm 1957.
Công
ước này phải được đăng ký phê chuẩn chính thức với Tổng giám đốc Văn phòng Lao
động quốc tế.
1. Công ước này chỉ ràng buộc các Quốc gia thành viên Tổ chức
Lao động quốc tế đã đăng ký phê chuẩn.
2. Công ước
này sẽ có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày có hai Quốc gia thành viên đăng ký
phê chuẩn.
3. Sau đó,
Công ước sẽ có hiệu lực sau 12 tháng với bất kỳ Quốc gia thành viên nào đăng ký
phê chuẩn với Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế.
2. Mỗi Quốc
gia thành viên đã phê chuẩn và chưa phê chuẩn Công ước này, trong vòng một năm
sau khi kết thúc thời hạn 10 năm nói trong khoản trên mà không thực hiện quyền
bãi ước đã quy định tại điều này thì sẽ bị ràng buộc trong thời hạn 10 năm nữa
rồi sau đó mới được bãi ước mỗi khi kết thúc thời hạn 10 năm theo những quy
định tại điều này.
2. Khi
thông báo cho các nước thành viên Tổ chức Lao động quốc tế về việc đăng ký phê
chuẩn của nước thành viên thứ hai, Tổng giám đốc sẽ lưu ý các nước thành viên
về thời điểm Công ước có hiệu lực
Tổng
giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế phải thông tin đầy đủ với Tổng Thư ký Liên
Hợp Quốc để đăng ký theo Điều 102 của Hiến chương Liên Hợp Quốc về những chi tiết của tất cả các hành động phê chuẩn
và bãi ước đã được đăng ký theo nội dung của các điều khoản trên.
a. Việc phê
chuẩn của một Quốc gia thành viên với một Công ước mới sửa đổi Công ước này, sẽ
đương nhiên dẫn đến sự bãi ước ngay lập tức với Công ước này mà không cần theo
quy định tại Điều 39 trên đây, vào lúc Công ước sửa đổi bắt đầu có hiệu lực.
b. Kể từ
ngày Công ước mới sửa đổi bắt đầu có hiệu lực, Công ước này sẽ thôi không mở để
các nước phê chuẩn nữa.
2. Trong
mọi trường hợp, Công ước này vẫn sẽ giữ nguyên hiệu lực về mặt hình thức và nội
dung như hiện nay với những Quốc gia thành viên nào đã phê chuẩn Công ước này
mà không phê chuẩn Công ước mới sửa đổi.
Cả
hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp của Công ước này đều có giá trị như nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét