VỀ GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI CÁC ĐIỀU KIỆN HÀNG HẢI 1976
Các Quốc
gia Thành viên của Công ước này,
Nhận thức
được mong muốn xác định bằng thoả thuận một số qui tắc thống nhất nhất định
liên quan đến giới hạn trách nhiệm đối với các khiếu kiện hàng hải;
Ðã quyết
định ký kết một Công ước nhằm mục đích này và đã thoả thuận như sau:
Ðiều
1. Những người được hưởng giới hạn trách nhiệm
1. Chủ tàu
và người cứu nạn, như được định nghĩa dưới đây, có thể giới hạn trách nhiệm của
mình phù hợp với các qui tắc của Công ước này đối với các khiếu kiện nêu tại Ðiều
2.
2. Thuật
ngữ chủ tàu có nghĩa là chủ sở hữu, người thuê tàu, người quản lý và người điều
khiển tàu biển.
3. Người
cứu nạn là bất kỳ người nào cung cấp các dịch vụ có liên quan trực tiếp đến các
hoạt động cứu nạn. Các hoạt động cứu nạn sẽ bao gồm các hoạt động được nêu tại Ðiều
2, đoạn 1(d), (e) và (f).
4. Bất kỳ
khiếu kiện nào nêu tại Ðiều 2 được thực hiện chống lại một người bất kỳ
mà chủ tàu hoặc người cứu nạn phải chịu trách nhiệm đối với hành động, sự bất
cẩn hoặc không thực hiện của họ, người này có quyền được hưởng giới hạn trách
nhiệm quy định tại Công ước này.
5. Trong
Công ước này trách nhiệm của một chủ tàu sẽ bao gồm trách nhiệm trong một vụ
kiện được đưa ra chống lại bản thân tàu đó.
6. Trách
nhiệm một nhà bảo hiểm đối với các khiếu kiện tuân thủ giới hạn theo các qui
tắc của Công ước này sẽ có quyền hưởng các quyền lợi từ Công ước này trong phạm
vi giống như bản thân người được bảo hiểm.
7. Hành vi
viện dẫn giới hạn trách nhiệm không tạo thành một sự thừa nhận trách nhiệm.
Ðiều
2. Các khiếu kiện tuân thủ giới hạn trách nhiệm
1. Theo các
Ðiều 3 và 4, các khiếu kiện dưới đây, dù trên căn cứ trách nhiệm
nào, phải tuân thủ giới hạn trách nhiệm:
a. Các
khiếu kiện liên quan đến sinh mạng hoặc thương vong hoặc thiệt hại về tài sản
(bao gồm cả thiệt hại đối với các công trình cảng, các vũng vịnh và các đường
hàng hải) và các thiết bị bảo đảm hàng hải xảy ra trên tàu hoặc có liên quan
trực tiếp đến hoạt động của tàu hoặc các hoạt động cứu nạn, là kết quả của các
thiệt hại phát sinh từ đó;
b. Các
khiếu kiện liên quan đến các thiệt hại phát sinh từ sự chậm trễ trong việc vận
chuyển hàng hoá, hành khách hoặc hành lý của họ bằng đường biển;
c. Các
khiếu kiện liên quan đến các thiệt hại khác phát sinh từ việc xâm hại đến các
quyền khác ngoài các quyền theo hợp đồng, phát sinh có liên quan trực tiếp đến
hoạt động của tàu hoặc các hoạt động cứu nạn;
d. Các
khiếu kiện liên quan đến việc trục vớt, di chuyển, phá huỷ hoặc vô hại hoá một
tàu bị chìm, đắm, mắc cạn hoặc bị từ bỏ, bao gồm tất cả những gì đang hoặc đã
từng có trên tàu đó;
e. Các
khiếu kiện liên quan đến việc di chuyển, phá huỷ hoặc vô hại hoá hàng hoá trên
tàu;
f. Các
khiếu kiện của một người không phải là người chịu trách nhiệm liên quan đến các
biện pháp được tiến hành để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu thiệt hại mà nhờ đó người
chịu trách nhiệm có thể giới hạn được trách nhiệm của mình theo quy định của
Công ước này, và những thiệt hại phát sinh khác do các biện pháp này gây ra.
2. Các
khiếu kiện nêu trong đoạn 1 phải tuân thủ giới hạn trách nhiệm dù chúng được
đưa ra theo con đường đòi bồi hoàn hay yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng hoặc khác.
Tuy nhiên,
các khiếu kiện nêu tại các đoạn 1(d), (e) và (f) không phải tuân thủ giới hạn
trách nhiệm trong phạm vi chúng có liên quan đến việc trả thù lao theo một hợp
đồng với người chịu trách nhiệm.
Ðiều
3. Các khiếu kiện bị loại trừ khỏi giới hạn trách nhiệm
Các qui tắc
của Công ước không áp dụng cho:
a. Các
khiếu kiện về cứu nạn hoặc đóng góp trong tổn thất chung;
b. Các
khiếu kiện về thiệt hại do ô nhiễm dầu theo nghĩa của Công ước quốc tế về Trách
nhiệm Dân sự đối với các Thiệt hại do Ô nhiễm Dầu ngày 29 tháng 11 năm 1969,
hoặc của bất kỳ sửa đổi hay Thoả ước nào liên quan đang có hiệu lực.
c. Các
khiếu kiện tuân thủ bất kỳ công ước quốc tế hoặc luật quốc gia nào có điều
chỉnh hoặc cấm việc hạn chế trách nhiệm đối với các thiệt hại hạt nhân;
d. Các
khiếu kiện chống lại chủ tàu hạt nhân về các thiệt hại hạt nhân;
e. Các
khiếu kiện được tiến hành bởi người phục vụ của chủ tàu hoặc người cứu nạn,
người mà nhiệm vụ của họ có liên quan đến tàu hoặc đến các hoạt động cứu nạn,
bao gồm các khiếu kiện của những người thừa kế, người phụ thuộc của họ hoặc
những người khác có quyền đưa ra những khiếu kiện như vậy, nếu theo luật điều
chỉnh hợp đồng dịch vụ giữa chủ tàu hoặc người cứu nạn và những người phục vụ
đó, chủ tàu hoặc người cứu nạn không được hưởng giới hạn trách nhiệm liên quan
đến các khiếu kiện như vậy, hoặc nếu chủ tàu hoặc người cứu nạn chỉ được luật
đó cho phép hưởng giới hạn trách nhiệm tới một khoản tiền lớn hơn khoản tiền
nêu tại Ðiều 6.
Ðiều
4. Những hành vi làm loại trừ giới hạn trách nhiệm
Một người
phải chịu trách nhiệm không được hưởng giới hạn trách nhiệm của mình nếu thiệt
hại được chứng minh là xuất phát từ hành vi, hành động hoặc không hành động,
của cá nhân người đó được thực hiện với chủ ý gây ra thiệt hại đó, hoặc được
thực hiện một cách liều lĩnh và ý thức được rằng có thể gây ra thiệt hại như
vậy.
Trường hợp
một người được hưởng giới hạn trách nhiệm theo các qui tắc của Công ước này có
khiếu kiện chống lại người có khiếu kiện trong cùng một vụ việc, các khiếu kiện
tương ứng của họ sẽ được bù trừ cho nhau và các quy định của Công ước này chỉ
áp dụng cho khoản chênh lệch, nếu có.
1. Các giới
hạn trách nhiệm đối với các khiếu kiện không phải là các khiếu kiện nêu tại Ðiều
7 phát sinh trong một vụ việc nhất định, sẽ được tính như sau:
a. Liên
quan đến các khiếu kiện về tính mạng hoặc thương vong,
(a). 333.
000 đơn vị tiền tệ pháp định đối với tàu có trọng tải không vượt quá 500 tấn,
(i) Đối với
tàu có trọng tải vượt quá mức trên, cộng thêm khoản tiền sau đây vào khoản tiền
nêu trên,
(ii) Đối
với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 501 đến 3000 tấn, 500 đơn vị tiền tệ pháp
định; đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 3001 đến 30. 000 tấn, 333 đơn vị
tiền tệ pháp định; đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 30. 001 đến 70. 000
tấn, 250 đơn vị tiền tệ pháp định; và đối với mỗi tấn vượt quá trên 70. 000
tấn, 167 đơn vị tiền tệ pháp định;
b. Liên
quan đến bất kỳ khiếu kiện nào khác,
(b) 167.
000 đơn vị tiền tệ pháp định đối với tàu có trọng tải không vượt quá 500 tấn,
(i) Đối với
tàu có trọng tải vượt quá mức trên, cộng thêm khoản tiền sau đây vào khoản tiền
nêu trên,
(ii) Đối
với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 501 đến 30. 000 tấn, 167 đơn vị tiền tệ
pháp định; đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 30. 001 đến 70. 000 tấn,
125 đơn vị tiền tệ pháp định; và đối với mỗi tấn vượt quá trên 70. 000 tấn, 83
đơn vị tiền tệ pháp định;
2. Trường
hợp khoản tiền được tính theo đoạn 1(a) không đủ để trả đầy đủ cho các khiếu
kiện nêu tại đây, khoản tiền được tính theo đoạn 1(b) sẽ được áp dụng cho việc
thanh toán khoản chênh lệch chưa được thanh toán của các khiếu kiện theo đoạn
1(a) và khoản chênh lệch chưa thanh toán đó sẽ được xếp tỷ lệ với các khiếu
kiện nêu tại đoạn 1(b).
(1) Tuy
nhiên, với điều kiện không ảnh hưởng đến quyền khiếu kiện về sinh mạng hoặc
thương vong theo đoạn 2, một Quốc gia Thành viên có thể quy định trong luật
quốc gia của mình rằng các khiếu kiện liên quan đến thiệt hại đối với các công
trình cảng, các vũng vịnh và các đường hàng hải, và các thiết bị bảo đảm hàng
hải sẽ được ưu tiên so với các khiếu kiện theo đoạn 1(b) như được quy định tại
luật đó.
(2) Các
giới hạn trách nhiệm đối với người cứu nạn không tác nghiệp từ tàu đó hoặc đối
với người cứu nạn chỉ tác nghiệp trên tàu đó hoặc có liên quan đến tàu mà người
đó đang cung cấp các dịch vụ cứu nạn, được tính theo tàu có trọng tải 1. 500
tấn.
(3) Vì mục
đích của Công ước này, trọng tải của tàu là trọng tải tổng tính theo các qui
tắc đo trọng tải trong Phụ lục 1 của Công ước Quốc tế về Ðo trọng tải tàu 1969.
Ðiều
7. Giới hạn đối với các khiếu kiện của hành khách
1. Về các
khiếu kiện phát sinh trong một vụ việc nhất định liên quan đến thiệt hại về
sinh mạng hoặc thương vong của các hành khách của tàu, giới hạn trách nhiệm của
chủ tàu sẽ là khoản tiền trị giá 46. 666 đơn vị tiền tệ pháp định nhân với số
lượng khách mà tàu đó được phép vận chuyển theo chứng nhận của tàu, nhưng không
vượt quá 25 triệu đơn vị tiền tệ pháp định.
2. Vì mục
đích của Ðiều này "khiếu kiện về các thiệt hại về sinh mạng hoặc thương
vong của hành khách của tàu" là mọi khiếu kiện được tiến hành bởi hoặc
nhân danh một người bất kỳ được vận chuyển bằng tàu đó:
a. Theo một
hợp đồng vận chuyển hành khách, hoặc
b. Người,
với sự chấp thuận của người vận chuyển, đi kèm với một phương tiện giao thông
hoặc các động vật sống được ghi nhận bởi một hợp đồng vận chuyển hàng hoá.
Ðiều
8. Ðơn vị tiền tệ pháp định
1. Ðơn vị
tiền tệ pháp định nêu trong các Ðiều 6 và 7 là Quyền vay vốn
đặc biệt do Quỹ Tiền tệ Quốc tế xác định. Các khoản tiền nêu trong các Ðiều
6 và 7 sẽ được tính qui đổi ra đồng tiền của quốc gia nơi giới hạn
trách nhiệm được yêu cầu, theo giá trị của đồng tiền đó vào ngày quỹ giới hạn
trách nhiệm được thiết lập, ngày khoản tiền được thanh toán hoặc ngày hình thức
đảm bảo được đưa ra mà theo luật của quốc gia đó thì hình thức đảm bảo này
tương đương với khoản tiền phải trả đó. Giá trị biểu thị bằng Quyền vay vốn
đặc biệt của đồng nội tệ của một Quốc gia Thành viên là một thành viên của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế được tính theo phương thức tính giá trị được Quỹ Tiền tệ
Quốc tế áp dụng cho các nghiệp vụ và giao dịch của Quỹ có hiệu lực vào ngày
liên quan. Giá trị biểu thị bằng Quyền vay vốn đặc biệt của đồng nội tệ
của một Quốc gia Thành viên không phải là thành viên của Quỹ Tiền tệ quốc tế
được tính theo cách thức do Quốc gia Thành viên đó xác định.
2. Tuy
nhiên, các quốc gia không phải là thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế mà luật
của các quốc gia đó không cho phép áp dụng các qui định của đoạn 1 có thể, vào
thời điểm ký kết không bảo lưu cho việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt
hoặc vào thời điểm phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia nhập hoặc vào bất
kỳ thời điểm nào sau đó, tuyên bố rằng các giới hạn trách nhiệm quy định tại
Công ước này được áp dụng trên lãnh thổ của họ sẽ được ấn định như sau:
a. Đối với
Ðiều 6, đoạn (a), tới một khoản tiền là:
i. 5 triệu
đơn vị tiền tệ đối với tàu có trọng tải không vượt quá 500 tấn;
ii. Đối với
tàu có trọng tải vượt quá, khoản tiền sau đây sẽ được cộng thêm vào khoản tiền
nêu tại (i):đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 501 đến 3000 tấn, 7. 500
đơn vị tiền tệ; đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 3001 đến 30. 000 tấn,
5. 000 đơn vị tiền tệ; đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 30. 001 đến 70.
000 tấn, đơn vị tiền tệ; và đối với mỗi tấn vượt quá trên 70. 000 tấn, 2. 500
đơn vị tiền tệ; và
b. Đối với Ðiều
6 đoạn 1(b), tới một khoản tiền là:
i. 2,5
triệu đơn vị tiền tệ đối với tàu có trọng tải không vượt quá 500 tấn;
ii. Đối với
tàu có trọng tải vượt quá mức trên, cộng thêm khoản tiền sau đây vào khoản tiền
nêu trong (i):đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 501 đến 30. 000 tấn, 2.
500 đơn vị tiền tệ; đối với mỗi tấn vượt quá trong khoảng từ 30. 001 đến 70.
000 tấn, 1. 850 đơn vị tiền tệ; và đối với mỗi tấn vượt quá trên 70. 000 tấn,
1. 250 đơn vị tiền tệ; và
c. Đối với Ðiều
7, đoạn 1, tới một khoản tiền là 700. 000 đơn vị tiền tệ nhân với số hành
khách mà tàu đó được phép vận chuyển theo chứng nhận của tàu nhưng không được
phép vượt quá 375 triệu đơn vị tiền tệ. Các đoạn 2 và 3 của Ðiều 6 áp
dụng tương ứng cho các tiểu đoạn (a) và (b) của đoạn này.
3. Ðơn vị
tiền tệ nêu trong đoạn 2 tương ứng với 65,5 miligam vàng có độ tinh khiết
900/1000. Việc qui đổi khoản tiền này ra đồng nội tệ sẽ được thực hiện phù hợp
với luật của quốc gia liên quan.
4. Việc
tính toán nêu tại câu cuối cùng của đoạn 1 và việc qui đổi nêu tại đoạn 3 phải
được thực hiện theo cách thức sao cho thể hiện tương đương đến mức có thể bằng
đồng nội tệ của Quốc gia Thành viên giá trị thực của các khoản tiền được thể
hiện bằng đơn vị tiền tệ pháp định nêu tại các Ðiều 6 và 7. Các
Quốc gia Thành viên phải thông báo cho người giữ lưu chiểu cách thức tính toán
theo đoạn 1, hoặc kết quả của việc qui đổi tại đoạn 3, tuỳ từng trường hợp, vào
thời điểm ký kết không bảo lưu cho việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt,
hoặc khi nộp lưu chiểu một tài liệu nêu tại Ðiều 16 hoặc mỗi khi có thay
đổi về cách thức tính toán hay kết quả qui đổi.
Ðiều
9. Kết hợp các khiếu kiện
1. Các giới
hạn trách nhiệm xác định theo Ðiều 6 sẽ được áp dụng tổng thể các khiếu
kiện phát sinh từ một vụ việc nhất định bất kỳ:
a. Chống
lại người hoặc những người nêu tại đoạn 2 Ðiều 1 và bất kỳ người nào mà
người đó hoặc họ phải chịu trách nhiệm về hành vi, sự bất cẩn hay không thực
hiện của người này; hoặc
b. Chống
lại một chủ tàu của một tàu cung cấp các dịch vụ cứu nạn từ tàu đó và người cứu
nạn hoặc những người cứu nạn tác nghiệp từ tàu đó và bất kỳ người nào mà người
đó hoặc họ phải chịu trách nhiệm về hành vi, sự bất cẩn hoặc không thực hiện
của người này; hoặc
c. Chống
lại người cứu nạn hoặc những người cứu nạn không tác nghiệp từ tàu hoặc đối với
người cứu nạn chỉ hoạt động từ tàu hoặc có liên quan đến tàu mà các dịch vụ cứu
nạn được thực hiện và bất kỳ người nào mà người đó hoặc họ phải chịu trách
nhiệm về hành vi, sự bất cẩn hoặc không thực hiện của người này.
2. Các giới
hạn trách nhiệm được xác định theo Ðiều 7 sẽ được áp dụng cho tổng số
tất cả các khiếu kiện tuân thủ Ðiều đó có thể phát sinh từ một vụ việc nhất
định bất kỳ chống lại người hoặc những người nêu tại đoạn 2 của Ðiều 1
liên quan đến tàu nêu tại Ðiều 7 và bất kỳ người nào mà người đó hoặc họ
phải chịu trách nhiệm về hành vi, sự bất cẩn hoặc không thực hiện của người
này.
Ðiều
10. Giới hạn trách nhiệm mà không thiết lập một quỹ giới hạn trách nhiệm
1. Giới hạn
trách nhiệm có thể được nêu ra dù một quỹ giới hạn nêu tại Ðiều 11 chưa
được thiết lập. Tuy nhiên, một Quốc gia Thành viên có thể quy định trong luật
quốc gia của mình rằng trường hợp một vụ kiện được đưa ra trước các Tòa án của
mình để giải quyết một khiếu kiện tuân thủ giới hạn trách nhiệm, một người phải
chịu trách nhiệm chỉ có thể nêu ra quyền được giới hạn trách nhiệm nếu một quỹ
giới hạn đã được thiết lập phù hợp với các quy định của Công ước này hoặc được
thiết lập khi quyền hưởng giới hạn trách nhiệm được nêu ra.
2. Nếu giới
hạn trách nhiệm được nêu ra mà không thiết lập quỹ giới hạn, các quy định tại Ðiều
12 sẽ được áp dụng tương ứng.
3. Các vấn
đề thủ tục phát sinh theo các qui tắc của Ðiều này phải được quyết định phù hợp
với luật nội địa của Quốc gia Thành viên nơi vụ kiện được đưa ra.
1. Một
người bất kỳ bị xem là phải chịu trách nhiệm có thể thiết lập một quỹ cùng với
Tòa án hoặc nhà chức trách có thẩm quyền ở một Quốc gia Thành viên bất kỳ nơi
đang tiến hành thủ tục tố tụng tư pháp liên quan đến khiếu kiện tuân thủ giới
hạn trách nhiệm. Quỹ phải được thiết lập với khoản tiền nêu tại các Ðiều 6
và 7 được áp dụng cho các khiếu kiện mà người đó có thể phải chịu trách
nhiệm, cùng với khoản lãi trên số tiền đó kể từ ngày có vụ việc làm phát sinh
trách nhiệm cho đến ngày thiết lập quỹ. Bất kỳ quỹ nào được thiết lập như vậy
đều chỉ được sử dụng để thanh toán cho các khiếu kiện mà giới hạn trách nhiệm
có thể được nêu ra.
2. Một quỹ
có thể được thiết lập hoặc bằng cách ký quỹ khoản tiền, hoặc bằng cách đưa ra
một bảo đảm chấp nhận được theo pháp luật của Quốc gia Thành viên nơi quỹ được
thiết lập và được Tòa án hoặc nhà chức trách có thẩm quyền khác coi là phù hợp.
3. Một quỹ
được thiết lập bởi một trong số những người được nêu trong đoạn 1(a), (b) hoặc
(c) hoặc đoạn 2 Ðiều 9 hay bởi nhà bảo hiểm của người này sẽ được coi
như được thiết lập bởi tất cả những người được nêu trong đoạn 1(a) (b) hoặc (c)
hoặc đoạn 2 tương ứng.
1. Tuân thủ
các quy định của đoạn 1, 2 và 3 Ðiều 6, và Ðiều 7, quỹ sẽ được
phân bổ cho những người có khiếu kiện tỷ lệ với các khiếu kiện của họ được lập
chống lại quỹ.
2. Nếu,
trước khi quỹ được phân bổ, người phải chịu trách nhiệm, hoặc nhà bảo hiểm của
người này, đã giải quyết một khiếu kiện chống lại quỹ, người đó sẽ được thế các
quyền mà người được thanh toán được hưởng theo Công ước này trong phạm vi khoản
tiền mà người đó đã thanh toán.
3. Quyền
thế quyền quy định tại đoạn 2 có thể được thực hiện bởi những người không phải
là những người được nêu trong trường hợp đó liên quan đến một khoản bồi thường
bất kỳ mà họ đã thanh toán, nhưng chỉ trong phạm vi mà việc thế quyền đó được
luật quốc gia áp dụng cho phép.
4. Trường
hợp người phải chịu trách nhiệm hoặc một người khác chứng minh rằng anh ta có
thể bị buộc phải thanh toán, vào một thời điểm sau đó, toàn bộ hoặc một phần
khoản bồi hoàn mà anh ta được hưởng quyền thế quyền theo các đoạn 2 và 3, nếu
khoản bồi hoàn đó đã được thanh toán trước khi quỹ được phân bổ, Tòa án hoặc
nhà chức trách có thẩm quyền khác của Quốc gia nơi quỹ được thiết lập có thể ra
lệnh rằng một khoản tiền vừa đủ sẽ phải để ra định kỳ để giúp người đó có thể
tiến hành khiếu kiện chống lại quỹ vào một thời điểm sau đó.
Ðiều
13. Cấm các khiếu kiện khác
1. Trường
hợp một quỹ giới hạn trách nhiệm đã được thiết lập phù hợp với Ðiều 11,
bất kỳ người nào đã khiếu kiện chống lại quỹ sẽ bị cấm thực hiện bất kỳ quyền
gì liên quan đến khiếu kiện đó chống lại các tài sản khác của một người mà quỹ
được thiết lập bởi hoặc nhân danh người này.
2. Sau khi
một quỹ giới hạn trách nhiệm đã được thiết lập phù hợp với Ðiều 11, mọi
tàu hoặc tài sản khác, thuộc sở hữu của người mà quỹ đã được thiết lập nhân
danh người này, đã bị bắt giữ hoặc bị tịch biên trong phạm vi quyền tài phán
của một Quốc gia Thành viên đối với một khiếu kiện có thể được đưa ra chống lại
quỹ, hoặc bất kỳ hình thức đảm bảo nào đã được thực hiện, có thể được giải
phóng theo lệnh của Tòa án hoặc nhà chức trách có thẩm quyền khác của quốc gia
đó. Tuy nhiên, lệnh giải phóng này luôn phải được ban hành nếu quỹ giới hạn
trách nhiệm đã được thiết lập:
a. Tại cảng
nơi vụ việc xảy ra, hoặc nếu vụ việc xảy ra bên ngoài cảng, tại cảng nghỉ đầu
tiên sau đó; hoặc
b. Tại cảng
trả khách trong trường hợp các khiếu kiện về thiệt hại về sinh mạng hoặc thương
vong; hoặc
c. Tại cảng
dỡ hàng đối với thiệt hại về hàng hoá; hoặc
d. Tại Quốc
gia nơi việc bắt giữ được thực hiện.
3. Các qui
tắc của đoạn 1 và 2 sẽ chỉ áp dụng nếu người có khiếu kiện có thể đưa khiếu
kiện chống lại quỹ giới hạn trách nhiệm trước Tòa án quản lý quỹ đó và quỹ tại
thời điểm đó ở tình trạng sẵn sàng và giải ngân dễ dàng cho khiếu kiện đó.
Tuân thủ
các quy định của chương này, các qui tắc liên quan đến việc thiết lập và phân
bổ một quỹ giới hạn trách nhiệm, và tất cả các qui tắc về thủ tục liên quan đến
vấn đề này sẽ được điều chỉnh bởi luật của Quốc gia nơi quỹ được thiết lập.
1. Công ước này sẽ được áp dụng bất cứ khi nào một người bất
kỳ được nêu trong Ðiều 1 yêu cầu giới hạn trách nhiệm của mình trước Tòa
án của một Quốc gia Thành viên hoặc yêu cầu được thực hiện việc giải phóng tàu
hoặc tài sản khác hoặc dỡ bỏ một hình thức đảm bảo đã đưa ra trong phạm vi
quyền tài phán của một Quốc gia Thành viên. Tuy
nhiên, mỗi Quốc gia Thành viên có thể loại trừ toàn bộ hoặc một phần việc áp
dụng Công ước này đối với một người bất kỳ nêu tại Ðiều 1, người mà vào
thời điểm các qui tắc của Công ước này được viện dẫn trước một Tòa án của quốc
gia đó không có nơi thường trú tại một Quốc gia Thành viên, hoặc không có nơi
giao dịch chính tại một Quốc gia Thành viên, hoặc đối với một tàu bất kỳ mà
việc giới hạn trách nhiệm được viện dẫn hoặc việc giải phóng nó đang được yêu
cầu và vào thời điểm được nêu ở trên tài đó không mang cờ của một Quốc gia
Thành viên.
2. Một Quốc
gia Thành viên có thể bằng các quy định cụ thể của luật quốc gia điều chỉnh hệ
thống giới hạn trách nhiệm áp dụng cho các tàu mà:
a. Theo
luật của quốc gia đó, tàu đó được sử dụng cho hàng hải trong các tuyến hàng hải
nội địa;
b. Các tàu
dưới 300 tấn.
Một Quốc
gia Thành viên sử dụng khả năng lựa chọn quy định tại đoạn này phải thông báo
cho người giữ lưu chiểu biết về các giới hạn trách nhiệm được ấn định trong
luật quốc gia của mình hoặc về việc không có bất kỳ giới hạn nào.
3. Một Quốc
gia Thành viên có thể bằng các quy định cụ thể của luật quốc gia điều chỉnh hệ
thống giới hạn trách nhiệm áp dụng cho các khiếu kiện phát sinh trong các
trường hợp trong đó quyền lợi của những người có quốc tịch của các quốc gia
khác không hề có liên quan.
4. Các Tòa
án của một Quốc gia Thành viên không áp dụng Công ước này đối với các tàu được
đóng, hoặc sửa để phù hợp, và tham gia vào việc khoan thăm dò:
a. Khi quốc
gia đó ấn định trong luật quốc gia của mình một giới hạn trách nhiệm cao hơn
giới hạn nêu tại Ðiều 6; hoặc
b. Khi quốc
gia đó trở thành một thành viên của một công ước quốc tế điều chỉnh hệ thống
trách nhiệm liên quan đến các tàu đó. Trong trường hợp áp dụng tiểu đoạn (a)
Quốc gia Thành viên đó phải thông báo cho người giữ lưu chiểu.
5. Công ước
này không áp dụng cho:
a. Các
phương tiện trượt trên đệm khí;
b. Các cấu
trúc nổi được thiết kế với mục đích thăm dò hoặc khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên dưới đáy biển hoặc trên vùng đất dưới đáy biển.
Ðiều
16. Ký kết, phê chuẩn và gia nhập
1. Công ước
này được mở cho tất cả các Quốc gia ký kết tại Trụ sở chính của Tổ chức tư vấn
Hàng hải Liên Chính phủ (sau đây gọi tắt là "Tổ chức") từ ngày 1
tháng 2 năm 1977 đến ngày 31 tháng 12 năm 1977 và sau đó tiếp tục được mở cho
việc gia nhập.
2. Tất cả
các Quốc gia có thể trở thành thành viên của Công ước này bằng cách:
a. Ký kết
không bảo lưu cho việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt; hoặc
b. Ký kết
tuân thủ việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt theo sau bởi phê chuẩn, chấp
nhận hoặc phê duyệt; hoặc
c. Gia nhập
3. Phê
chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia nhập phải được thực hiện bằng việc nộp văn
kiện chính thức về việc này cho Tổng thư ký của Tổ chức (sau đây gọi là
"Tổng thư ký").
1. Công ước
này có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo một năm sau ngày có 12
quốc gia hoặc là đã ký không bảo lưu cho việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê
duyệt hoặc đã nộp văn kiện về việc phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia
nhập yêu cầu.
2. Ðối với
Quốc gia nộp các văn kiện phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia nhập, hoặc
ký kết không bảo lưu cho việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt đối với Công
ước này sau khi các điều kiện để Công ước này có hiệu lực đã được đáp ứng nhưng
trước ngày công ước có hiệu lực, việc phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia
nhập, hoặc ký kết không bảo lưu cho việc phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt sẽ
có hiệu lực vào ngày Công ước này bắt đầu có hiệu lực hoặc vào ngày đầu tiên
của tháng tiếp theo 90 ngày sau ngày ký kết hoặc nộp văn kiện này nếu đó là một
ngày muộn hơn
3. Ðối với
bất kỳ Quốc gia nào trở thành Thành viên Công ước này vào thời điểm sau đó,
Công ước sẽ có hiệu lực pháp luật vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau khi
hết thời hạn 90 ngày kể từ ngày quốc gia đó nộp tài liệu của mình.
4. Ðối với
các mối quan hệ giữa các Quốc gia đã phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt hoặc
gia nhập Công ước này, Công ước này sẽ thay thế và huỷ bỏ Công ước Quốc tế liên
quan đến Giới hạn Trách nhiệm của Chủ tàu biển, ký tại Brussels ngày 10 tháng
10 năm 1957, và Công ước Quốc tế về Thống nhất các Qui tắc nhất định liên quan
đến Giới hạn Trách nhiệm của Chủ tàu biển, ký tại Brussels ngày 25 tháng 8 năm
1924.
1. Bất kỳ
Quốc gia nào đều có thể, vào thời điểm ký kết, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia
nhập bảo lưu quyền loại trừ việc áp dụng Ðiều 2 đoạn 1 (d) và (e). Không
chấp nhận mọi bảo lưu khác đối với các quy định nội dung của Công ước này.
2. Các bảo
lưu được thực hiện tại thời điểm ký kết phải được xác nhận sau khi phê chuẩn,
chấp nhận hoặc phê duyệt.
3. Bất kỳ
Quốc gia nào đã thực hiện bảo lưu đối với Công ước này có thể rút lại bảo lưu
đó vào bất kỳ thời điểm nào bằng việc gửi thông báo đến Tổng thư ký. Việc rút
lại như vậy sẽ có hiệu lực từ ngày nhận được thông báo đó. Nếu thông báo nêu
rằng việc rút lại một bảo lưu có hiệu lực từ một ngày được xác định trong thông
báo đó, và ngày đó muộn hơn ngày Tổng thư ký nhận được thông báo, việc rút lại
sẽ có hiệu lực kể từ ngày muộn hơn đó.
1. Công ước
này có thể bị một Quốc gia Thành viên bãi bỏ vào bất kỳ thời điểm nào sau một
năm kể từ ngày Công ước có hiệu lực đối với Quốc gia đó.
2. Việc bãi
bỏ sẽ có hiệu lực bằng cách nộp một văn kiện cho Tổng thư ký.
3. Việc bãi
bỏ sẽ có hiệu lực vào ngày đầu của tháng sau khi hết thời hạn một năm kể từ
ngày gửi văn kiện, hoặc sau một thời gian lâu hơn có thể nêu trong văn kiện.
1. Một Hội
nghị để sửa đổi và bổ sung Công ước này có thể được Tổ chức triệu tập.
2. Tổ chức
phải triệu tập một Hội nghị các Quốc gia Thành viên của Công ước này để sửa đổi
hoặc bổ sung Công ước theo yêu cầu của không ít hơn một phần ba các Quốc gia
Thành viên.
3. Sau ngày
có hiệu lực của một sửa đổi đối với Công ước này, mọi văn kiện phê chuẩn, chấp
nhận, phê duyệt hoặc gia nhập được nộp sẽ được coi như áp dụng Công ước đã sửa
đổi, trừ khi một ý định ngược lại được nêu rõ trong văn kiện đó.
Ðiều
21. Sửa đổi các khoản tiền giới hạn và sửa đổi đơn vị tiền tệ pháp định hoặc
đơn vị tiền tệ
1. Mặc dù
có các quy định tại Ðiều 20, một Hội nghị chỉ nhằm mục đích thay đổi các
khoản tiền nêu tại Ðiều 6 và 7 và tại Ðiều 8, đoạn 2, hoặc
một trong hai hoặc cả hai loại Ðơn vị được định nghĩa tại Ðiều 8, đoạn 1
và 2 bằng các loại đơn vị khác phải được Tổ chức triệu tập theo quy định tại
các đoạn 2 và 3 của Ðiều này. Một thay đổi về các khoản tiền chỉ phải thực hiện
do có một thay đổi đáng kể về mặt giá trị thực của chúng.
2. Tổ chức
sẽ triệu tập một hội nghị như vậy theo yêu cầu của không ít hơn một phần tư các
Quốc gia Thành viên.
3. Một
quyết định thay đổi các khoản tiền hoặc thay thế các Ðơn vị bằng các loại đơn
vị khác phải được thực hiện bằng đa số hai phần ba số các Quốc gia Thành viên
có mặt và tham gia bỏ phiếu tại Hội nghị.
4. Bất kỳ
Quốc gia nào nộp văn kiện phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc gia nhập Công
ước sau khi một sửa đổi có hiệu lực sẽ phải áp dụng Công ước được sửa đổi.
1. Công ước
này được Tổng thư ký lưu giữ.
2. Tổng thư
ký phải:
a. Chuyển
các bản sao được xác thực của Công ước này đến tất cả các Quốc gia đã được mời
tham dự Hội nghị về Giới hạn Trách nhiệm đối với các Khiếu kiện Hàng hải và đến
các Quốc gia khác gia nhập Công ước này;
b. Thông
báo cho tất cả các Quốc gia đã ký hoặc gia nhập Công ước này về:
i. Mỗi sự
ký kết mới và mỗi lần nộp văn kiện và bất kỳ một bảo lưu nào đối với công ước
cùng với ngày bảo lưu;
ii. Ngày
Công ước có hiệu lực pháp luật hoặc bất kỳ sửa đổi nào đối với Công ước;
iii. Bất kỳ
sự bãi bỏ Công ước này vào ngày mà việc bãi bỏ có hiệu lực;
iv Mọi sửa
đổi thực hiện theo Ðiều 20 hoặc 21;
v. Mọi
thông tin theo yêu cầu của bất kỳ điều nào của Công ước này.
3. Khi Công
ước có hiệu lực, một bản sao được xác thực của Công ước phải được Tổng thư ký
chuyển cho Ban thư ký Liên Hợp Quốc để đăng ký và công bố theo quy định tại Ðiều
102 Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Công ước
này được lập bằng một bản gốc duy nhất bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Tây
Ban Nha, mỗi bản có giá trị xác thực như nhau.
Lập tại
London ngày 13 tháng 11 năm 1976.
Ðể làm
bằng, các đại diện toàn quyền được uỷ quyền hợp pháp đã ký Công ước này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét