TÒAÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
______________
Số: 233/TANDTC-PC
V/vtrao đổi nghiệp vụ
CỘNG HÒAXÃHỘI CHỦ NGHĨAVIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_________________
HàNội, ngày 01tháng10năm2019
Kính gửi:- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Thời gian vừa qua, trên cơ sở tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩmphán Tòa án nhân dân tối cao đã
có nhiều hướng dẫn về nghiệp vụ[1]; Quá trình thực hiện, Tòa án nhân dân tối cao nhận được đề nghị
giải đáp một số vấn đề liên quan đến các nội dung đã hướng dẫn. Để bảo đảmáp dụng thống nhất pháp
luật trong xét xử, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Về việc ápdụngkhoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội (sau
đây gọi là Nghị quyết số 41) để xử lý hành vi cố ý làmtrái quy định của Nhà nước
về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêmtrọngxảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018, mà sau thời điểmnày mới
bị phát hiện
Theo quy định tại điểmc và điểme khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41 thì:
“c) Tội phạmmới quy địnhtại các Điều217,.., 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224, 230,... củaBộluật Hìnhsự năm2015;...trial quy địnhkhác khôngcólợi chongười
phạmtội thìkhôngápdụngđối với nhữnghànhvi phạmtội xảy
ratrước 0giờ00phút ngày 01tháng01năm2018màsauthời
điểmđó
mới bị phát hiện, đangbị điềutra,
truy tố,
xét xử...; trongtrườnghợpnày, vẫnápdụngquy địnhtương ứngcủacác vănbảnquy phạmphápluật vềhìnhsự cóhiệulực
trước 0giờ00phút ngày 01tháng01 năm2018đểgiải quyết.
e) Đối với... hànhvi cốý làmtrái quy địnhcủaNhànước vềquảnlý kinhtếgây hậuquảnghiêmtrọng quy địnhtại Điều165củaBộluật
Hìnhsự năm1999xảy ratrước
0giờ00phút ngày 01tháng01năm 2018màsauthời điểmđóvụánđangtrongquátrìnhđiềutra, truy
tố, xét
xử thìtiếptục
ápdụngquy địnhcủaBộluật
Hìnhsự năm1999đểxử lý...; nếusauthời điểm0giờ00phút
ngày 01tháng01năm 2018mới bị phát hiệnthìkhôngkhởi tố,
điềutra,
truy
tố, xét xử về... tội cốý
làmtrái
quy địnhcủaNhà nước vềquảnlý kinhtếgây hậuquảnghiêmtrọngquy địnhtại Điều165củaBộluật Hìnhsự năm1999 màápdụngquy địnhcủaBộluật
Hìnhsự năm2015vềcác tội
danhtươngứngđểkhởi tố,
điềutra,
truy tố, xét
xử”.
Như vậy, căn cứ vào các điểmc và e khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41 thì việc xử lý hình sự đối với
hành vi cố ý làmtrái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêmtrọng được thực
hiện như sau:
- Hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 mà sau thời điểmđó mới bị phát hiện, đang bị
điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm1999 để xử lý.
- Hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 đã có quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định
khởi tố bị can, nhưng cơ quan có thẩmquyền quyết định không phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can hoặc quyết định đình chỉ điều tra, nay có căn cứ phục hồi điều tra thì không áp dụng
Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm1999, mà áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự năm
2015 để xử lý[2].
- Hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 mà sau thời điểmđó mới bị phát hiện thì không áp
dụng Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm1999 để xử lý mà áp dụng quy định tương ứng tại các điều
217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224, 230 và các điều khác của Bộ luật Hình sự năm2015 quy định
về các tội phạmcó tính chất cố ý làmtrái để xử lý.
- Hành vi xảy ra từ 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 thì áp dụng các quy định tại các điều 217, 218, 219,
220, 221, 222, 223, 224, 230 và các điều khác của Bộ luật Hình sự năm2015 quy định về các tội phạm
có tính chất cố ý làmtrái để xử lý.
2. Về việc xử lý trườnghợpngười
thực hiện một hoặc nhiều hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành
tội phạmcủa nhiều tội
Tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24-5-2019 hướng dẫn áp dụng Điều 324 của
Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền có hướng dẫn: “Việc truy cứutráchnhiệmhìnhsự
vềtội rửatiềncóthể
được tiếnhànhđồngthời với việc truy cứutráchnhiệmhìnhsự vềtội phạmnguồnvàkhôngloại trừ việc
truy cứutráchnhiệmhìnhsự
tội phạmnguồn”.
Tại khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP ngày 15-8-2019 hướng dẫn áp dụng các điều 214,
215, 216 của Bộ luật Hình sự về nhómtội trong lĩnh vực bảo hiểmcó hướng dẫn: “Người thực hiệnhành
vi làmgiảhồsơbảohiểmxãhội, bảohiểmthất nghiệp, bảohiểmy tế, thẻbảohiểmy tếđểchiếmđoạt tiềnbảohiểmxãhội bảohiểmthất nghiệp, bảohiểmy
tếhoặc gây thiệt
hại, ngoài việc
bị truy
cứu
tráchnhiệmhìnhsự
vềtội phạmtươngứngquy địnhtại các điều214hoặc
215củaBộluật Hìnhsự, người phạmtội cònbị truy cứutráchnhiệmhìnhsự vềtội làmgiảcondấu, tài
liệucủacơquan, tổ
chức; tội
sử dụngcondấuhoặc tài liệugiảcủacơquan, tổchức
quy địnhtại
Điều541củaBộluật
Hìnhsự nếucóđủyếutốcấuthànhtội phạm”.
Tại mục 10 Phần 1 Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13-9-2019 giải đáp vướng mắc đối với trường
hợp người thực hiện hành vi làmgiả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếmđoạt tài
sản, Hội đồng Thẩmphán Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp: “Hànhvi làmgiảgiấy tờ,
tài liệucủacơ
quan, tổchức đểlừađảochiếmđoạt tài sảnđãxâmphạmvào02kháchthểkhác nhauđược Bộluật hìnhsự bảovệ(quy địnhtại Điều174vàĐiều351củaBộluật Hìnhsự), nênnếuhànhvi đócóđủcác
yếutốcấuthànhtội phạmthìbị xử lý hìnhsự vềcảtội lừađảochiếmđoạt tài sản(Điều174) vàtội làmgiảcondấu, tài liệucủacơquan,
tổchức; tội sử dụngcondấuhoặc tài liệugiảcủacơquan,
tổ chức (Điều341)”.
Tuy nhiên, sau khi các hướng dẫn này được ban hành vẫn có ý kiến, nhận thức không thống nhất. Cụ
thể:
- Có ý kiến cho rằng trong các trường hợp nêu ở trên người phạmtội chỉ thực hiện 01 hành vi nên chỉ
bị xử lý về 01 tội theo quy định của Bộ luật Hình sự, nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm.
- Ý kiến khác lại cho rằng đây là chuỗi hành vi được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt
thời gian; hành vi này là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi kia nên phải xử lý về nhiều tội, nếu mỗi
hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
Về nội dung này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
- Trường
hợp người thực hiện 01 hành vi nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội phạmthì bị
truy cứu trách nhiệmhình sự về tội nặng hơn.
Ví dụ: Nguyễn Văn A và đồng phạmdùng xăng đốt cháy một số xe ô tô đang để trong sân của Công ty
B, với mục đích nhằmgây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng. Hành vi của A và đồng phạmvừa
có dấu hiệu cấu thành tội khủng bố quy định tại Điều 299 của Bộ luật Hình sự, vừa có dấu hiệu cấu
thành tội hủy hoại tài sản quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp này, A và đồng
phạmchỉ thực hiện 01 hành vi (đốt cháy một số xe ô tô), nên nếu hành vi này có đủ yếu tố cấu thành tội
phạmthì A và đồng phạmcũng chỉ bị truy cứu trách nhiệmhình sự về tội nặng hơn là tội khủng bố quy
định tại Điều 299 của Bộ luật Hình sự.
- Trường
hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi hành vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời
gian, trial đó, hành vi trước là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi sau thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm.
Ví dụ 1: Do làmăn thua lỗ, không có tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân, Nguyễn Văn A đã làmgiả giấy
chứng nhận quyền sử dụng lô đất có diện tích 100m2, sau đó A lừa bán mảnh đất này cho bà Trần Thị
C để chiếmđoạt số tiền 5.000.000.000 đồng. Hành vi làmgiả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của A
có dấu hiệu cấu thành tội làmgiả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài
liệu giả của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự, còn hành vi lừa bán mảnh đất
(theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do A làmgiả) để chiếmđoạt 5.000.000.000 đồng của bà Trần
Thị C có dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo đảo chiếmđoạt tài sản quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình
sự. Do đó, A có thể bị truy cứu trách nhiệmhình sự về 02 tội, gồmtội làmgiả con dấu, tài liệu của cơ
quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 và tội
lừa đảo đảo chiếmđoạt tài sản quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự, nếu mỗi hành vi đều có đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm.
Ví dụ 2: Do mâu thuẫn cá nhân, Nguyễn Văn A dùng khẩu súng K54 bắn vào đầu anh Trần Văn B, làm
anh B tử vong. Hành vi sử dụng trái phép khẩu súng K54 của A có dấu hiệu cấu thành tội sử dụng trái
phép vũ khí quân dụng quy định tại Điều 304 của Bộ luật Hình sự, còn hành vi bắn làmanh B tử vong có
dấu hiệu cấu thành tội giết người quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự. Do đó, A có thể bị truy cứu
trách nhiệmhình sự về 02 tội, gồmtội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng quy định tại Điều 304 và tội
giết người quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự, nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành
tội phạm.
Ví dụ 3: Nguyễn Văn A là Tổng Giámđốc Tổng Công ty B đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếmđoạt
của Tổng Công ty B số tiền 50.000.000.000 đồng, sau đó A dùng tiền này đầu tư kinh doanh bất động
sản. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếmđoạt số tiền 50.000.000.000 đồng của A có dấu hiệu
cấu thành tội thamô tài sản quy định tại Điều 353 của Bộ luật Hình sự, còn hành động dùng tiền thamô
được đầu tư kinh doanh bất động sản có dấu hiệu cấu thành tội rửa tiền quy định tại Điều 324 của Bộ
luật Hình sự. Do đó, A có thể bị truy cứu trách nhiệmhình sự về 02 tội, gồmtội thamô tài sản quy định
tại Điều 353 và tội rửa tiền quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự, nếu mỗi hành vi đều có đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm.
Ví dụ 4: Nguyễn Văn A lén lút vào rừng chặt cây sau đó đưa ra khỏi rừng bán kiếmlời thì có thể bị xử lý
về 02 tội là tội hủy hoại rừng (quy định tại Điều 243 của Bộ luật Hình sự) và tội trộmcắp tài sản (quy
định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự), nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Bởi
vì, hành vi cưa, chặt, đốt, phá, sử dụng hóa chất làmcây rừng chết... đã có dấu hiệu cấu thành tội hủy
hoại rừng quy định tại Điều 243 của Bộ luật Hình sự, không phụ thuộc vào việc A đã lấy được tài sản gì
từ rừng hay chưa. Hành vi lén lút lấy các sản phẩmtừ rừng (như gỗ, cây, con, tài sản khác) thuộc sở
hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có dấu hiệu cấu thành tội trộmcắp tài sản quy định tại Điều
173 của Bộ luật Hình sự.
3. Về việc xử lý tài sản bị chiếmđoạt trongtrườnghợptại phiên tòa dù đã được
Hội đồngxét xử
giải thích quyền được đòi lại tài sản bị chiếmđoạt, yêu cầu bồi thườngnhưngbị hại có ý kiến
khôngyêu cầu bị cáo trả lại tài sản đó và cũngkhôngyêu cầu bị cáo phải bồi thường
Theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạmthì:
“1. Việc tịchthusungvàongânsáchnhànước hoặc tịchthutiêuhủy được ápdụngđối với:
a) Côngcụ, phươngtiệndùngvàoviệc phạmtội;
b) Vật hoặc tiềndophạmtội hoặc domuabán, đổi chác nhữngthứ ấy màcó; khoảnthulợi bất chính từ việc phạmtội;
c) Vật thuộc loại Nhànước cấmlưuhành.
2. Đối với vật, tiềnbị người phạmtội chiếmđoạt hoặc sử dụngtrái phép, thìkhôngtịchthumàtrảlại chochủsởhữuhoặc người quảnlý hợppháp.”
Theo quy định trên thì vật, tiền bị người phạmtội chiếmđoạt hoặc sử dụng trái phép thì không thuộc
trường hợp tịch thu sung vào ngân sách nhà nước mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 194 của Bộ luật Dân sự thì: “Chủsởhữucóquyềnbán, traođổi, tặng
cho, chovay, đểthừakế, từ bỏquyềnsởhữu, tiêudùng, tiêuhủy hoặc thực hiệncác hìnhthức định đoạt khác phùhợpvới quy địnhcủaphápluật đối với tài sản”.
Như vậy, trong trường hợp tại phiên tòa dù đã được Hội đồng xét xử giải thích quyền được đòi lại tài
sản bị chiếmđoạt, yêu cầu bồi thường nhưng bị hại có ý kiến không yêu cầu bị cáo phải trả lại tài sản
đó và cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thì Tòa án không tuyên tịch thu tài sản đó mà ghi nhận
ý kiến của bị hại trong bản án.
Trên đây là nội dung giải đáp một số vướng mắc có liên quan đến các vấn đề đã được hướng dẫn, giải
đáp trong thời gian qua của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án nghiên cứu, vận dụng giải quyết các
vụ việc cụ thể thuộc thẩmquyền./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Chánh án (để báo cáo);
- Các Phó Chánh án TANDTC;
- Các Thẩmphán TANDTC;
- Lưu: VT, PC&QLKH.
KT. CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
[1] Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24-5-2019 hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự
về tội rửa tiền, Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP ngày 15-8-2019 hướng dẫn áp dụng các điều 214, 215,
216 của Bộ luật Hình sự về nhómtội trong lĩnh vực bảo hiểmvà Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13-
9-2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.
[2] Nghiên cứu thêmCông văn số 1738/UBTP14 ngày 31-01-2019 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội trả
lời về việc áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét