HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
GIỮA CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ HOÀNG GIA CAMPUCHIA NGÀY 24 THÁNG 3 NĂM
1998
Chính phủ Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia, với lòng mong muốn phát triển quan
hệ thương mại giữa hai nước và đẩy mạnh mối quan hệ hữu nghị giữa chính phủ và
nhân dân hai nước trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, đã thoả thuận như sau:
Điều 1
Chính phủ hai nước tiếp tục nỗ lực
hợp tác để phát triển và tăng cường các mối quan hệ thương mại giữa hai nước.
Chính phủ mỗi nước sẽ nghiên cứu và xem xét những đề xuất mà phía Chính phủ bên
kia đưa ra, và sẽ thi hành những quyết định đã được hai Chính phủ nhất trí nhằm
thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ kinh tế thương mại hai nước.
Điều 2
Mỗi Chính phủ sẽ cho phép xuất khẩu
những hàng hoá có thể xuất khẩu của nước mình sang nước bên kia và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu những mặt hàng có thể nhập của nước bên kia
và nếu áp dụng quy chế cấp giấy phép xuất nhập khẩu thì sẽ tạo điều kiện thuận
lợi trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu theo đúng luật pháp, các quy định
hiện hành của mỗi nước và thông lệ quốc tế.
Điều 3
Chính phủ hai nước dành cho nhau quy
chế tối huệ quốc về thuế quan, các chi phí và thủ tục hải quan liên quan đến
việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá từ nước này sang nước kia.
Tuy nhiên, quy định này sẽ không
được áp dụng cho những lợi thế, miễn trừ, ưu đãi mà hai Chính phủ dành hoặc sẽ
dành cho những nước tham gia với bất kỳ bên nào trong một liên minh thuế quan,
hay khu vực mậu dịch tự do, hoặc trong khuôn khổ của một hiệp hội khu vực về
hợp tác kinh tế hiện có hoặc có thể sẽ được hình thành trong tương lai.
Điều 4
Chính phủ mỗi bên sẽ dành cho tầu
buôn của nước bên kia chế độ nước ưu đãi nhất khi vào cảng, thả neo và đậu tại
cảng quốc tế của nước mình theo luật pháp và các quy định của mỗi nước dành cho
tầu của bất kỳ nước thứ ba nào.
Điều 5
Mọi khoản thanh toán có liên quan
đến hàng hoá được mua bán giữa hai nước sẽ được thực hiện bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi, được Chính phủ hai nước sẽ chấp nhận phù hợp với luật pháp và các
quy chế quản lý ngoại hối hiện hành của mỗi nước.
Điều 6
Chính phủ hai nước sẽ tham khảo ý
kiến của nhau khi cần thiết, để đề xuất những biện pháp nhằm mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại nói chung, hoặc để giải quyết những vấn đề có thể phát sinh
liên quan tới việc thực hiện các điều khoản của Hiệp định này.
Điều 7
Sau khi Hiệp định này hết hiệu lực,
những điều khoản của Hiệp định vẫn sẽ được áp dụng đối với những hợp đồng được
ký kết trong khuôn khổ Hiệp định nhưng chưa thực hiện xong trước ngày hết hiệu
lực của Hiệp định.
Điều 8
Phù hợp với các luật lệ, quy chế và
quy định hiện hành của mỗi nước, Chính phủ mỗi bên sẽ miễn trừ thuế quan hoặc
bất cứ các loại thuế khác cho những hàng hoá dưới đây xuất xứ từ nước phía bên
kia:
a) Hàng tạm nhập phục vụ cho hội chợ
và triển lãm mà không nhằm mục đích tiêu thụ và phải được đưa trở lại nước xuất
xứ trong thời hạn quy định bởi các quy chế và quy định liên quan của mỗi bên.
b) Hàng mẫu chỉ đủ để làm mẫu và
không có giá trị thương mại.
Điều 9
Những điều khoản của Hiệp định này
sẽ không hạn chế quyền của mỗi Chính phủ thông qua hoặc thực hiện các biện pháp
nhằm bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu của mình hoặc bảo vệ y tế công cộng,
hoặc bảo vệ môi trường, cây cối và súc vật khỏi bị sâu bệnh.
Điều 10
Hiệp định này có thể được sửa đổi,
bổ sung hoặc chấm dứt với sự thoả thuận bằng văn bản của hai Chính phủ. Bất kỳ
việc sửa đổi, bổ sung nào hoặc chấm dứt Hiệp định sẽ không làm tổn hại quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ Hiệp định và theo Hiệp định trước ngày có hiệu lực của
việc sửa đổi, bổ sung và chấm dứt Hiệp định.
Điều 11
Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể từ
ngày ký và có hiệu lực trong thời gian 01 năm.
Hiệp định này sẽ được mặc nhiên gia
hạn từng năm một, trừ phi một trong hai Chính phủ thông báo cho Chính phủ bên
kia bàng văn bản trước khi Hiệp định hết hiệu lực ba tháng về ý định của mình
muốn chấm dứt Hiệp định.
Để làm chứng, những người ký tên
dưới đây được Chính phủ mỗi bên uỷ quyền đã ký vào bản Hiệp định này.
Làm tại Hà Nội ngày 24/3/1998 thành
2 bản bằng tiếng Việt, Khmer và tiếng Anh; các bản có giá trị pháp lý ngang
nhau. Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, bản tiếng Anh được coi là
quyết định.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét