HIỆP ĐỊNH
TƯƠNG TRỢ
TƯ PHÁP VỀ CÁC VẤN ĐỀ DÂN SỰ, GIA ĐÌNH VÀ HÌNH SỰ GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HÒA BA LAN
Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng thống nước Cộng hòa Ba Lan;
Khẳng định
lòng mong muốn thực hiện tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và
hình sự, tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai nước;
Đã khẳng
định ký kết Hiệp định này, và, nhằm mục đích đó, đã cử những người được ủy
quyền của mình:
Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử: Bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Đình Lộc;
Tổng thống
nước Cộng hòa Ba Lan cử: Bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Cộng hòa Ba Lan JAN
PIATKOWSKI;
Những người
được ủy quyền, sau khi trao đổi giấy ủy quyền hợp pháp và hợp thức, đã thỏa
thuận những điều sau đây:
1. Công dân
nước ký kết này được hưởng trên lãnh thổ nước ký kết kia sự bảo hộ pháp lý về
các quyền nhân thân và tài sản mà nước ký kết kia dành cho công dân của họ.
2. Công dân
nước ký kết này được liên hệ tự do và không hạn chế với các tòa án và các cơ
quan khác của nước ký kết kia có thẩm quyền về dân sự, gia đình và hình sự,
theo quy định của pháp luật nước ký kết kia. Trước các tổ chức này, họ có thể
nêu lên những lợi ích và quyền của mình, đề xuất các yêu cầu và đưa đơn kiện
theo cùng những điều kiện dành cho công dân của nước ký kết kia.
3. Khái
niệm “những vấn đề dân sự” nói trong Hiệp định này bao gồm cả những vấn đề phát
sinh từ hợp đồng lao động.
4. Quy định ở các khoản 1 và 2 cũng áp dụng đối với các pháp nhân có trụ
sở trên lãnh thổ nước ký kết kia và được thành lập theo đúng pháp luật của nước
đó.
1. Các tài
liệu và giấy tờ chuyển giao trong trường hợp thi hành Hiệp định này được viết
bằng tiếng của nước ký kết yêu cầu và kèm theo bản dịch ra tiếng nước ký kết
được yêu cầu hoặc ra tiếng Nga hay tiếng Pháp, trừ khi Hiệp định này quy định
khác.
2. Nếu cần
thiết, bản dịch đúng có thể do cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu, một người
phiên dịch có tuyên thệ, đại diện ngoại giao hoặc viên chức cơ quan lãnh sự của
một trong hai nước ký kết làm
Các nước ký
kết liên hệ với nhau thông qua: Về phía Việt Nam là Bộ Tư Pháp hoặc Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về phía Ba Lan là
Bộ Tư pháp nước Cộng hòa Ba Lan, trừ khi Hiệp định này quy định khác.
Điều
4. Thông tin về pháp luật
Bộ Tư pháp
các nước ký kết, theo yêu cầu, sẽ chuyển cho nhau các văn bản pháp luật cũng
như các thông tin về pháp luật đang có hoặc đã có hiệu lực thi hành của nước
mình và các thông tin về tư pháp.
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ CÁC VẤN ĐỀ DÂN SỰ, GIA ĐÌNH VÀ HÌNH SỰ
Điều
5. Thực hiện tương trợ tư pháp và phạm vi tương trợ tư pháp
1. Các nước
ký kết thực hiện tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự.
2. Tương
trợ tư pháp bao gồm các hành vi riêng biệt trong khuôn khổ tố tụng dân sự và tố
tụng hình sự, đặc biệt là tống đạt giấy tờ, khám nhà, thu giữ và chuyển giao
tang vật chứng, tiến hành giám định, lấy lời khai của người bị tình nghi, bị
can, người làm chứng và của giám định viên, cũng như xem xét về mặt tư pháp.
Điều
6. Cách thức thực hiện tương trợ tư pháp
1. Tòa án
và các cơ quan khác của các nước ký kết có thẩm quyền về dân sự, gia đình và
hình sự gửi các giấy ủy thác tư pháp thông tin qua các cơ quan nói ở điều 3
Hiệp định này.
2. Các giầy
tờ, tài liệu được lập ra khi thực hiện ủy thác cũng được chuyển theo cách thức
trên đây.
3. Cách
thức liên hệ quy định trên đây không hạn chế quyền của một nước ký kết được
trực tiếp tống đạt giấy tờ cho công dân của họ đang ở trên lãnh thổ nước ký kết
kia hoặc lấy lời khai của những người này thông qua có quan đại diện ngoại giao
hoặc cơ quan lãnh sự. Trong những trường hợp này, không được áp dụng các biện
pháp cưỡng chế. Nếu có xung đột pháp luật về quốc tịch của người cần được tống
đạt giấy tờ, cần lấy lời khai thì quốc tịch của người đó sẽ được xác định theo
pháp luật của nước nơi thực hiện tống đạt giấy tờ hoặc lấy lời khai.
Điều
7. Hình thức ủy thác tư pháp
1. Văn bản
ủy thác tư pháp phải ghi những điểm sau đây:
a. Tên cơ
quan yêu cầu và tên cơ quan được yêu cầu;
b. Mục đích
việc ủy thác;
c. Họ tên
của các đương sự, những người bị tình nghi, bị cáo hoặc những người bị kết án;
nơi thường trú hay tạm trú; quốc tịch và nghề nghiệp của họ; trong các việc
hình sự; nếu có thể được, thì ghi nơi và ngày sinh của những người bị tình
nghi, bị cáo hoặc những người bị kết án, và họ tên của cha mẹ họ;
d. Họ tên
và địa chỉ của những người đại diện;
e. Nội dung
ủy thác và những tài liệu cần thiết cho việc thực hiện ủy thác; và trong các
việc hình sự thì mô tả vụ án và nêu tội danh.
2. Văn bản
ủy thác và giấy tờ gửi kèm theo phải được cơ quan yêu cầu ký và đóng dấu chính
thức.
Điều
8. Thực hiện ủy thác tư pháp
1. Cơ quan
được yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp theo pháp luật của nước mình. Tuy nhiên,
theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu có thể áp dụng những quy
định về tố tụng của nước yêu cầu, nếu những quy định này không trái với pháp
luật tố tụng của nước mình.
2. Nếu
không có thẩm quyền để thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu sẽ chủ
động chuyển ủy thác cho cơ quan có thẩm quyền, đồng thời thông báo cho cơ quan
yêu cầu biết.
3. Cơ quan
được yêu cầu, theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, thông báo cho cơ quan này về
ngày và nơi thực hiện ủy thác tư pháp.
4. Nếu
không có địa chỉ chính xác của người nêu trong văn bản ủy thác tư pháp hoặc
phát hiện có sự nhầm lẫn về địa chỉ, cơ quan được yêu cầu thực hiện những biện
pháp cần thiết nhằm xác định địa chỉ đúng, cơ quan được yêu cầu sẽ thông báo
cho cơ quan yêu cầu biết.
5. Sau khi
thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu gửi trả hồ sơ cho có quan yêu
cầu hoặc thông báo cho cơ quan này biết về những trở ngại nảy sinh trong quá
trình thực hiện ủy thác tư pháp.
Cơ quan
được yêu cầu, căn cứ theo pháp luật của nước mình, thực hiện việc tống đạt, nếu
giấy tờ cần tống đạt được biết bằng tiếng của nước mình hoặc có kèm theo bản
dịch được chứng thực ra tiếng của nước mình.
Trong những
trường hợp khác, cơ quan được yêu cầu tống đạt giấy tờ khi người được tống đạt
tự nguyện nhận.
Điều
10. Xác nhận việc tống đạt
Việc tống
đạt giấy tờ được xác nhận theo những quy định hiện hành về tống đạt giấy tờ của
nước được yêu cầu. Trong giấy xác nhận việc tống đạt phải ghi rõ thời gian và
địa điểm tống đạt.
Điều
11. Chi phí về tương trợ tư pháp.
1. Nước ký
kết được yêu cầu chịu các chi phí về thực hiện ủy thác tư pháp, kể cả chi phí
tiến hành giám định, nảy sinh trên lãnh thổ nước mình.
2. Cơ quan
được yêu cầu thông báo cho cơ quan yêu cầu biết về tính chất và tổng số chi
phí. Nếu cơ quan yêu cầu thu lại được số chi phí này từ người có nghĩa vụ phải
trả, thì số chi phí thu lại được thuộc về nước yêu cầu.
Điều
12. Từ chối tương trợ tư pháp
Nếu việc
thực hiện ủy thác tư pháp có khả năng xâm phạm chủ quyền, an ninh hoặc trật tự
công cộng của nước kết kết được yêu cầu thì nước này có thể từ chối việc thực
hiện ủy thác đó.
Điều
13. Bảo hộ người làm chứng và giám định viên
1. Nếu
trong quá trình tiến hành tố tụng trước tòa án hoặc cơ quan khác của nước ký
kết này mà cần đến sự có mặt của người làm chứng hoặc của giám định viên đang
cư trú trên lãnh thổ của nước ký kết kia, thì tòa án hoặc cơ quan khác của nước
ký kết này có thể yêu cầu tòa án hoặc cơ quan khác của nước ký kết kia tống đạt
giấy triệu tập phiên tòa cho họ.
2. Trong
trường hợp nói ở khoản 1, giấy triệu tập phiên tòa không được kèm theo lời đe
dọa, biện pháp phạt tiền hoặc biện pháp cưỡng chế khác vì lý do vắng mặt.
3. Nước ký
kết yêu cầu hoàn lại các chi phí về đi lại và lưu trú, cũng như phải bồi thường
khoản tiền lương không được lĩnh cho người làm chứng và trả tiền thù lao giám
định cho giám định viên.
4. Người
làm chứng được giám định viên đến trình diện trước cơ quan yêu cầu theo giấy
triệu tập mà cơ quan được yêu cầu tống đạt cho họ, thì không kể người đó mang
quốc tịch nước nào, đều không thể bị bắt, bị truy cứu trách nhiệm, bị buộc thi
hành hình phạt về một tội đã phạm trước khi qua biên giới nước yêu cầu.
5. Người
làm chứng hoặc giám định viên không được hưởng sự bảo hộ nói ở khoản 4, nếu họ không rời khỏi nước yêu cầu trong
thời hạn 15 ngày, kể từ khi được thông báo là sự có mặt của họ không cần thiết
nữa. Không tính vào thời hạn này thời gian mà họ không thể rời khỏi nước yêu
cầu không phải do lỗi của họ.
Các nước ký
kết, theo yêu cầu của nhau, gửi cho nhau bản sao các giấy chứng nhận về hộ tịch
cũng như bản sao các quyết định về hộ tịch, nếu các giấy tờ này liên quan đến
công dân và nước yêu cầu. Các giấy tờ này không cần phải được hợp pháp hóa,
không phải dịch và được gửi cho nước yêu cầu mà không được thanh toán tiền gửi.
Điều
15. Giá trị chứng cứ của giấy tờ.
1. Các giấy
tờ và bản sao các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền lập ra hoặc chứng thực ở
nước ký kết này và được đóng dấu chính thức sẽ có giá trị ở nước ký kết kia mà
không cần phải hợp pháp hóa.
2. Các giấy
tờ chính thức được lập ra ở nước ký kết này có giá trị chứng cứ như các giấy tờ
chính thức được lập ra ở nước ký kết kia.
MIỄN CƯỢC ÁN PHÍ VÀ MIỄN ÁN PHÍ
Công dân
nước ký kết này thường trú hoặc tạm trú ở một trong hai nước ký kết, khi tham
gia tố tụng trước tòa án của nước ký kết kia, thì không phải chịu cược án phí
chỉ vì lý do họ là người nước ngoài hoặc vì họ không thường trú hoặc tạm trú ở
nơi họ tham gia tố tụng.
1. Công dân
nước ký kết này được miễn án phí trên lãnh thổ nước ký kết kia và được hưởng sự
giúp đỡ tư pháp không mất tiền theo cùng những điều kiện và mức độ như đối với
công dân nước ký kết kia.
2. Việc
miễn án phí được áp dụng đối với mọi hành vi tố tụng, kể cả các hành vi thi
hành án.
3. Công dân
của nước ký kết này đã được miễn án phí theo pháp luật của nước mình sẽ được
miễn án phí về những hành vi tố tụng liên quan đến cùng vụ án được tiến hành
trên lãnh thổ nước ký kết kia.
1. Giấy
chứng nhận về tình trạng nhân thân, gia đình, về thu nhập và tài sản của người
xin được giúp đỡ tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết nơi người đó
thường trú hoặc tạm trú cấp.
2. Trong
trường hợp đương sự không thường trú hoặc tạm trú ở nước ký kết nào thì cơ quan
đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của nước ký kết mà đương sự là công
dân có thể cấp giấy những nhận về việc đó.
3. Tòa án
có thẩm quyền xét đơn xin giúp đỡ tư pháp có thể yêu cầu cơ quan đã cấp giấy
chứng nhận cung cấp thêm những giấy tờ cần thiết khác theo cách thức quy định ở
Điều 3 Hiệp định này.
Điều
19. Cách thức gửi đơn xin miễn án phí
Công dân
của nước ký kết này có thể yêu cầu tòa án có thẩm quyền nơi cư trú, hoặc tạm
trú của mình ghi nhận đề nghị tòa án của nước ký kết kia cho miễn án phí hoặc
cho hưởng sự giúp đỡ tư pháp không mất tiền. Tòa án đã ghi nhận điều đó chuyển
biên bản cho Tòa án có thẩm quyền và của nước ký kết kia kèm theo giấy chứng
nhận nói ở Điều 18 Hiệp định này và các giấy tờ khác mà đương sự đã nộp theo
cách thức quy định ở Điều 3 Hiệp định này.
Điều
20. Thời hạn nộp án, lệ phí.
1. Khi tòa
án có thẩm quyền của một nước ký kết đòi hỏi án phí hoặc lệ phí thời hạn để nộp
các khoản này không được dưới 2 tháng.
2. Khi tòa
án có thẩm quyền của nước ký kết này ấn định thời hạn để công dân thường trú
trên lãnh thổ nước ký kết kia thực hiện một hành vi tố tụng nhất định, thì thời
hạn được tính bắt đầu từ ngày ghi trên dấu bưu điện của nước ký kết yêu cầu.
Điều
21. Năng lực pháp lý và năng lực hành vi
Năng lực
pháp lý và năng lực hành vi của một người được xác định theo pháp luật của nước
ký kết mà người đó là công dân. Đối với việc ký kết các giao kèo nhỏ phục vụ
cho sinh hoạt hàng ngày, thì năng lực hành vi của một người được xác định theo
pháp luật của nước ký kết nơi ký kết giao kèo.
2. Năng lực
pháp lý và năng lực hành vi của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước
ký kết nơi pháp nhân đặt trụ sở.
1. Cơ quan
có thẩm quyền tuyên bố một người chết và xác nhận sự kiện chết là cơ quan của
nước ký kết mà theo những tin tức cuối cùng người chết hoặc mất tích là công
dân vào lúc còn sống.
2. Cơ quan
của nước ký kết này có thể tuyên bố một người chết hoặc xác nhận sự kiện chết
đối với công dân nước ký kết kia trong những trường hợp sau đây:
a) Có đơn
yêu cầu của người muốn đòi quyền thừa kế đối với động sản hoặc bất động sản của
người mất tích hoặc chết để lại trên lãnh thổ của nước ký kết này, hoặc
b) Có đơn
của vợ hoặc chồng của người mất tích hoặc chết, trong trường hợp người đưa đơn
thường trú ở nước ký kết này vào thời điểm đưa đơn.
3. Trong
những trường hợp quy định ở các khoản 1 và 2, pháp luật áp dụng là pháp luật
của nước ký kết mà theo những tin tức cuối cùng người chết là công dân vào lúc
còn sống.
1. Hình
thức kết hôn được xác định theo pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết
hôn.
2. Về điều
kiện kết hôn, mỗi bên đương sự phải tuân theo pháp luật của nước ký kết mà
người đó là công dân.
Điều
24. Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng
1. Các
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng cũng như các quan hệ tài sản giữa vợ chồng phải
tuân theo pháp luật của nước ký kết mà họ là công dân.
2. Nếu vợ
chồng không cùng quốc tịch, pháp luật áp dụng là pháp luật của nước ký kết nơi
họ đang thường trú hoặc đã cùng thường trú lần cuối cùng. Nếu họ không hề có
nơi thường trú chung thì áp dụng pháp luật của nước ký kết có tòa án giải quyết
vụ kiện.
Điều
25. Xác định có hôn nhân hay không có hôn nhân và công nhận hôn nhân vô hiệu.
1. Việc xác
định có hôn nhân hay không có hôn nhân cũng như việc công nhận hôn nhân vô hiệu
do không tuân theo các điều kiện về hình thức kết hôn phải căn cứ vào pháp luật
của nước ký kết, nơi tiến hành kết hôn.
2. Việc xác
định có hôn nhân hay không có hôn nhân cũng như việc công nhận hôn nhân vô hiệu
do không tuân theo các điều kiện về nội dung kết hôn phải căn cứ vào pháp luật
nói ở Điều 23, khoản 2 của Hiệp định này.
1. Việc ly
hôn phải tuân theo pháp luật của nước ký kết mà vợ chồng là công dân vào thời
điểm đưa đơn ly hôn.
2. Nếu vào
thời điểm đưa đơn ly hôn, vợ chồng không phải là công dân của cùng một nước ký
kết thì pháp luật phải tuân theo là pháp luật của nước ký kết nơi họ đang cùng
thường trú hoặc đã cùng thường trú lần cuối cùng. Nếu họ không hề có nơi thường
trú chung trên lãnh thổ của một nước ký kết thì theo pháp luật của nước ký kết
có tòa án giải quyết vụ ly hôn.
Điều
27. Thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực hôn nhân
1. Trong
trường hợp vợ chồng đều là công dân của một nước ký kết, Tòa án của nước ký kết
đó có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện nói ở Điều 24 khoản 1, Điều 25 và Điều
26 khoản 1 Hiệp định này. Tuy nhiên, nếu vợ chồng cùng thường trú ở nước ký kết
kia thì Tòa án của nước ký kết kia cũng có thẩm quyền đó.
2. Trong
trường hợp vợ chồng không cùng quốc tịch của một nước ký kết, Tòa án của nước
ký kết nơi vợ chồng đang cùng thường trú hoặc đã cùng thường trú lần cuối cùng
có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện nói ở Điều 24 khoản 2, Điều 25 và Điều 26,
khoản 2 Hiệp định này. Nếu vợ chồng không hề có nơi thường trú chung trên lãnh
thổ của nước ký kết này, thì Tòa án của cả hai nước đều có thẩm quyền đó.
QUAN
HỆ PHÁP LÝ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
Các vụ kiện
về xác định hoặc khước từ quan hệ cha con, quan hệ mẹ con được giải quyết theo
pháp luật của nước ký kết mà người con là công dân khi sinh ra. Quan hệ pháp lý
giữa cha mẹ và con tuân theo pháp luật của nước ký kết mà người con là công
dân.
Tòa án của
nước ký kết nơi người con thường trú có thẩm quyền giải quyết các quan hệ pháp
lý nói ở Điều 28 Hiệp định này.
1. Việc
nhận con nuôi phải tuân theo pháp luật của nước ký kết mà người nhận con nuôi
là công dân.
2. Nếu vợ chồng, người là công dân nước ký kết này, người là công dân
nước ký kết kia, cùng nhận nuôi đứa trẻ thì việc nhận nuôi này phải tuân theo
những điều kiện của pháp luật hiện hành ở nước ký kết này hoặc ở nước ký kết
kia.
3. Trong
trường hợp đứa trẻ được nuôi là công dân nước ký kết này, người nhận nuôi là
công dân nước ký kết kia, nếu pháp luật của nước ký kết mà đứa trẻ là công dân
đòi hỏi, thì việc nhận nuôi này phải được sự thỏa thuận của đứa trẻ, của người
đại diện hợp pháp của đứa trẻ hoặc của cơ quan chính thức có thẩm quyền của
nước ký kết mà đứa trẻ là công dân.
Các cơ quan
của nước ký kết mà người được nuôi là công dân có thẩm quyền giải quyết các vấn
đề về nhận nuôi con nuôi.
Các quy
định ở Điều 30 và Điều 31 Hiệp định này cũng áp dụng đối với việc chấm dứt nuôi
con nuôi.
Điều
33. Công nhận năng lực hành vi hạn chế
Về công
nhận năng lực hành vi hạn chế, pháp luật áp dụng và Tòa án có thẩm quyền là
pháp luật và Tòa án của nước ký kết mà người có năng lực hành vi hạn chế là
công dân.
1. Pháp
luật áp dụng và cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vấn đề đỡ đầu và trợ tá là
pháp luật và cơ quan của nước ký kết mà người được đỡ đầu hoặc được trợ tá là
công dân, trừ khi Hiệp định này quy định khác.
2. Quan hệ
pháp lý giữa một bên là người đỡ đầu hoặc trợ tá và một bên là người được đỡ
đầu hoặc được trợ tá được xác định theo pháp luật của nước ký kết có cơ quan đã
chỉ định người đỡ đầu hoặc trợ tá.
3. Nghĩa vụ
nhận làm người đỡ đầu hoặc trợ tá được xác định theo pháp luật của nước ký kết
mà người có khả năng được chỉ định làm người đỡ đầu hoặc trợ tá là công dân.
4. Công dân
của nước ký kết này có thể được chỉ định làm người đỡ đầu hoặc trợ tá cho công
dân nước ký kết kia, nếu người đó cư trú trên lãnh thổ nước ký kết nơi phải
thực hiện việc đỡ đầu hoặc trợ tá và nếu việc chỉ định người đó là thích hợp
nhất đối với quyền lợi của người được đỡ đầu hoặc được trợ tá.
1. Nếu thấy
cần thiết phải tiến hành những biện pháp về đỡ đầu hoặc trợ tá để bảo vệ quyền
lợi của công dân nước ký kết này thường trú hoặc tạm trú ở nước ký kết kia hoặc
có tài sản ở nước ký kết kia, thì cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết kia sẽ
thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết có công dân đó biết.
2. Trong
trường hợp khẩn cấp, cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết kia quyết định những
biện pháp cần thiết tạm thời với điều kiện là thông báo ngay cho cơ quan có
thẩm quyền của nước ký kết có công dân nói trên biết. Những biện pháp đó có
hiệu lực cho đến khi cơ quan được thông báo ra quyết định khác
1. Cơ quan
có thẩm quyền của nước ký kết này có công dân thường trú hoặc tạm trú ở nước ký
kết kia hoặc có tài sản ở nước ký kết kia, có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
của nước ký kết kia đặt đỡ đầu hoặc trợ tá cho công dân đó. Việc ủy nhiệm này
có hiệu lực từ khi cơ quan được yêu cầu ra quyết định đặt đỡ đầu hoặc trợ tá và
thông báo cho cơ quan yêu cầu biết.
2. Cơ quan
được yêu cầu đặt đỡ đầu hoặc trợ tá theo khoản 1 sẽ áp dụng pháp luật của nước
mình. Nhưng đối với việc xác định năng lực pháp lý hoặc năng lực hành vi của
người được đỡ đầu hoặc trợ tá, thì phải áp dụng pháp luật của nước ký kết mà
người được đỡ đầu hoặc trợ tá là công dân. Cơ quan này không có quyền quyết
định những vấn đề liên quan đến hộ tịch của người được đỡ đầu hoặc trợ tá, trừ
việc cho phép kết hôn theo quy định của pháp luật nước ký kết mà người được đỡ
đầu hoặc trợ tá là công dân.
1. Hình
thức giao kèo được xác định theo pháp luật áp dụng đối với chính giao kèo đó.
Tuy nhiên, giao kèo vẫn được coi là hợp thức, nếu tuân theo pháp luật nơi ký
kết giao kèo đó.
2. Hình
thức giao kèo về bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước ký kết nơi có
bất động sản.
1. Pháp
luật áp dụng đối với các nghĩa vụ không phát sinh từ giao kèo là pháp luật của
nước ký kết nơi xảy ra sự kiện làm nảy sinh nghĩa vụ.
2. Nếu
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại là công dân của cùng một nước ký kết
thì áp dụng pháp luật của nước ký kết đó.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc nói ở Điều 38 Hiệp định này
là Tòa án của nước ký kết mà pháp luật sẽ được áp dụng theo quy định của Điều
38.
1. Công dân
nước ký kết này được hưởng trên lãnh thổ nước ký kết kia những quyền tài sản về
thừa kế không có di chúc hoặc thừa kế có di chúc, theo cùng những điều kiện và
cùng mức độ như công dân nước ký kết kia.
2. Công dân
nước ký kết này có thể định đoạt bằng di chúc tài sản của mình để trên lãnh thổ
nước ký kết kia.
1. Về thừa
kế động sản, áp dụng pháp luật của nước ký kết mà người để lại động sản là công
dân vào thời điểm chết.
2. Về thừa
kế bất động sản, áp dụng pháp luật của nước ký kết nơi có bất động sản.
1. Hình
thức của di chúc do pháp luật của nước ký kết mà người lập di chúc là công dân
vào thời điểm lập di chúc quy định. Tuy nhiên, di chúc vẫn hợp thức nếu tuân
theo pháp luật của nước ký kết nơi lập chúc. Quy định này cũng được áp dụng đối
với việc hủy bỏ di chúc.
2. Năng lực
lập và hủy bỏ di chúc, cũng như hậu quả pháp lý của những thiếu sót trong việc
thể hiện ý chí được xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người để lại di
chúc là công dân vào thời điểm lập di chúc.
Điều
43. Thẩm quyền giải quyết các vấn đề thừa kế.
1. Cơ quan
có thẩm quyền giải quyết việc thừa kế động sản là cơ quan của nước ký kết mà
người để lại tài sản là công dân khi chết, trừ trường hợp nói ở khoản 4 điều
này.
2. Đối với
việc thừa kế bất động sản, cơ quan có thẩm quyền giải quyết là cơ quan của nước
ký kết nơi có bất động sản.
3. Các quy
định nói ở khoản 1 và khoản 2 được áp dụng tương ứng đối với các tranh chấp về
vấn đề thừa kế.
4. Trong
trường hợp công dân nước ký kết này sau khi chết để lại toàn bộ động sản trên
lãnh thổ trước ký kế kia, thì thể theo yêu cầu của một người thừa kế, theo di
chúc hoặc theo pháp luật, cơ quan của nước ký kết kia sẽ tiến hành thủ tục về
thừa kế, nếu được sự đồng ý của tất cả những người thừa kế theo di chúc mà
người ta biết nơi thường trú hoặc tạm trú của họ.
Điều
44. Mở và công bố di chúc.
Việc mở và
công bố di chúc thuộc thẩm quyền của cơ quan nước ký kết nơi để di chúc. Bản
sao di chúc cũng như biên bản mở và công bố di chúc và, nếu cần thiết, thì cả
bản gốc di chúc được gửi đi cho cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết mà người
để lại di chúc là công dân.
CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH CÁC QUYẾT ĐỊNH VỀ DÂN SỰ
Điều
45. Điều kiện công nhận các quyết định
Các quyết
định về dân sự đã tuyên ở nước ký kết này có thể được công nhận ở nước ký kết
kia, nếu đáp ứng những điều kiện sau đây:
a) Theo
pháp luật của nước ký kết được yêu cầu công nhận quyết định, Tòa án của nước đó
không phải là Tòa án độc nhất có thẩm quyền giải quyết vụ kiện;
b) Bên thua
kiện đã tham gia tố tụng hoặc nếu vắng mặt thì đã được tống đạt giấy triệu tập
phiên tòa theo đúng thể thức quy định trong pháp luật của nước ký kết nơi ra
quyết định;
c) Quyết
định đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật của nước ký kết nơi ra quyết định;
d) Quyết
định không có khoản nào phương hại đến chủ quyền, an ninh và trật tự công cộng
của nước ký kết được yêu cầu công nhận nó;
e) Trước đó
ở nước ký kết được yêu cầu công nhận quyết định chưa có một quyết định nào về
cùng vụ kiện đó;
f) Về cùng
vụ kiện đó Tòa án của nước ký kết được yêu cầu chưa tiến hành tố tụng trước khi
bắt đầu việc giải quyết vụ kiện ở Tòa án nước ký kết yêu cầu.
Điều
46. Không thể công nhận quyết định
Những quy
định của Điều 45 không áp dụng đối với các quyết định về những vụ kiện thuộc
thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước thứ ba theo những điều ước quốc tế mà các
nước ký kết đã ký kết hoặc tham gia.
Điều
47. Thi hành các quyết định
Những quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của nước ký kết này có thể được thi hành ở nước
ký kết kia, nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện quy định ở Điều 45 Hiệp định này
và nếu những quyết định đó có thể thi hành được ở nước ký kết yêu cầu. Nguyên
tắc này cũng áp dụng đối với phần xử về bồi thường thiệt hại dân sự đã có hiệu
lực pháp luật trong bản án hình sự.
Thủ tục
công nhận và cho thi hành quyết định do pháp luật của nước ký kết nơi quyết
định cần được công nhận và thi hành quyết định.
Điều
49. Hình thức đơn xin công nhận và cho thi hành quyết định
1. Đơn xin
công nhận và cho thi hành quyết định phải kèm theo:
a) Bản sao
quyết định có chứng thực, kèm theo bản trình bày lý do;
b) Giấy xác
nhận chính thức là quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu điều này không toát
ra từ nội dung của quyết định;
c) Đối với
quyết định xử vắng mặt thì kèm theo giấy xác nhận đã tống đạt hoặc các giấy tờ
khác chứng minh đã tống đạt kịp thời và hợp thức giấy triệu tập phiên tòa cho
bị đơn.
2. Đơn xin
thi hành quyết định còn phải kèm theo giấy chứng nhận bản án đã được cho phép
thi hành.
3. Các giấy
tờ nói ở khoản 1 phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng nước ký kết được yêu
cầu do một phiên dịch đã tuyên thệ làm hoặc được Tòa án của nước ký kết yêu cầu
chứng thực.
Điều
50. Thi hành biên bản hòa giải
1. Biên bản hòa giải trước các Tòa án có thẩm quyền của nước ký kết này
mà đã có hiệu lực thi hành ở nước ký kết này cũng có thể được công nhận và thi
hành ở nước ký kết kia, nếu nó không trái với trật tự công cộng của nước ký kết
kia.
2. Đơn xin
công nhận và thi hành biên bản hòa giải phải kèm theo bản sao biên bản có chứng
thực và giấy của Tòa án đã tiến hành hòa giải chứng nhận là biên bản có hiệu
lực thi hành.
Điều
51. Thi hành văn bản công chứng
1. Văn bản
công chứng được lập ra và có khả năng thi hành ở nước ký kết này có thể được
thi hành ở nước ký kết kia theo cách thức đã quy định đối với các quyết định,
nếu văn bản công chứng đó không trái với trật tự công cộng của nước ký kết kia.
2. Người
xin thi hành văn bản công chứng phải nộp bản sao văn bản công chứng đã được
chứng thực và ký tên, đóng dấu. Ngoài ra phải nộp giấy chứng nhận là văn bản
công chứng đã có hiệu lực thi hành.
1. Các nước
ký kết cam kết, theo quy định của Hiệp định này, khi được yêu cầu sẽ dẫn độ cho
nhau những người đang cư trú trên lãnh thổ nước mình để nước ký kết kia truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt.
2. Chỉ dẫn
độ để truy cứu trách nhiệm hình sự những người đã có các hành vi mà theo pháp
luật của cả hai nước ký kết là tội phạm với hình phạt quy định là tước tự do
trên một năm hoặc hình phạt nặng hơn.
3. Chỉ dẫn
độ để thi hành hình phạt những người đã có hành vi phải chịu hình phạt theo
pháp luật của cả hai nước ký kết và hình phạt đã tuyên không dưới 6 tháng tù
hoặc nặng hơn.
Điều
53. Dẫn độ về nhiều tội phạm
Trong
trường hợp có yêu cầu dẫn độ về nhiều tội phạm, mà mỗi tội phạm đều có thể bị
phạt tù theo pháp luật của cả hai nước ký kết, nhưng có những tội phạm không
đáp ứng những điều kiện quy định ở Điều 52, khoản 2 và khoản 3, thì nước ký kết
được yêu cầu vẫn có thể cho dẫn độ.
Nước ký kết
được yêu cầu không dẫn độ công dân của nước mình, cũng như không dẫn độ những
người đã được phép lánh nạn ở nước mình.
Các nước ký
kết không dẫn độ trong những trường hợp sau đây:
1. Tội phạm
đã thực hiện trên lãnh thổ nước ký kết được yêu cầu, bao gồm cả trên tàu thủy,
máy bay của nước đó, hoặc vì những lý do khác mà tội phạm thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án nước ký kết được yêu cầu và xâm phạm những lợi ích quan trọng của
nước đó.
2. Tội phạm
đã thực hiện trên lãnh thổ một nước thứ ba và pháp luật của nước ký kết được
yêu cầu không cho truy cứu trách nhiệm hình sự loại tội phạm đó thực hiện ngoài
lãnh thổ nước mình.
1. Không
dẫn độ trong những trường hợp mà theo pháp luật của nước ký kết được yêu cầu;
a) Hành vi
phạm tội có khả năng xâm phạm chủ quyền, an ninh hoặc trật tự công cộng của
nước ký kết được yêu cầu;
b) Hành vi
phạm tội chỉ là sự vi phạm các quy định về thuế, về độc quyền, về hải quan, về
hối đoái, về hàng hóa hoặc ngoại thương (các tội phạm về thuế).
c) Hành vi
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm theo yêu cầu của người bị hại.
2. Quy định
ở khoản trên không cản trở việc hai nước ký kết thỏa thuận với nhau về dẫn độ
những người phạm các tội nói ở các mục b và c của khoản 1 điều này trong những
trường hợp cá biệt.
1. Không
dẫn độ:
a) Nếu về
cùng hành vi phạm tội làm cơ sở để yêu cầu dẫn độ, đã có một bản án có hiệu lực
pháp luật do nước ký kết được yêu cầu tuyên xử phạt hoặc đã tha người có hành
vi đó, hoặc đã có một quyết định có hiệu lực pháp luật hủy bỏ tố tụng, trừ
trường hợp bản án hoặc quyết định đó do một Tòa án không có thẩm quyền tuyên;
b) Nếu việc
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc việc thi hành hình phạt đã hết thời hiệu theo
pháp luật của nước ký kết yêu cầu hoặc của nước ký kết được yêu cầu.
2. Ngoài
ra, nước ký kết được yêu cầu có thể từ chối dẫn độ nếu tội phạm đã được thực
hiện trên lãnh thổ một nước thứ ba và đã có bản án được tuyên ở nước thứ ba đó.
1. Nếu
người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải
chấp hành hình phạt về một tội phạm khác trên lãnh thổ nước ký kết được yêu cầu
thì việc dẫn độ có thể được hoãn lại cho đến khi kết thúc tố tụng hình sự, chấp
hành xong hình phạt hoặc được tha trước thời hạn.
2. Trong
trường hợp việc hoãn dẫn độ nói ở khoản 1 có thể làm cho việc truy cứu hình sự
bị hết thời hiệu hoặc làm cho việc điều tra tội phạm gặp khó khăn nghiêm trọng
thì theo đề nghị có căn cứ có thể dẫn độ tạm thời người bị yêu cầu dẫn độ.
3. Người bị
dẫn độ tạm thời phải được trả lại ngay sau khi hoàn thành tố tụng hình sự.
Trong mọi trường hợp phải trả lại trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày dẫn độ.
Điều
59. Giới hạn việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
1. Nếu không có sự đồng ý của nước ký kết được yêu cầu, thì không được
truy cứu trách nhiệm hình sự người bị dẫn độ, không được buộc người đó phải
chấp hành hình phạt về một tội phạm đã thực hiện trước ngày dẫn độ, trừ tội
phạm đã là căn cứ để dẫn độ, và cũng không được dẫn độ người đó cho nước thứ
ba.
2. Không đòi hỏi phải có sự đồng ý nói trên trong những trường hợp sau
đây:
a) Người bị
dẫn độ đã không rời khỏi lãnh thổ của nước ký kết yêu cầu trong thời hạn một
tháng, kể từ ngày kết thúc tố tụng hình sự hoặc kể từ ngày đã chấp hành xong
hình phạt hoặc được miễn hình phạt. Không tính vào thời hạn này thời gian mà
người bị dẫn độ không thể rời khỏi lãnh thổ của nước ký kết này vì những hoàn
cảnh không phụ thuộc vào họ;
b) Người bị
dẫn độ sau khi rời khỏi nước ký kết yêu cầu đã tự ý trở lại nước đó.
Điều
60. Văn bản yêu cầu dẫn độ.
1. Văn bản
yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự phải kèm theo bản sao có chứng
thực lệnh bắt, bản mô tả hoàn cảnh phạm tội cũng như điều luật quy định tội
phạm đó. Nếu tội phạm đã gây thiệt hại vật chất, phải nói rõ mức độ thiệt hại.
2. Văn bản
yêu cầu dẫn độ để thi hành hình phạt phải kèm theo bản sao có chứng thực bản án
cùng với việc xác nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật cũng như toàn văn điều
luật mà theo đó can phạm đã bị kết án. Nếu người bị kết án đã chấp hành được
một phần hình phạt thì cũng phải thông báo về điều này.
3. Văn bản
yêu cầu dẫn độ phải ghi rõ quốc tịch, nhận dạng của người bị yêu cầu dẫn độ và
nếu có thể được thì ghi rõ căn cước, nhân thân, nơi thường trú, ảnh và dấu vân
tay của người đó.
4. Nước ký kết yêu cầu dẫn độ không bắt buộc phải gửi các tang, vật
chứng về hành vi phạm tội của người bị yêu cầu dẫn độ kèm theo văn bản yêu cầu
dẫn độ.
Điều
61. Bổ sung hồ sơ yêu cầu dẫn độ.
Nếu văn bản
yêu cầu dẫn độ không có đầy đủ những dữ kiện cần thiết, nước ký kết được yêu
cầu có thể đề nghị cung cấp bổ sung tin tức và ấn định một thời hạn trả lời
không được quá hai tháng. Tuy nhiên, nếu có lý do chính đáng thời hạn này có
thể được kéo dài thêm 15 ngày.
Sau khi
nhận được yêu cầu dẫn độ, nước ký kết được yêu cầu phải tiến hành các biện pháp
cần thiết để tạm giữ người bị yêu cầu dẫn độ. Điều này không áp dụng đối với
những trường hợp không dẫn độ theo Hiệp định này.
Điều
63. Tạm giữ trước khi nhận được văn bản yêu cầu dẫn độ.
1. Người bị
yêu cầu dẫn độ có thể bị tạm giữ trước khi nhận được văn bản yêu cầu dẫn độ,
nếu có đề nghị của nước ký kết yêu cầu và nước này bảo đảm rằng đã có lệnh bắt
hoặc đã có bản án có hiệu lực pháp luật xử phạt người đó, hoặc đã có một quyết
định khác của tòa án. Đề nghị tạm giữ có thể được chuyển theo đường bưu chính,
điện báo hoặc bằng bất cứ phương tiện nào khác chuyển được nội dung của văn bản
yêu cầu dẫn độ.
2. Đặc biệt
trong trường hợp khẩn cấp, mặc dù chưa có yêu cầu dẫn độ, cơ quan có thẩm quyền
của nước ký kết này cũng có thể tạm giữ một người đang có mặt trên lãnh thổ
nước mình, nếu có tin tức về việc người đó đã thực hiện trên lãnh thổ nước ký
kết kia một tội phạm đưa đến dẫn độ.
3. Ngày tạm
giữ theo quy định ở khoản 1 và khoản 2 điều này phải được thông báo ngay cho
nước ký kết kia biết.
Điều
64. Trả tự do cho người bị tạm giữ.
Người bị
tạm giữ theo Điều 62 hoặc Điều 63 Hiệp định này có thể được trả tự do, nếu
trong thời hạn một tháng, kể từ ngày thông báo việc tạm giữ cho nước ký kết
kia, nước ký kết này không nhận được văn bản yêu cầu dẫn độ. Thời hạn này có
thể được kéo dài thêm 15 ngày. Nếu có yêu cầu chính đáng của nước ký kết kia.
Điều
65. Thông báo quyết định về việc dẫn độ.
1. Nước ký
kết được yêu cầu thông báo cho nước ký kết yêu cầu biết quyết định của mình về
việc dẫn độ.
2. Nếu
không chấp nhận toàn bộ hay một phần yêu cầu dẫn độ, thì nước ký kết được yêu
cầu gửi cho nước ký kết yêu cầu một văn bản nói rõ lý do của quyết định đó.
3. Nếu chấp
nhận yêu cầu dẫn độ, nước ký kết được yêu cầu thông báo cho nước ký kết yêu cầu
biết về ngày và địa điểm dẫn độ. Nếu nước ký kết yêu cầu không tiếp nhận người
bị dẫn độ vào ngày và địa điểm mà nước ký kết được yêu cầu đã ấn định mà không
có yêu cầu hoãn việc dẫn độ thì người bị dẫn độ được trả tự do. Trong trường
hợp này có thể từ chối việc dẫn độ, mặc dù yêu cầu dẫn độ được nhắc lại.
4. Việc
hoãn dẫn độ nói ở khoản 3 không được quá một tháng.
Điều
66. Nhiều nước yêu cầu dẫn độ.
Nếu nhiều
nước cùng yêu cầu dẫn độ một người, nước ký kết được yêu cầu có quyền quyết
định ưu tiên dẫn độ cho một nước nhất định trong số các nước yêu cầu đó, căn cứ
vào mọi tình tiết, nhất là vào tính chất của hành vi phạm tội, vào địa điểm
phạm tội, vào quốc tịch của người bị yêu cầu dẫn độ, vào khả năng sau này dẫn
độ cho các nước khác đã yêu cầu, cũng như vào ngày tháng của các yêu cầu dẫn
độ.
Nếu người
bị dẫn độ trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quay trở lại lãnh thổ
nước ký kết được yêu cầu, thì người đó sẽ bị dẫn độ lại, khi nước ký kết kia
nhắc lại yêu cầu dẫn độ. Trong trường hợp này không cần gửi các văn bản nói ở
Điều 60 Hiệp định này.
1. Những đồ
vật của người bị dẫn độ do thực hiện tội phạm mà có, cũng như những đồ vật khác
có thể dùng làm tang vật chứng trong tố tụng hình sự đều phải được chuyển giao
cho nước ký kết yêu cầu, kể cả trong trường hợp không giao được người bị dẫn độ
vì người này chết hoặc vì lý do khác. Phải có giấy biên nhận về việc chuyển
giao đồ vật.
2. Nước ký
kết được yêu cầu có thể tạm hoãn việc chuyển giao đồ vật, nếu những đồ vật này
cần thiết cho việc giải quyết một vụ án hình sự khác.
3. Những
người thứ ba có quyền lợi nguyên vẹn đối với những đồ vật đã được chuyển giao.
Sau khi kết thúc tố tụng hình sự, những đồ vật này phải được hoàn lại cho nước
ký kết đã chuyển giao chúng trong thời hạn ngắn nhất để trả cho những người có
quyền lợi.
4. Những
quy định của điều này không áp dụng đối với những quy định về hạn chết nhập
khẩu và xuất khẩu đồ vật và tiền tệ.
1. Nếu cần
đến những người bị giam ở nước ký kết được yêu cầu để làm chứng, các cơ quan
nói ở Điều 3 Hiệp định này có thể cho phép, chuyển giao những người đó cho nước
ký kết yêu cầu với điều kiện là họ tiếp tục bị giam ở nước này và được trả lại
ngay sau khi xong việc.
2. Nếu cần
đến những người bị giam ở một nước thứ ba để làm chứng, các cơ quan nói ở Điều
3 Hiệp định này cho phép những người đó quá cảnh nước mình.
3. Những
quy định của Điều 12 Hiệp định này được áp dụng đối với các trường hợp nói ở
khoản 1 và khoản 2 điều này.
QUÁ CẢNH VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC VỀ HÌNH SỰ
1. Nước ký
kết này, theo yêu cầu của nước ký kết kia sẽ cho phép quá cảnh lãnh thổ nước
mình những người mà một nước thứ ba dẫn độ cho nước ký kết kia. Các nước ký kết
không có nghĩa vụ phải cho phép quá cảnh những trường hợp mà theo những quy
định của Hiệp định này không được dẫn độ.
2. Văn bản
yêu cầu quá cảnh được gửi theo đúng thể thức quy định đối với văn bản yêu cầu
dẫn độ.
3. Các cơ
quan có thẩm quyền của các nước ký kết thông báo cho nhau biết về cách thức
thực hiện, hành trình và những điều kiện khác của việc quá cảnh đối với từng
trường hợp một.
Điều
71. Chi phí về dẫn độ và về quá cảnh
Theo những
quy định của Hiệp định này, chi phí về chuẩn bị và thực hiện việc dẫn độ và về
chuyển giao đồ vật nảy sinh trên lãnh thổ nước ký kết nào, thì nước ký kết ấy
chịu. Chi phí về quá cảnh do nước ký kết yêu cầu chịu.
Điều
72. Thông báo kết quả truy cứu trách nhiệm hình sự người bị dẫn độ.
Các nước ký
kết thông báo cho nhau biết về kết quả truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người bị dẫn độ. Nếu có yêu cầu, thì gửi cả bản sao bản án đã có hiệu lực pháp
luật.
Trong các
vấn đề liên quan đến dẫn độ, các nước ký kết liên hệ với nhau theo cách thức
nói ở Điều 3 Hiệp định này hoặc bằng con đường ngoại giao.
Điều
74. Hiệu lực của Hiệp định trong vấn đề dẫn độ
Những quy
định của Hiệp định này được áp dụng đối với những tội phạm thực hiện sau khi
Hiệp định có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, các nước ký kết, theo pháp luật của
nước mình, cũng có thể chấp nhận việc dẫn độ đối với những tội phạm được thực
hiện trước đó.
Điều
75. Quan hệ với các điều ước quốc tế nhiều bên
Hiệp định
này không làm thay đổi những nghĩa vụ về dẫn độ phát sinh từ các điều ước quốc
tế nhiều bên của nước ký kết được yêu cầu.
ỦY THÁC VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Nước ký kết
này, thể theo yêu cầu của nước ký kết kia, có nghĩa vụ, phù hợp với pháp luật
của nước mình, truy cứu trách nhiệm hình sự công dân của nước mình phạm tội
trên lãnh thổ nước ký kết kia.
1. Nhằm ủy
thác việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 76 Hiệp định này, nước ký kết
nơi xảy ra tội phạm gửi cho nước ký kết kia văn bản yêu cầu, trong đó cần ghi
những điểm sau đây:
a) Tên cơ
quan yêu cầu;
b) Định rõ
tội phạm cần được truy cứu trách nhiệm hình sự và mô tả càng tỷ mỷ càng tốt
thời gian và địa điểm phạm tội;
c) Những
điều luật của nước ký kết yêu cầu, theo đó hành vi đã thực hiện bị coi là tội
phạm;
d) Các tin
tức chính xác về căn cước của người bị tình nghi, về quốc tịch, nơi thường trú
hoặc tạm trú và nhận dạng của người đó, nếu thấy cần thiết.
Văn bản yêu
cầu phải được ký tên và đóng dấu.
2. Cùng với
văn bản yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự phải gửi kèm theo bản sao có chứng
thực hồ sơ vụ án và các tang, vật chứng mà nước ký kết yêu cầu đã thu thập
được. Việc chuyển giao các đồ vật này phải tuân theo Điều 68, khoản 4 Hiệp định
này. Hồ sơ không cần phải có bản dịch.
3. Nước ký
kết được yêu cầu thông báo cho nước ký kết yêu cầu biết về cách thức giải quyết
ủy thác và kết quả việc truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời gửi cho nước ký
kết yêu cầu bản án đã tuyên.
Điều
78. Thông báo về các bản án
1. Hàng năm
các nước ký kết thông báo cho nhau về các bản án đã có hiệu lực pháp luật xét
xử công dân của nước ký kết kia.
2. Nhằm mục
đích truy cứu trách nhiệm hình sự, các nước ký kết cung cấp cho nhau những
thông tin về các hình phạt đã tuyên đối với những người trước đây đã cư trú
trên lãnh thổ nước ký kết được yêu cầu.
3. Đối với
những trường hợp nói ở khoản 1 và khoản 2 điều này, nếu có thể được, các nước
ký kết cũng gửi cho nhau các bản in vân tay của những người bị kết án.
CHUYỂN GIAO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN CHO NƯỚC KÝ KẾT MÀ HỌ LÀ CÔNG
DÂN ĐỂ THI HÀNH HÌNH PHẠT
Điều
79. Điều kiện chuyển giao
Công dân
của nước ký kết này bị phạt tù theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của nước ký
kết kia, theo sự thỏa thuận của hai nước ký kết và tuân theo những điều kiện
quy định ở Hiệp định này, sẽ được chuyển giao cho nước ký kết mà họ là công dân
để thi hành hình phạt tù ở nước đó. Người bị kết án có đồng ý mới chuyển giao.
Điều
80. Yêu cầu và đơn xin chuyển giao
1. Việc
chuyển giao người bị kết án để thi hành hình phạt được tiến hành theo yêu cầu
của nước ký kết nơi đã ra bản án, nếu nước ký kết kia đồng ý nhận.
2. Nước ký
kết mà người bị kết án là công dân có thể đề nghị nước ký kết nơi đã ra bản án
xem xét khả năng chuyển giao người bị kết án.
3. Người bị
kết án hoặc thân nhân của người đó có thể làm đơn xin các cơ quan có thẩm quyền
của một nước ký kết cho chuyển giao người đó về nước để thi hành hình phạt. Cơ
quan có thẩm quyền của nước ký kết nơi đã ra bản án có trách nhiệm thông báo
cho người bị kết án biết về khả năng làm đơn này.
Điều
81. Văn bản yêu cầu nhận chuyển giao người bị kết án
1. Cơ quan
có thẩm quyền của nước ký kết, nơi đã ra bản án gửi văn bản yêu cầu nhận chuyển
giao người bị kết án để thi hành hình phạt cho cơ quan có thẩm quyền của nước
ký kết kia.
Yêu cầu
nhận chuyển giao phải được làm thành văn bản và phải được gửi kèm theo những
giấy tờ sau đây:
a) Bản sao
có chứng thực bản án xử phạt người đó cũng như bản sao bản án của Tòa án cấp
trên, nếu có, cùng với giấy xác nhận là bản án đã có hiệu lực pháp luật;
b) Những
điều luật làm căn cứ để xử phạt;
c) Giấy chứng nhận phần hình phạt mà người bị kết án đã chấp hành, cũng
như phần chưa chấp hành trong trường hợp hình phạt đang được chấp hành dở dang;
d) Giấy xác
nhận quốc tịch của người bị kết án;
e) Những
giấy tờ khác mà cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết, nơi đã ra bản án, thấy
cần thiết.
2. Khi cơ
quan có thẩm quyền của nước ký kết mà người bị kết án là công dân yêu cầu, thì
cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết, nơi đã ra bản án, sẽ bổ sung các tin tức
hoặc giấy tờ khác.
Điều
82. Thông báo về cách thức giải quyết yêu cầu chuyển giao người bị kết án.
Cơ quan có
thẩm quyền của nước ký kết được yêu cầu trong thời hạn ngắn nhất sẽ thông báo
cho cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết yêu cầu biết về cách thức giải quyết
yêu cầu.
Điều
83. Chuyển giao người bị kết án
Trong
trường hợp nước ký kết được yêu cầu đồng ý, các cơ quan có thẩm quyền của hai
nước ký kết trong thời hạn ngắn nhất sẽ ấn định địa điểm, ngày và cách thức
chuyển giao người bị kết án. Việc chuyển giao người bị kết án được tiến hành
trên lãnh thổ nước ký kết nơi đã ra bản án.
1. Việc thi
hành hình phạt, ấn định mức hình phạt, miễn toàn bộ hay giảm một phần hình
phạt, chuyển hình phạt này sang một hình phạt khác, cũng như việc xóa án sẽ
tuân theo pháp luật của nước ký kết mà người bị kết án là công dân.
2. Sau khi
người bị kết án được chuyển giao, thì việc đại xá sẽ được áp dụng với pháp luật
hiện hành ở cả hai nước ký kết.
Điều
85. Chi phí về chuyển giao người bị kết án
Chi phí
liên quan đến chuyển giao người bị kết án do nước ký kết đã yêu cầu chuyển giao
chịu. Việc thông bảo bản án không được coi là yêu cầu chuyển giao người bị kết
án.
Những bất
đồng về giải thích và áp dụng Hiệp định này sẽ được giải quyết thông qua đường
ngoại giao
1. Hiệp
định này cần được phê chuẩn và bắt đầu có hiệu lực vào ngày thứ 30, kể từ ngày
trao đổi các văn kiện phê chuẩn ở Hà Nội.
2. Hiệp
định này có giá trị vô thời hạn. Mỗi nước ký kết có thể hủy bỏ Hiệp định bằng
cách thông báo cho nước ký kết kia. Trong trường hợp này, Hiệp định sẽ hết hiệu
lực sau 6 tháng, kể từ ngày có thông báo hủy bỏ.
Làm tại
Vacsava, ngày 22 tháng 3 năm 1993, thành hai bản, mỗi bản được viết bằng Tiếng
Việt, tiếng Ba Lan và tiếng Pháp. Hai văn bản bằng tiếng Việt và tiếng Ba Lan
có giá trị ngang nhau. Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau giữa hai văn
bản này thì căn cứ vào văn bản bằng tiếng Pháp.
Để làm bằng
những người được ủy quyền của hai nước ký kết đã ký vào Hiệp định này và đóng
dấu xác nhận./.
THỪA ỦY QUYỀN |
THỪA ỦY QUYỀN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét