HIỆP ƯỚC
CỦA WIPO
VỀ QUYỀN TÁC GIẢ (WCT) (1996) VỚI CÁC TUYÊN BỐ ĐÃ ĐƯỢC THÔNG QUA CỦA HỘI NGHỊ
NGOẠI GIAO THÔNG QUA HIỆP ƯỚC VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC BERNE (1971) DẪN
CHIẾU TRONG HIỆP ƯỚC
HIỆP ƯỚC QUYỀN TÁC GIẢ
WIPO (WCT) (1996)
Phần mở đầu
Điều 1:
Liên quan đến Công ước Berne
Điều 2:
Phạm vi bảo hộ quyền tác giả
Điều 3: Áp
dụng Điều 2 đến Điều 6 của Công ước Berne
Điều 4:
Chương trình máy tính
Điều 5: Sưu
tập dữ liệu (Cơ sở dữ liệu)
Điều 6:
Quyền phân phối
Điều 7:
Quyền cho thuê
Điều 8:
Quyền truyền đạt tới công chúng
Điều 9:
Thời hạn bảo hộ tác phẩm nhiếp ảnh
Điều 10:
Hạn chế và ngoại lệ
Điều 11:
Các nghĩa vụ về biện pháp công nghệ
Điều 12:
Các nghĩa vụ về đến thông tin quản lý quyền
Đều 13: Áp
dụng vào thời điểm bắt đầu có hiệu lực
Điều 14:
Các quy định về thực thi quyền
Điều 15:
Hội đồng
Điều 16:
Văn phòng quốc tế (Trụ sở quốc tế)
Điều 17:
Điều kiện để trở thành Bên tham gia Hiệp ước
Điều 18:
Các quyền và nghĩa vụ theo Hiệp ước
Điều 19:
Việc ký Hiệp ước
Điều 20:
Bắt đầu có hiệu lực của Hiệp ước
Điều 21:
Ngày trở thành Bên tham gia Hiệp ước
Điều 22:
Không có bảo lưu đối với Hiệp ước
Điều 23:
Rút khỏi Hiệp ước
Điều 24:
Ngôn ngữ của Hiệp ước
Điều 25:
Lưu giữ
PHẦN MỞ ĐẦU
Các Bên
Ký kết,
Mong
muốn
duy trì và phát triển sự bảo hộ các quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và
nghệ thuật một cách có hiệu quả và đồng bộ nhất,
Thừa
nhận
sự cần thiết đưa ra những quy định quốc tế mới và xác định rõ nội dung của các
quy định hiện có nhằm đặt ra các giải pháp thoả đáng cho các vấn đề nảy sinh do
sự phát triển mới về nền kinh tế, xã hội, văn hoá và công nghệ,
Thừa
nhận
ảnh hưởng sâu rộng của sự phát triển và thành tựu của công nghệ tin học và
truyền thông đối với việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học và nghệ
thuật,
Nhấn
mạnh tầm
quan trọng của việc bảo hộ quyền tác giả như là sự khích lệ công việc sáng tạo
ra tác phẩm văn học và nghệ thuật,
Thừa
nhận
sự cần thiết duy trì cân bằng giữa quyền của tác giả và lợi ích của công chúng,
đặc biệt trong giáo dục, nghiên cứu và tiếp cận thông tin, như được nêu trong
Công ước Berne,
Đã thoả
thuận như sau:
Điều
1. Liên quan đến Công ước Berne
(1) Hiệp
ước này là một thoả thuận đặc biệt theo nghĩa của Điều 20 của Công ước Berne về
bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật đối với các Bên ký kết là những Bên
ký kết Liên hiệp do Công ước thành lập. Hiệp ước này không có bất kỳ sự dẫn
chiếu nào tới các hiệp ước khác ngoài Công ước Berne, cũng như không làm phương
hại tới các quyền và nghĩa vụ được quy định tại bất kỳ hiệp ước nào khác.
(2) Không
có quy định nào trong Hiệp ước làm tổn hại đến những nghĩa vụ hiện tại mà các
Bên ký kết đã có với nhau theo Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật.
(3) Sau
đây, “Công ước Berne” được hiểu là nói đến Nghị định thư Paris ngày 24/6/1971
của Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật
(4) Các Bên
ký kết phải tuân thủ các Điều 1 tới Điều 21 và Bản Phụ lục của Công ước Berne.
[1]
Điều 2. Phạm vi bảo hộ quyền tác giả
Sự bảo hộ
quyền tác giả được dành cho tác phẩm đã được thể hiện chứ không dành cho bản
thân ý tưởng, thủ tục, phương thức hoạt động hoặc các khái niệm toán học.
Điều
3. Áp dụng các điều từ Điều 2 đến Điều 6 của Công ước Berne
Các Bên ký
kết phải áp dụng các điều khoản sửa đổi thích hợp các quy định của các điều từ
Điều 2 đến Điều 6 của Công ước Berne được quy định trong Hiệp ước này. [2]
Chương
trình máy tính được bảo hộ như là tác phẩm văn học theo nghĩa của Điều 2 Công
ước Berne. Sự bảo hộ này áp dụng cho các chương trình máy tính, bất kể chúng
được thể hiện dưới hình thức hoặc phương thức nào. [3]
Điều
5. Sưu tập dữ liệu (Cơ sở dữ liệu)
Các dữ liệu
hoặc tư liệu khác được sưu tập dưới bất kỳ hình thức nào, mà tạo nên những sáng
tạo trí tuệ, thì được bảo hộ. Sự bảo hộ này không dành cho chính bản thân dữ
liệu hoặc tư liệu đó và không làm phương hại đến bất kỳ quyền tác giả nào đang
tồn tại đối với dữ liệu hoặc tư liệu trong sưu tập đó. [4]
Điều 6. Quyền phân phối
(1) Tác giả
của tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng quyền độc quyền cho phép cung cấp
tới công chúng bản gốc và bản sao tác phẩm đó thông qua việc bán hoặc chuyển
nhượng quyền sở hữu.
(2) Không
một quy định nào trong Hiệp ước này ảnh hưởng đến quyền tự do của các Bên ký
kết xác định các điều kiện có thể làm triệt tiêu, quyền được quy định tại Khoản
(1) áp dụng sau khi bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu lần thứ nhất bản gốc
hoặc bản sao của tác phẩm với sự cho phép của tác giả. [5]
Điều 7. Quyền cho thuê
(1) Các tác
giả của
(i) Chương
trình máy tính;
(ii) Tác
phẩm điện ảnh; và
(iii) Tác
phẩm được thể hiện trong bản ghi âm, như được xác định theo luật pháp quốc gia
của Bên ký kết, sẽ được hưởng quyền độc quyền cho công chúng thuê nhằm mục đích
thương mại đối với bản gốc hoặc bản sao tác phẩm của họ.
(2) Khoản
(1) không áp dụng
(i) Đối với
các chương trình máy tính, khi bản thân chương trình đó không phải đối tượng
chính của việc cho thuê; và
(ii) Đối
với các tác phẩm điện ảnh, trừ khi việc cho thuê thương mại như vậy dẫn tới
việc sao chép tràn lan các tác phẩm này, làm suy giảm thực tế quyền độc quyền
sao chép.
(3) Không
trái với các quy định của Khoản (1), Bên ký kết, vào ngày 15/4/1994 đã và đang
áp dụng một hệ thống trả tiền thù lao thoả đáng cho tác giả đối với việc cho
thuê bản sao bản ghi âm các tác phẩm của họ có thể duy trì hệ thống đó với điều
kiện là việc cho thuê thương mại bản ghi âm có tác phẩm như vậy không làm suy
giảm thực tế quyền độc quyền sao chép của tác giả. [6] [7]
Điều 8. Quyền truyền đạt tới công chúng
Không trái
với các quy định của Điều 11(1)(ii), 11bis(1)(i) và (ii), 11ter(1)(ii)
14(1)(ii) và 11bis(1), của Công ước Berne các tác giả của các tác phẩm văn học
và nghệ thuật được hưởng quyền độc quyền cho phép truyền đạt tới công chúng tác
phẩm của họ, bằng vô tuyến hay hữu tuyến, kể cả việc đưa tác phẩm của họ tới
công chúng theo cách thức mà những thành viên trong xã hội có thể tiếp cận các
tác phẩm đó tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn. [8]
Điều 9. Thời hạn bảo hộ tác phẩm nhiếp ảnh
Đối với tác
phẩm nhiếp ảnh, Bên ký kết không phải áp dụng các quy định của Điều 7(4) của
Công ước Berne.
Điều 10. Hạn chế và ngoại lệ
(1) Các Bên
ký kết có thể quy định trong pháp luật nước mình những hạn chế và ngoại lệ đối
với các quyền dành cho tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật theo Hiệp ước này
trong những trường hợp đặc biệt cụ thể, không mâu thuẫn với việc khai thác bình
thường tác phẩm và không làm phương hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp
pháp của tác giả.
(2) Khi áp
dụng Công ước Berne, các Bên ký kết phải xác định rõ các hạn chế hoặc ngoại lệ
đối với các quyền được quy định trong những trường hợp đặc biệt cụ thể mà không
mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm phương hại một
cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.[9]
Điều 11. Các nghĩa vụ về biện pháp công nghệ
Các Bên ký
kết phải quy định sự bảo hộ pháp lý tương xứng và các biện pháp thực thi pháp
lý hiệu quả đối với việc vô hiệu hoá các biện pháp công nghệ được tác giả sử
dụng trong việc thực thi các quyền của mình theo Hiệp ước này hoặc Công ước
Berne và ngăn chặn các hành vi mà không được tác giả cho phép hoặc không được
phép theo luật đối với tác phẩm.
Điều 12. Các nghĩa vụ
về thông tin quản lý quyền
(1) Các Bên
ký kết phải áp dụng các biện pháp thực thi pháp lý tương xứng và hiệu quả đối
với bất kỳ người nào cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, hoặc theo
các biện pháp thực thi dân sự dựa có cơ sở hợp lý biết rằng hành vi đó gây ra,
tạo khả năng, điều kiện hoặc che giấu sự vi phạm bất kỳ quyền nào được quy định
trong Hiệp ước này hoặc Công ước Berne:
(i) Dỡ bỏ
hoặc thay đổi bất kỳ thông tin quản lý quyền điện tử nào mà không được sự cho
phép;
(ii) Phân
phối, nhập khẩu để phân phối, phát sóng hoặc truyền đạt tới công chúng một cách
trái phép, các tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm biết rằng thông tin quản lý quyền
điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay đổi một cách trái phép.
(2) Như
được sử dụng ở Điều này, " thông tin quản lý quyền " nghĩa là thông
tin xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ sở hữu các quyền đối với tác
phẩm, hoặc thông tin về thời hạn và điều kiện sử dụng tác phẩm, và mọi con số
hoặc mã ký hiệu thể hiện thông tin đó, khi các mục thông tin này được gắn với
bản sao tác phẩm hoặc xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công
chúng.[10]
Điều
13. Áp dụng vào thời điểm bắt đầu có hiệu lực
Các Bên ký
kết phải áp dụng các quy định của Điều 18 Công ước Berne đối với mọi tác phẩm
được bảo hộ quy định trong Hiệp ước này.
Điều 14. Các quy định về thực thi quyền
(1) Các Bên
ký kết phù hợp với hệ thống pháp luật của nước mình cam kết ban hành các biện
pháp cần thiết nhằm đảm bảo áp dụng Hiệp ước này.
(2) Các Bên
ký kết phải đảm bảo rằng các thủ tục thực thi đã có trong luật pháp nước mình
cũng cho phép thực hiện hành động có hiệu quả chống lại bất kỳ hành vi xâm phạm
các quyền được quy định trong Hiệp ước này, bao gồm những biện pháp để ngăn
chặn sự xâm phạm và các biện pháp đủ mạnh để kịp thời ngăn ngừa xâm phạm.
Điều 15. Hội đồng
(1) (a) Các
Bên ký kết sẽ thành lập một Hội đồng.
(b) Mỗi Bên
ký kết có một đại biểu đại diện có thể nhận sự trợ giúp của các đại biểu dự
khuyết, cố vấn và chuyên gia.
(c) Các chi
phí cho đoàn đại diện do Bên ký kết chỉ định đoàn chịu. Hội đồng có thể yêu cầu
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (sau đây gọi tắt là WIPO) dành cho sự trợ giúp
về tài chính nhằm tạo sự thuận lợi cho việc tham gia của các đoàn của những Bên
ký kết được Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc coi là những nước đang phát triển hoặc
là những nước đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
(2) (a) Hội
đồng phải giải quyết những vấn đề liên quan đến việc duy trì, phát triển Hiệp
ước này, việc áp dụng và thực hiện Hiệp ước.
(b) Hội
đồng phải thực hiện các chức năng đã được xác định theo Điều 17(2) trong trường
hợp tổ chức liên chính phủ trở thành Bên tham gia Hiệp ước.
(c) Hội
đồng quyết định việc triệu tập hội nghị ngoại giao để sửa đổi Hiệp ước và đưa
ra các khuyến nghị cần thiết cho Tổng Giám đốc WIPO về việc chuẩn bị hội nghị
ngoại giao này.
(3) (a) Mỗi
Quốc gia là Bên ký kết có một phiếu bầu và chỉ được bỏ phiếu nhân danh quốc gia
mình.
(b) Bên ký
kết là tổ chức liên chính phủ được tham gia bỏ phiếu thay cho các Bên ký kết
của tổ chức mình với số phiếu bầu tương đương với số Bên ký kết của tổ chức
mình là Bên tham gia Hiệp ước này. Không một tổ chức liên chính phủ nào được
tham gia bỏ phiếu nếu bất kỳ một Bên ký kết nào của tổ chức này thực hiện quyền
bỏ phiếu của mình và ngược lại.
(4) Hội
đồng nhóm họp thường kỳ hai năm một lần theo sự triệu tập của Tổng Giám đốc
WIPO.
(5) Hội
đồng phải lập ra quy chế hoạt động của mình, kể cả việc triệu tập khoá họp bất
thường, yêu cầu về số đại biểu tối thiểu hợp lệ, và đa số phiếu bầu cần thiết
cho việc thông qua những quyết định khác nhau tuỳ thuộc vào những quy định của
Hiệp ước.
Điều 16. Văn phòng Quốc tế
Văn phòng
Quốc tế của WIPO sẽ thực hiện những công việc quản lý liên quan đến Hiệp ước.
Điều 17. Điều kiện để trở thành Bên tham gia Hiệp ước
(1) Bất kỳ
Nước thành viên nào của WIPO đều có thể trở thành Bên tham gia Hiệp ước này.
(2) Hội
đồng có quyền quyết định chấp nhận bất kỳ tổ chức liên chính phủ nào mà tuyên
bố rằng mình có đủ thẩm quyền, và có điều lệ riêng ràng buộc tất cả các Bên ký
kết của tổ chức và rằng tổ chức đã được uỷ quyền, theo quy chế hoạt động của tổ
chức mình, đối với các vấn đề được quy định trong Hiệp ước này, trở thành Bên
tham gia Hiệp ước này.
(3) Cộng
đồng châu âu, có đưa ra tuyên bố nói tại Khoản trên tại Hội nghị Ngoại giao
thông qua Hiệp ước này, có thể trở thành Bên tham gia Hiệp ước.
Điều 18. Các quyền và nghĩa vụ theo Hiệp ước
Các Bên ký
kết được hưởng tất cả các quyền và thực hiện tất cả các nghĩa vụ theo Hiệp ước,
trừ trường hợp các quy định riêng của Hiệp ước này có quy định khác.
Đến ngày
31/12/1997 Hiệp ước này được mở để mọi nước Thành viên của WIPO và Cộng đồng
châu âu ký.
Điều 20. Đưa Hiệp ước vào hiệu lực
Hiệp ước
bắt đầu có hiệu lực 3 tháng sau khi có 30 văn kiện phê chuẩn hay gia nhập của
các Nước được nộp tới Tổng Giám đốc WIPO.
Điều 21. Ngày có hiệu lực để trở thành Bên tham gia
Hiệp ước
Hiệp ước sẽ
ràng buộc:
(i) 30 Nước
nói tại Điều 20 từ ngày Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực;
(ii) Các
Nước khác, từ ngày hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày Nước đó nộp văn kiện của
mình tới Tổng Giám đốc WIPO;
(iii) Cộng
đồng châu âu, từ ngày hết thời hạn 3 tháng sau khi nộp văn kiện phê chuẩn hoặc
gia nhập của mình nếu văn kiện này được nộp sau khi Hiệp ước bắt đầu có hiệu
lực theo Điều 20, hoặc 3 tháng sau khi Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực nếu như văn
kiện này được nộp trước khi Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực;
(iv) Mọi tổ
chức liên chính phủ khác được chấp nhận trở thành Bên tham gia Hiệp ước này từ
ngày hết thời hạn 3 tháng sau khi nộp văn kiện gia nhập của mình.
Điều
22. Không có bảo lưu đối với Hiệp ước
Không một
bảo nào đối với Hiệp ước này được chấp nhận.
Điều 23. Rút khỏi Hiệp ước
Các Bên ký
kết có thể rút khỏi Hiệp ước này thông qua thông báo gửi tới Tổng Giám đốc
WIPO. Việc rút khỏi này có hiệu lực một năm sau ngày Tổng Giám đốc WIPO nhận
được thông báo.
Điều 24. Ngôn ngữ của Hiệp ước
(1) Hiệp
ước được ký từng đơn bản bằng tiếng Anh, ả Rập, Trung Quốc, Pháp, Nga và Tây
Ban Nha, các bản này có giá trị ngang nhau.
(2) Văn bản
chính thức bằng những thứ tiếng khác với thứ tiếng nêu tại Khoản (1) sẽ do Tổng
Giám đốc WIPO lập ra theo yêu cầu của thành viên có liên quan phải lấy ý kiến
của tất cả các Bên ký kết có liên quan. Trong Khoản này, thì "Bên ký kết
có liên quan" có nghĩa là bất kỳ Bên ký kết nào của WIPO có ngôn ngữ chính
thức, hoặc có một trong các ngôn ngữ chính thức đang hoặc yêu cầu lập; Cộng
đồng châu âu và các tổ chức liên chính phủ có thể trở thành Bên ký kết Hiệp
ước, nếu một trong các ngôn ngữ chính thức của những tổ chức đó được yêu cầu
lập.
Điều 25. Lưu giữ
Tổng Giám
đốc WIPO là người lưu giữ Hiệp ước.
Các Bên ký
kết Liên hiệp cùng xuất phát từ lòng mong muốn, nhất trí đến mức tối đa, bảo hộ
các quyền của tác giả trong các tác phẩm văn học và nghệ thuật một cách hữu
hiệu và đồng bộ,
Công nhận
tầm quan trọng của nội dung Hội nghị Sửa đổi họp tại Stockholm năm 1967,
Quyết định
việc sửa đổi Nghị định được Hội nghị Stockholm thông qua mà vẫn duy trì không
thay đổi các Điều từ 1 đến Điều 20 và từ Điều 22 đến Điều 26 của Đạo luật này.
Các Đại
biểu toàn quyền ký tên dưới đây, sau khi đưa ra đầy đủ quyền hạn của mình và
được công nhận là hợp lệ, đã thoả thuận như sau:
Điều 1. Thành lập Liên hiệp
Các nước áp
dụng Công ước này hợp thành một Liên hiệp để bảo hộ các quyền của tác giả các
tác phẩm văn học và nghệ thuật.
(1) Thuật
ngữ "Các tác phẩm văn học và nghệ thuật" phải bao gồm mọi sản phẩm
trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kể chúng ở dưới dạng hay
hình thức thể hiện nào, chẳng hạn như sách, sách nhỏ và các tác phẩm viết khác;
bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm khác có cùng bản
chất; các tác phẩm kịch hoặc nhạc kịch; các tác phẩm nghệ thuật múa và kịch
câm; bản nhạc có lời hay không lời; các tác phẩm điện ảnh mà chúng được đồng
hoá bằng các tác phẩm được thể hiện bằng phương pháp tương tự như điện ảnh; tác
phẩm đồ họa, sơn dầu, kiến trúc, chạm trổ, điêu khắc, tranh khắc bản;
các tác phẩm nhiếp ảnh được đồng hoá bằng các tác phẩm được thể hiện bằng
phương pháp tương tự như nhiếp ảnh; các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng; các tác
phẩm minh họa, địa đồ, bản thiết kế, bản phác họa và các tác phẩm ba chiều liên
quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học.
(2) Tuy
nhiên, luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền quy định rằng các tác
phẩm nói chung hoặc bất kỳ các loại hình tác phẩm cụ thể nào không được bảo hộ
trừ khi chúng đã được ghi lại dưới một số dạng vật chất nhất định.
(3) Các tác
phẩm dịch, cải biên, cải biên âm nhạc và các chuyển thể khác từ một tác phẩm
văn học hoặc nghệ thuật phải được bảo hộ như các tác phẩm gốc mà không được
phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc.
(4) Luật
pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền xác định việc bảo hộ được thừa nhận
đối với các văn bản chính thức về lập pháp, hành pháp hoặc tư pháp và bản dịch
chính thức của các văn bản đó.
(5) Việc
biên soạn các tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật bằng cách lựa chọn và sắp xếp
nội dung của chúng, chẳng hạn như bộ bách khoa toàn thư và tuyển tập mà chúng
tạo thành các sáng tạo trí tuệ phải được bảo hộ như là một tác phẩm nhưng không
được phương hại đến quyền tác giả trong từng tác phẩm đã tạo thành từng phần
của việc biên soạn đó.
(6) Các tác
phẩm nói trong Điều này phải hưởng sự bảo hộ ở tất cả các Bên ký kết Liên hiệp.
Việc bảo hộ này phải được thực hiện vì lợi ích của tác giả và người thừa kế
quyền tác giả.
(7) Tuỳ
thuộc vào các quy định của Điều 7 (4), luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp có
thẩm quyền xác định việc áp dụng mở rộng việc áp dụng pháp luật
nước mình
cho các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, thiết kế và kiểu dáng công nghiệp cũng
như các điều kiện áp dụng cho tác phẩm này, thiết kế và kiểu dáng phải được bảo
hộ. Các tác phẩm được bảo hộ ở quốc gia gốc chỉ như là thiết kế và kiểu dáng
chỉ được quyền bảo hộ trong các nước thuộc liên hiệp khác đối với việc bảo hộ
đặc biệt như là được thừa nhận ở quốc gia đó bảo hộ các thiết kế và kiểu dáng;
tuy nhiên, nếu không có sự bảo hộ đặc biệt như vậy được thừa nhận ở quốc gia
đó, thì các tác phẩm này phải được bảo hộ như tác phẩm nghệ thuật.
(8) Việc
bảo hộ của Công ước này không áp dụng cho các tin tức thời sự hàng ngày hoặc
tin tức xã hội chỉ có tính chất đưa tin trên báo chí.
(1) Luật
pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền loại trừ việc bảo hộ được quy định
bởi Điều Khoản nói trên toàn bộ hoặc một phần bài diễn văn chính trị và những
lời phát biểu trong các quá trình tố tụng của toà án.
(2) Luật
pháp các Bên ký kết Liên hiệp cũng có thẩm quyền xác định điều kiện theo đó các
bài giảng, diễn thuyết và các tác phẩm khác có cùng bản chất mà chúng được phát
biểu trước công chúng được đăng lại trên báo chí, phát thanh hoặc truyền đạt
tới công chúng bằng vô tuyền và việc truyền bá công khai tới công chúng như
được quy định tại Khoản 1 Điều 11 bis khi việc sử dụng này được giải thích bởi
mục đích thông tin.
(3) Tuy
nhiên, tác giả phải hưởng độc quyền thực hiện việc biên soạn các tác phẩm của
họ mà chúng được đề cập ở Khoản trên.
(1) Việc
bảo hộ theo Công ước phải áp dụng cho:
(a) Tác giả là công dân
của một trong các Bên ký kết Liên hiệp, cho dù tác phẩm của họ đã hoặc chưa
công bố;
(b) tác giả không phải là
công dân của một trong các Bên ký kết Liên hiệp, nhưng tác phẩm của họ được
công bố lần đầu tiên ở một trong Bên ký kết hoặc đồng thời công bố tại một nước
nằm ngoài Liên hiệp và một nước là thành viên Liên hiệp.
(2) Tác giả
không phải là công dân của một trong các Bên ký kết Liên hiệp nhưng họ cư trú
thường xuyên ở một Bên ký kết thì phải xem như là công dân ở Bên ký kết đó vì
mục đích của Công ước này.
(3) Thuật
ngữ "Tác phẩm đã công bố" nghĩa là các tác phẩm đã công bố với sự
đồng ý của tác giả, không phân biệt phương pháp sản xuất các bản sao, với điều
kiện rằng giá trị của các bản sao này đáp ứng được nhu cầu hợp lý của công
chúng quan tâm đến bản chất của tác phẩm. Việc biểu diễn tác phẩm kịch, nhạc
kịch, điện ảnh, diễn tấu tác phẩm âm nhạc, đọc trước công chúng tác phẩm văn
học, truyền bá bằng hữu tuyến hoặc phát thanh tác phẩm văn học, nghệ thuật,
triển lãm tác phẩm mỹ thuật và xây dựng tác phẩm kiến trúc không được coi là
xuất bản.
(4) Một tác
phẩm được xuất bản lần đầu tiên mà trong vòng 30 ngày được xuất bản ở hai nước
hoặc trên hai nước, thì tác phẩm đó được coi là xuất bản đồng thời ở nhiều
nước.
(1) Tác giả
được liệt kê dưới đây dù không đáp ứng được điều kiện theo quy định tại Điều 3,
vẫn được bảo hộ theo Công ước này:
(a) Trụ sở
của nhà sản xuất phim, hoặc tác giả tác phẩm điện ảnh thường trú ở một Bên ký
kết của Liên hiệp;
(b) Tác giả
của tác phẩm kiến trúc được xây dựng ở một nước thuộc Liên hiệp hoặc tác phẩm
phẩm nghệ thuật khác gắn với một toà nhà hay của một phần cấu trúc ở một nước
là thành viên Liên Hiệp.
Điều
5. Các quyền được cấp: 1. và 2. Ngoài quốc gia gốc; 3. Tại quốc gia gốc; 4.
"Quốc gia gốc"
(1) Về tác
phẩm được hưởng sự bảo hộ của Công ước này, tác giả được hưởng các quyền mà
hiện nay và sau này luật pháp của các Bên ký kết của Liên hiệp dành cho công
dân của nước đó ngoài quốc gia gốc tác phẩm, cũng như là được hưởng quyền riêng
biệt của Công ước này.
(2) Việc
hưởng và thực hiện các quyền này không phải làm bất kỳ một thủ tục nào, không
kể tác phẩm đó có được bảo hộ hay không bảo hộ ở quốc gia gốc của tác phẩm. Do
đó, ngoài các điều Khoản của Công ước này, mức độ bảo hộ, cũng như phương pháp
bổ cứu được đề ra nhằm bảo hộ quyền lợi của tác giả hoàn toàn do quy định luật
pháp của quốc gia được yêu cầu bảo hộ.
(3) Việc
bảo hộ ở quốc gia gốc do luật pháp quốc gia đó quy định. Nếu tác giả không phải
là công dân của quốc gia gốc, nhưng tác phẩm được Công ước bảo hộ, thì tác giả
đó được hưởng các quyền giống như tác giả ở quốc gia đó.
(4) Quốc
gia gốc được xem là:
(a) Đối với
tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên ở một Bên ký kết Liên hiệp thì nước đó là
quốc gia gốc; trường hợp các tác phẩm được xuất bản đồng thời ở một số Bên ký
kết Liên hiệp mà thời hạn bảo hộ khác nhau, thì lấy quốc gia có thời hạn bảo hộ
ngắn nhất làm quốc gia gốc;
(b) Đối với
tác phẩm được xuất bản đồng thời ở một nước không là Bên tham gia Liên hiệp và
ở một nước là Bên tham gia Liên hiệp thì nước xuất bản sau là quốc gia gốc;
(c) Đối với
tác phẩm chưa xuất bản hoặc lần đầu tiên xuất bản ở nước không là Bên tham gia
Liên hiệp và không đồng thời xuất bản ở Bên ký kết của Liên hiệp, thì quy định:
i. Tác phẩm
điện ảnh mà nhà sản xuất có trụ sở hoặc nơi thường trú ở một Bên ký kết Liên
hiệp, thì lấy nước đó làm quốc gia gốc.
ii. Tác
phẩm kiến trúc được xây dựng tại một nước là thành viên Liên hiệp hoặc tác phẩm
nghệ thuật gắn với một toà nhà hay cấu trúc khác đặt tại một nước là thành viên
Liên hiệp, thì lấy nước đó làm quốc gia gốc.
(1) Bất cứ
một nước nào không phải là thành viên Liên hiệp mà không có khả năng bảo hộ đầy
đủ cho tác phẩm của các tác giả là công dân của một Bên ký kết Liên hiệp, thì
Bên ký kết Liên hiệp có thể hạn chế việc bảo hộ đối với tác phẩm được xuất bản
lần đầu tiên của tác giả là công dân của một nước không phải là thành viên Liên
hiệp mà không thường trú ở một Bên ký kết Liên hiệp. Nếu quốc gia xuất bản lần
đầu tiên áp dụng quyền lợi này, thì các Bên ký kết khác của Liên hiệp cũng
không phải bảo hộ một cách rộng rãi đối với quốc gia xuất bản lần đầu tiên đó
dù cho tác phẩm đó đã được sự đãi ngộ đặc biệt.
(2) Bất cứ
sự hạn chế nào được quy định ở Khoản trên đều không ảnh hưởng đến các quyền mà
tác giả đã được hưởng đối với tác phẩm đã xuất bản ở một trong những Bên ký kết
Liên hiệp trước khi sự hạn chế này được thực thi.
(3) Những
Bên ký kết Liên hiệp nếu muốn áp dụng Điều này để có sự hạn chế đối với việc
bảo hộ quyền tác giả bằng một văn bản thông báo cho Tổng giám đốc Tổ chức Trí
tuệ thế giới (gọi tắt là Tổng giám đốc), nêu rõ quốc gia bị hạn chế sự bảo hộ
và quyền lợi của tác giả là công dân các nước bị hạn chế. Tổng giám đốc sẽ
thông báo ngay điều đó cho các Bên ký kết Liên hiệp.
(1) Không
chịu sự ảnh hưởng của quyền kinh tế, thậm chí cả sau khi quyền kinh tế nói trên
được chuyển nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền đòi thừa nhận mình là tác giả
tác phẩm và có quyền phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi, hoặc
những hành vi xâm hại khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự
và tiếng tăm của tác giả.
(2) Sau khi
tác giả chết, quyền lợi giành cho tác giả theo quy định ở Khoản trên vẫn được
duy trì ít nhất cho đến khi chấm dứt các quyền kinh tế, cá nhân hoặc tổ chức
được hưởng quyền có thể thực hiện theo pháp luật ở quốc gia bảo hộ. Nhưng những
quốc gia khi phê chuẩn, hoặc gia nhập Công ước này mà luật pháp quốc gia đó
không bao gồm việc đảm bảo toàn bộ quyền lợi ở Khoản 1 nhằm bảo hộ sau khi tác
giả chết, các quốc gia đó có quyền quy định không bảo lưu một số quyền lợi nào
đó hay những quyền lợi nói trên sau khi tác giả chết.
(3) Việc
dùng biện pháp bồi thường nhằm đảm bảo quyền mà Công ước này thừa nhận, sẽ do
luật pháp quốc gia bảo hộ quyết định.
(1) Thời
hạn bảo hộ theo Công ước này sẽ là suốt cuộc đời của tác giả và năm mươi năm
sau khi tác giả chết.
(2) Nhưng
đối với tác phẩm điện ảnh, các quốc gia thành viên Liên hiệp có thể quy định
thời hạn bảo hộ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được phổ biến đến công chúng
với sự đồng ý của tác giả hoặc nếu tác phẩm sau khi hoàn thành mà trong vòng 50
năm không phổ cập tới công chúng tính từ ngày sáng tạo ra tác phẩm, thì thời
hạn bảo hộ sẽ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được hoàn thành.
(3) Đối với
những tác phẩm không rõ tên hay bút hiệu, thời hạn bảo hộ do Công ước này quy
định sẽ chấm dứt 50 năm kể từ khi tác phẩm được phổ biến đến công chúng một
cách hợp pháp. Nhưng khi căn cứ vào bút hiệu mà tác giả sử dụng để xác định
thân phận của tác giả mà không chút nghi ngờ thì thời hạn bảo hộ sẽ áp dụng như
quy định tại Khoản 1. Nếu tác giả của tác phẩm không rõ tên hay bút hiệu tiết
lộ thân phận của mình trong thời gian đã nói ở trên, thì thời hạn bảo hộ sẽ áp
dụng như quy định ở Khoản 1. Các Bên ký kết Liên hiệp không có nghĩa vụ bảo hộ
những tác phẩm không rõ tên hay bút hiệu trong trường hợp có đủ lý do khảng
định tác giả đã chết được 50 năm.
(4) Thời
hạn bảo hộ tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ như tác
phẩm nghệ thuật do luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp quy định; nhưng thời hạn
này không ngắn hơn 25 năm kể từ khi tác phẩm được hoàn thành.
(5) Thời
hạn bảo hộ sau khi tác giả chết và những thời hạn được quy định ở các Khoản 2,3
và 4 trên đây được bắt đầu tính từ khi tác giả chết hay từ những biến cố đã nói
ở trên, tuy nhiên, thời hạn này chỉ được tính từ ngày 1 tháng 1 năm tiếp theo
sau khi chết hay biến cố đã nói.
(6) Các Bên
ký kết Liên hiệp có quyền quy định thời hạn bảo hộ dài hơn các thời hạn quy
định ở những Khoản trên.
(7) Các Bên
ký kết Liên hiệp bị ràng buộc bởi Công ước Roma và khi ký kết Công ước này, thì
quy định của luật pháp trong nước hiện hành về thời hạn bảo hộ lại ngắn hơn quy
định nói ở các Khoản trên, có quyền duy trì thời hạn ngắn hơn đó trong khi gia
nhập hay phê chuẩn Công ước.
(8) Dù thế
nào, thì thời hạn sẽ do luật pháp quốc gia yêu cầu bảo hộ quy định; nhưng, trừ
khi luật pháp của quốc gia đó quy định khác đi, thời hạn bảo hộ đó không vượt
quá thời hạn mà ở quốc gia gốc của tác phẩm đã quy định.
Điều
7bis. Thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm đồng tác giả
Quy định
của Khoản trên cũng được áp dụng đối với tác phẩm đồng tác giả, nhưng thời hạn
bảo hộ sẽ được tính sau khi tác giả cuối cùng chết.
Điều 8. Quyền dịch thuật
Tác giả của
các tác phẩm văn học nghệ thuật được Công ước này bảo hộ trong suốt thời hạn
hưởng quyền bảo hộ trên đối với tác phẩm gốc, và còn được hưởng độc quyền dịch
và cho phép dịch tác phẩm.
Điều 9. Quyền sao in: 1. Điểm chung; 2. Ngoại lệ; 3.
Thu thanh và thu hình
(1) Tác giả
của các tác phẩm văn học nghệ thuật được Công ước này bảo hộ được hưởng quyền
riêng biệt từ việc cho phép sao in lại các tác phẩm đó dưới bất kỳ phương thức
hay hình thức nào.
(2) Luật
pháp quốc gia thành viên Liên hiệp có quyền cho phép sao in lại những tác phẩm
nói trên trong một vài trường hợp đặc biệt, miễn là sự sao in đó không ảnh
hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm hoặc không làm phương hại một
cách vô cớ đến quyền lợi hợp pháp của tác giả.
(3) Bất cứ
việc ghi âm hay ghi hình nào đều được xem là sao in lại theo nghĩa của Công ước
này.
(1) Được sử
dụng trích dẫn từ một tác phẩm đã được phổ biến hợp pháp tới công chúng, kể cả
việc sự trích dẫn từ các bài báo và tập san định kỳ dưới hình thức điểm báo,
chỉ cần phù hợp với việc sử dụng hợp lý, trong phạm vi yêu cầu chính đáng để
đạt được mục đích.
(2) Luật
pháp của các Bên ký kết Liên hiệp và những hiệp định đặc biệt đã có hoặc sẽ ký
kết giữa các Bên ký kết quy định quyền sử dụng tác phẩm văn học hay nghệ thuật
bằng cách trích dẫn để minh họa trong các xuất bản phẩm, các buổi phát thanh,
ghi âm hoặc ghi hình nhằm mục đích giảng dạy, chỉ cần sử dụng trong phạm vi yêu
cầu chính đáng và phù hợp với việc sử dụng hợp lý .
(3) Cần
phải nói rõ xuất xứ của trích dẫn và sử dụng nó tại các Khoản trên, đồng thời
cũng cần nói rõ tên tác giả.
(1) Luật
pháp quốc gia thành viên Liên hiệp có thể cho phép đăng lại trên báo chí, phát
lại trên đài truyền thanh hoặc phương tiện thông tin đại chúng bằng đường dây
những bài viết đã đăng có tính chất thời sự về kinh tế, chính trị hay tôn giáo
đã được đăng trên báo chí hoặc tác phẩm truyền thanh có cùng tính chất tương
tự, nhưng việc sao lại, phát thanh hoặc truyền đạt bằng dây cáp ấy giới hạn ở
chỗ khi chưa biết rõ xuất sứ; trách nhiệm pháp luật đối với việc vi phạm nghĩa
vụ này sẽ do pháp luật của quốc gia yêu cầu bảo hộ xác định.
(2) Luật
pháp quốc gia thành viên Liên hiệp cũng có thể quy định trong những điều kiện
nào những tác phẩm văn học hay nghệ thuật được nhìn thấy hoặc nghe thấy trong
một buổi thông tin thời sự qua hình ảnh hay phim hoặc phát thanh hay truyền đạt
tới quần chúng bằng đường dây, có thể được sao in lại và phổ cập tới công chúng
trong phạm vi nhu cầu chính đáng nhằm mục đích thông tin.
(1) Tác giả
các tác phẩm kịch, nhạc kịch và âm nhạc được hưởng các quyền riêng biệt sau:
i. Biểu
diễn và diễn tấu công khai các tác phẩm của mình, bao gồm việc biểu diễn và
diễn tấu công khai dưới bất kỳ hình thức hoặc phương thức nào;
ii. Biểu
diễn và diễn tấu tác phẩm của mình bằng bất kỳ phương thức nào.
(2) Tác giả
của tác phẩm kịch hoặc nhạc kịch được hưởng quyền lợi đối với tác phẩm dịch của
họ giống như họ được hưởng quyền lợi đối với tác phẩm gốc trong suốt thời gian
bảo hộ.
1. Tác giả
của các tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng các quyền riêng biệt sau:
i. Quyền
phát thanh tác phẩm hoặc bằng phương pháp truyền đạt của mình bằng ký hiệu, âm
thanh hoặc hình ảnh để phổ biến tác phẩm tới công chúng;
ii. Quyền
phát thanh để phổ biến tác phẩm tới công chúng do một tổ chức khác phát thanh
bằng dây cáp hoặc chuyển tiếp ngoài tổ chức phát thanh đầu tiên;
iii. Quyền
truyền đạt tới công chúng bằng loa phóng thanh hay bất kỳ phương tiện nào tương
tự như vậy để truyền ký hiệu, âm thanh hay hình ảnh.
2. Điều
kiện để thực thi các quyền nói ở Khoản trên do luật pháp quốc gia thành viên
Liên hiệp quy định, nhưng các quốc gia phải quy định giới hạn chặt chẽ có hiệu
lực đối với các quyền đó. Trong bất kỳ trường hợp nào, những điều kiện đó không
được làm hại đến quyền tinh thần của tác giả, cũng như không làm tổn hại đến
quyền mà tác giả được nhận thù lao hợp lý, trong trường hợp không có sự thoả
thuận về thù lao thì cơ quan chủ quan quy định.
3. Nếu
không có quy định nào khác, căn cứ vào các quyền ở Khoản 1, không có nghĩa là
có quyền dùng thiết bị ghi âm hoặc ghi hình để ghi lại tác phẩm phát sóng.
Nhưng, luật pháp của quốc gia thành viên Liên hiệp có thể ban hành văn bản quy
định tổ chức phát sóng dùng thiết bị của mình để ghi lại nhất thời chương trình
do tổ chức của mình đã phát sóng. Luật pháp quốc gia thành viên cũng có thể phê
chuẩn để cơ quan lưu trữ Nhà nước lưu giữ những sản phẩm ghi lại có tính chất
văn hiến đặc biệt.
1. Tác giả
của tác phẩm văn học được hưởng quyền riêng biệt sau đây:
i. Quyền
công khai đọc tác phẩm bao gồm các cách hoặc phương thức đọc công khai;
ii. Quyền
dùng các phương thức để công khai đọc tác phẩm của mình.
2. Tác giả
tác phẩm văn học được hưởng quyền lợi đối với tác phẩm trong suốt thời gian bảo
hộ, đối với bản dịch tác phẩm của mình, tác giả cũng được hưởng quyền giống như
vậy.
Điều 12. Quyền cải biên và sắp xếp các sửa đổi khác
Tác giả tác
phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng quyền riêng biệt đối với việc cải biên âm
nhạc và các biến động khác đối với tác phẩm của mình.
1. Mỗi quốc
gia thành viên Liên hiệp có thể quy định sự bảo lưu và điều kiện liên quan đến
quyền riêng biệt cho tác giả của tác phẩm âm nhạc và tác giả lời cho phép phổ
nhạc đối với việc cho phép ghi âm tác phẩm âm nhạc và tác phẩm âm nhạc có lời.
Nhưng sự hạn chế chặt chẽ đối với sự bảo lưu và điều kiện đó do quốc gia tự quy
định, và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm phương hại đến quyền
lợi hưởng thù lao hợp lý của tác giả, trong trường hợp không có thoả thuận, thì
cơ quan chủ quản quy định.
2. Việc ghi
âm tác phẩm âm nhạc ở quốc gia thành viên Liên hiệp theo Khoản 3 Điều 13 của
các Công ước ký kết ở Rôma ngày 2/6/1928, ở Bruxelles ngày 26/6/1948 có thể
được sao in lại trong nước mà không cần có sự đồng ý của tác giả tác phẩm âm
nhạc trong thời gian là hai năm tính từ ngày có sự ràng buộc của Công ước này
đối với quốc gia đó.
3. Sản phẩm
ghi âm được sản xuất theo Khoản 1, 2 của Điều này, nếu chưa có sự phê chuẩn của
bên có liên quan thì quốc gia làm ra sản phẩm ghi âm đó được xem là xâm phạm
quyền ghi âm, có thể bị tịch thu.
1. Tác giả
tác phẩm văn học, nghệ thuật được hưởng quyền riêng biệt sau đây:
i. Quyền
cải biên tác phẩm và tái tạo thành điện ảnh và phát hành tác phẩm cải biên, tái
tạo đó;
ii. Quyền
biểu diễn, diễn tấu công khai tác phẩm cải biên, tái tạo đó và truyền tới công
chúng bằng hữu tuyến.
2. Tác phẩm
điện ảnh được sáng tạo từ tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc cải biên bằng bất
cứ hình thức nghệ thuật nào khác, trong trường hợp không có sự cản trở của tác
giả tác phẩm điện ảnh, thì vẫn phải được phép của tác giả tác phẩm gốc.
3. Quy định
ở Khoản 1 Điều 13 không áp dụng cho điện ảnh.
1. Trong
trường hợp không làm phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm đã được cải biên
hoặc tái tạo, tác phẩm điện ảnh sẽ được bảo hộ như một tác phẩm gốc. Người sở
hữu quyền tác giả tác phẩm điện ảnh được hưởng giống như tác giả tác phẩm gốc
bao gồm cả quyền đã nói ở Điều trên.
2. (a) Việc
xác định người sở hữu quyền tác giả tác phẩm điện ảnh, thuộc phạm vi quy định
trong pháp luật của quốc gia được yêu cầu bảo hộ.
(b) Tuy
nhiên, ở những Bên ký kết Liên hiệp mà luật pháp thừa nhận người sở hữu quyền
tác giả thuộc về những người làm ra tác phẩm điện ảnh, những tác giả này đã có
sự đóng góp các công việc nói trên, trừ phi có quy định ngược lại hoặc đặc biệt
thì không được phản đối việc sao in lại, phát hành, biểu diễn, diễn tấu công
khai, truyền bá bằng hữu tuyến, phát thanh, phổ biến công khai tới công chúng,
phụ đề hay lồng tiếng tác phẩm điện ảnh đó.
(c) Việc áp
dụng đầy đủ điểm b nói trên là ở chỗ có hay không có hợp đồng bằng văn bản hoặc
bằng văn thư tương tự, văn bản này được luật pháp quốc gia nơi nhà sản xuất tác
phẩm điện ảnh đặt trụ sở hay thường trú quy định. Tuy nhiên, luật pháp quốc gia
thành viên Liên hiệp nơi sự bảo hộ được áp dụng có thể hợp đồng bằng văn bản
hoặc một văn thư tương tự. Những nước mà luật pháp quy định như vậy phải thông
báo bằng văn bản nói rõ cho Tổng giám đốc, văn bản nói rõ này lập tức được Tổng
giám đốc thông báo cho tất cả các Bên ký kết Liên hiệp.
(d) Thuật
ngữ "quy định ngược lại hay đặc biệt" là chỉ bất cứ điều kiện có tính
hạn chế nào có liên quan phải phù hợp với những điểm nói ở trên.
3. Trừ
trường hợp luật pháp quốc gia thành viên quy định khác đi, quy định ở Khoản b
Khoản 2 không áp dụng đối với tác giả của kịch bản, đối thoại và âm nhạc được
sáng tác cho việc thực hiện tác phẩm điện ảnh, cũng không áp dụng đối với đạo
diễn chính tác phẩm điện ảnh. Nhưng, nếu luật pháp quốc gia thành viên Liên
hiệp chưa có quy định áp dụng Khoản b Khoản 2 đối với đạo diễn chính của điện
ảnh, phải báo cho Tổng giám đốc bằng một văn bản nói rõ, văn bản này lập tức
được Tổng giám đốc thông báo cho tất cả các Bên ký kết Liên hiệp.
1. Đối với
bản gốc tác phẩm nghệ thuật và bản thảo của nhà văn và nhà soạn nhạc, thì tác
giả hoặc những cá nhân hay tổ chức được sở hữu quyền tác giả theo luật pháp
quốc gia sau khi tác giả chết sẽ được hưởng lợi ích đối với bất kỳ việc mua bán
nào của tác phẩm đó sau khi tác giả của tác phẩm đã chuyển nhượng lần đầu.
2. Chỉ có
trong trường hợp luật pháp của quốc gia nơi tác giả sinh sống thừa nhận sự bảo
hộ đó thì mới có thể yêu cầu bảo hộ theo quy định tại điểm nói trên ở các quốc
gia là thành viên Liên hiệp.
3. Phương
thức và tỷ lệ hưởng lợi do luật pháp của các quốc gia quy định.
1. Để tác
giả của tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng sự bảo hộ của Công ước này,
chỉ cần tên của tác giả được xuất hiện trên tác phẩm dưới hình thức thông
thường, trong trường hợp không có chứng cứ ngược lại, có thể nhìn nhận tác giả
của tác phẩm đó có quyền khởi tố người xâm phạm quyền lợi của mình ở các quốc
gia thành viên Liên hiệp. Nếu tác giả dùng tên giả, chỉ cần căn cứ vào tên giả
đó để xác định thân phận của tác giả mà không có chút nghi vấn, thì cũng có thể
áp dụng Khoản này.
2. Cá nhân
hoặc pháp nhân được ghi tên trên tác phẩm theo như thông lệ, trừ phi có bằng
chứng ngược lại, thì được xem là nhà sản xuất tác phẩm điện ảnh đó.
3. Đối với
tác phẩm không rõ tên và tác phẩm mang tên giả, ngoài trường hợp nêu ở Khoản 1,
nếu tên của nhà xuất bản xuất hiện trên tác phẩm và nếu không có chứng cứ ngược
lại, thì người xuất bản được coi là đại diện của tác giả, và có đủ tư cách giữ
gìn, thực hiện các quyền của tác giả. Khi tác giả công khai thân phận của mình
và chứng minh mình là chủ sở hữu tác giả tác phẩm, thì quy định của Khoản này
lập tức ngừng áp dụng.
4. (a) Đối
với tác phẩm chưa xuất bản mà chưa biết ai là tác giả, nhưng có đủ cơ sở để cho
rằng tác giả là công dân một Bên ký kết Liên hiệp, thì luật pháp quốc gia ở
nước đó chỉ định cơ quan chủ quản đại diện cho tác giả đó và có quyền giữ gìn
và thực hiện quyền lợi của tác giả ở các quốc gia thành viên Liên hiệp.
(b) Các
quốc gia thành viên Liên hiệp muốn chỉ định cơ quan chủ quản theo quy định nói
trên cần thông báo bằng văn bản cho Tổng giám đốc, trong văn bản nói rõ toàn bộ
tình hình có liên quan đến cơ quan chủ quản này. Tổng giám đốc thông báo ngay
văn bản đó cho tất cả các Bên ký kết Liên hiệp.
Điều 16. Bản sao vi phạm: 1. Tịch thu; 2. Tịch thu từ
nhập khẩu; 3. Luật được áp dụng
1. Bản sao
tác phẩm phi pháp có thể bị tịch thu ở các quốc gia thành viên Liên hiệp nơi
tác phẩm được hưởng sự bảo hộ của luật pháp.
2. Quy định
ở Khoản trên cũng được áp dụng cho bản sao đến từ quốc gia mà tác phẩm nào đó
không được bảo hộ, hoặc chấm dứt bảo hộ.
3. Việc
tịch thu sẽ được thực hiện theo luật pháp của mỗi quốc gia.
Điều 17. Khả năng kiểm soát sự lưu thông, thể hiện và
trưng bày tác phẩm
Nếu cơ quan
chủ quản của bất cứ nước nào là thành viên Liên hiệp cho rằng cần phải có quyền
thông qua luật pháp hoặc thực hiện giám sát hoặc ngăn cấm đối với việc phát
hành, trình diễn hay triển lãm bất kỳ tác phẩm nào, thì các điều Khoản của Công
ước này không cản trở các quyền đó của Chính phủ các Bên ký kết Liên hiệp.
1. Công ước
này áp dụng cho tất cả những tác phẩm chưa hết thời hạn bảo hộ và chưa thuộc về
lĩnh vực công cộng ở quốc gia gốc vào thời điểm Công ước này có hiệu lực.
2. Nhưng,
nếu tác phẩm hết thời hạn bảo hộ đã có trước đây và đã thuộc về lĩnh vực công
cộng ở một quốc gia yêu cầu sự bảo hộ, thì tác phẩm đó sẽ không được bảo hộ trở
lại.
3. Việc áp
dụng nguyên tắc trên phải căn cứ vào các quy định trong các Công ước đặc biệt
có liên quan đã được ký hoặc sẽ được ký giữa các quốc gia thành viên Liên hiệp.
Trong trường hợp không có những điều Khoản như thế, từng nước quy định riêng
những điều kiện áp dụng nguyên tắc nói trên.
4. Những
quy định nói trên cũng được áp dụng trong trường hợp những quốc gia mới tham
gia Liên hiệp và trong những trường hợp sự bảo hộ được gia hạn bằng việc áp
dụng Điều 7 hay bằng việc rút các bảo lưu.
Điều 19. Mở rộng hơn việc bảo hộ so với điều Khoản của
Công ước
Nếu luật
pháp của các Bên ký kết Liên hiệp đề ra việc mở rộng sự bảo hộ các điều Khoản
của Công ước này cũng không cản trở sự đòi hỏi áp dụng quy định đó.
Điều 20. Điều ước riêng giữa các Nước thuộc Liên hiệp
Chính phủ
các nước thành viên Liên hiệp có quyền bảo lưu quyền phát sinh từ những điều
ước mà các nước đã ký kết riêng với nhau nếu những điều ước này mang lại cho
tác giả những quyền rộng lớn hơn những quyền do Công ước quy định, hoặc bao gồm
những quy định không trái với Công ước.
Các điều
khoản của những điều ước hiện hành đáp ứng điều kiện nói trên vẫn được áp dụng.
NHỮNG ĐIỀU KHOẢN ĐẶC
BIỆT LIÊN QUAN ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Những
nước được Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc coi là nước đang phát triển, khi phê
chuẩn hoặc gia nhập Nghị định thư này mà Bản phụ lục là một bộ phần cấu thành
nhưng do tình hình kinh tế xã hội hoá nhu cầu về văn hoá mà trước mắt chưa thể
sắp xếp đảm bảo cho việc tiến hành bảo hộ toàn bộ quyền lợi được quy định trong
Nghị định thư này, thì đồng thời với việc nộp văn bản phê chuẩn hoặc hoặc gia
nhập hoặc trong trường hợp không vi phạm điểm c Khoản 1 Điều V của Bản phụ lục
vào một thời điểm nào khác sau đó, có thể tuyên bố cho Tổng giám đốc là mình áp
dụng quyền được quy định ở Điều 2 hoặc quyền được quy định tại Điều 3 hoặc
quyền được quy định ở cả hai Điều đó trong Bản phụ lục. Nước nói trên có thể
thay vì tuyên bố sử dụng khả năng quy định ở Điều II, ra tuyên bố thể theo Điểm
a Khoản 1 Điều V.
2. (a). Mọi
tuyên bố được thông báo trước khi hết hạn 10 năm quy định ở Khoản 1 kể từ ngày
bắt đầu có hiệu lực của những Điều từ 1 đến 21 và Khoản 2 Điều 28 và Bản phụ
lục này đều có hiệu lực cho đến hết thời hạn nói trên. Bất kỳ tuyên bố nào đều
có thể được gia hạn toàn bộ hay một phần cho mỗi thời hạn 10 năm tiếp theo bằng
một thông báo nộp cho Tổng giám đốc không quá 15 tháng nhưng không ít hơn 3
tháng trước khi hết thời hạn 10 năm hiện hành.
(b) Mọi
tuyên bố theo Khoản 1 được thông báo sau khi hết thời hạn 10 năm kể từ ngày bắt
đầu có hiệu lực của các Điều từ 1 đến 21 và Khoản 2 Điều II của Bản phụ lục này
sẽ có giá trị cho đến khi hết thời hạn 10 năm hiện hành. Tuyên bố đó có thể
được kéo dài như quy định trong câu thứ hai của điểm a.
3. Những
Bên ký kết Liên hiệp đã không còn được coi là nước đang phát triển theo Khoản
1, không còn có tư cách tuyên bố kéo dài như đã quy định ở Khoản 2, dù có chính
thức rút lui tuyên bố hay không, nước đó không thể sử dụng các khả năng được
nêu trong Khoản 1 kể từ ngày hết hạn thời gian 10 năm hiện hành hoặc sau khi
hết thời hạn ba năm kể từ ngày nước đó không còn được coi là nước đang phát
triển, hai thời hạn đó thời hạn nào dài hơn sẽ được áp dụng.
4. Nếu vào
thời điểm tuyên bố theo Khoản 1 hoặc 2 không còn hiệu lực nữa, nhưng còn tồn
tại một số bản sao đã được sản xuất nhờ vào giấy phép được cấp theo quy định
của Bản phụ lục này, thì những bản sao đó có thể được tiếp tục phát hành cho
đến khi bán hết.
5. Những
nước bị ràng buộc bởi những quy định của Công ước này và đã nộp một tuyên bố
hay một thông báo theo Khoản 1 Điều 31 về việc áp dụng Đạo luật này cho một
lãnh thổ riêng biệt có tình trạng được coi là tương tự với tình trạng các nước
nói ở Khoản 1, thì trong trường hợp đó đều có thể tuyên bố theo Khoản 1 và
thông báo gia hạn theo Khoản 2 đôí với lãnh thổ đó trong thời gian tuyên bố hay
thông báo này còn có giá trị, thì các quy định của Bản phụ lục được áp dụng cho
lãnh thổ đã nói.
6. (a).
Việc một nước sử dụng bất kỳ quyền nào đã được nêu trong Khoản 1 không cho phép
một nước khác đưa ra sự bảo hộ tác phẩm thấp hơn các Điều từ 1 đến 20 đối với
các tác phẩm có nước gốc là nước đã nêu ở trên.
(b). Quyền
bình đẳng được quy định tại câu thứ hai điểm b Khoản 2 Điều 30 không được áp
dụng với các tác phẩm có nước gốc là nước đã có tuyên bố áp dụng điểm a Khoản 1
Điều V cho đến khi hết thời hạn quy định ở Khoản 3 Điều I.
1. Bất kỳ
nước nào tuyên bố áp dụng quyền nêu trong Điều này, đối với các tác phẩm đã
xuất bản dưới dạng in ấn hay các dạng sao in tương tự, được phép thay thế độc
quyền dịch quy định trong Điều 8 bằng một giấy phép không độc quyền và không
được phép chuyển nhượng do cơ quan có thẩm quyền cấp theo các điều kiện dưới
đây và phù hợp với Điều IV.
2. (a). Trừ
trường hợp quy định tại Khoản 3, nếu một tác phẩm xuất bản lần đầu tiên sau khi
hết thời hạn 3 năm hay một thời gian dài hơn do luật pháp quốc gia nói trên quy
định mà người sở hữu quyền dịch hoặc người hưởng quyền chưa cho phép nước đó
xuất bản tác phẩm dịch bằng ngôn ngữ thông dụng, thì bất kỳ công dân nào của
nước nói trên có thể xin được giấy phép để dịch tác phẩm đó sang ngôn ngữ thông
dụng của nước đó và xuất bản bản dịch đó dưới dạng in ấn hay các dạng sao in
tương tự.
(b). Nếu
các số lượng bản dịch bằng ngôn ngữ có thể liên quan đã được bán hết, cũng có
thể được cấp giấy phép căn cứ theo Điều này.
3. (a).
Trong trường hợp dịch sang một thứ ngôn ngữ không thông dụng ở một hay nhiều
nước phát triển là thành viên Liên hiệp, thì thời hạn một năm sẽ thay thế cho
thời hạn ba năm nói ở điểm a Khoản 2.
(b). Với
thoả thuận nhất trí của các nước phát triển là thành viên Liên hiệp có cùng một
ngôn ngữ thông dụng chung, bất kỳ nước nào nêu ở Khoản 1 trên đều có thể dịch
sang ngôn ngữ đó, và căn cứ vào thoả thuận nói trên để thay thế thời hạn 3 năm
được nói trong điểm a Khoản 2 bằng một thời hạn ngắn hơn, nhưng không được dưới
một năm. Tuy nhiên, các quy định của câu trên đây sẽ không được áp dụng trong
trường hợp ngôn ngữ đó là tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Tây Ban Nha. Những
thoả thuận nói trên cần thông báo cho Tổng giám đốc rằng Chính phủ các nước đã
ký.
4.(a).
Những giấy phép được cấp sau 3 năm theo quy định ở Điều này, khi cần có thể bổ
sung thời hạn trên 6 tháng nữa mới được cấp; còn giấy phép được cấp sau thời
hạn 1 năm khi cần có thể bổ sung thêm thời hạn là 9 tháng
i. Kể từ
ngày người xin giấy phép hoàn thành các thủ tục nêu trong Khoản 1 Điều IV; hoặc
ii. Nếu
không biết tên và địa chỉ của người sở hữu quyền dịch, thì kể từ ngày người xin
cấp giấy phép gửi đơn xin cấp giấy phép, theo quy định tại Khoản 2 Điều IV lên
cơ quan có thẩm quyền.
(b). Nếu
chưa hết thời hạn 6 tháng hay 9 tháng nói trên, người sở hữu quyền dịch hoặc
người hưởng quyền do xuất bản bản dịch sang thứ ngôn ngữ trong đơn đề nghị, thì
không được căn cứ vào Điều này để cấp giấy phép.
5. Bất cứ
giấy phép nào được cấp theo Điều này chỉ giới hạn dùng cho việc giảng dạy, học
tập hay nghiên cứu.
6. Nếu bản
dịch một tác phẩm do người sở hữu quyền dịch hay người hưởng quyền xuất bản với
giá bán tương ứng với giá thông thường được áp dụng trong nước có tham gia cho
các tác phẩm tương tự, nếu bản dịch ra cùng một ngôn ngữ và cơ bản có cùng một
nội dung như bản dịch được xuất bản nhờ có giấy phép, thì mọi giấy phép được
cấp theo Điều này bị xoá bỏ. Những bản đã được in ra trước khi giấy phép bị xoá
bỏ có thể được tiếp tục bán cho đến khi hết.
7. Đối với
các tác phẩm được cấu thành chủ yếu bằng minh hoạ thì giấy phép cho việc dịch
và xuất bản phần văn tự dịch cũng như in ấn văn tự và xuất bản phần minh hoạ
chỉ có thể được cấp nếu thực hiện các điều kiện quy định tại Điều III.
8. Khi tác
giả đình chỉ phát hành tất cả các bản in của tác phẩm, thì không được căn cứ
vào Điều này để cấp bất cứ giấy phép nào.
9. (a).
Giấy phép dịch một tác phẩm đã được xuất bản dưới hình thức in ấn hay một hình
thức sao in tương tự nào khác, cũng có thể được cấp cho tổ chức phát thanh có
trụ sở trong một nước nói ở Khoản 1 sau khi cơ quan đó đã đệ đơn lên cơ quan có
thẩm quyền trong nước nói trên, nhưng phải phù hợp với toàn bộ các điều kiện
sau đây:
i) Bản dịch
được dịch ra từ một bản được in và phù hợp với luật pháp quốc gia của nước đó;
ii) Bản
dịch chỉ để dùng trong những buổi phát thanh dành cho việc giảng dạy hay cho
việc phổ biến các thông tin có tính chất khoa học hay kỹ thuật dành cho các
chuyên gia chuyên ngành đặc biệt;
iii) Bản
dịch đó chỉ được dùng riêng vào mục đích nói ở mục ii và trong các buổi phát
thanh hợp pháp dành cho thính giả trên lãnh thổ của các nước đó, kể cả việc
phát thanh từ các bản ghi âm hay ghi hình được thực hiện một cách hợp pháp và
chỉ dành riêng cho các buổi phát thanh đó;
iv) Tất cả
việc sử dụng bản dịch đó đều không mang tính chất kinh doanh nào.
b) Các bản
ghi âm hay ghi hình của một bản dịch do một tổ chức phát thanh thực hiện nhờ có
giấy phép được cấp theo Khoản này, cũng có thể được sử dụng bởi bất kỳ một tổ
chức phát thanh khác có trụ sở trong nước mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp giấy
phép đó với những mục đích và theo các điều kiện đã nêu lên ở mục a và có sự
đồng ý của cơ quan này.
c) Nếu phù
hợp tất cả các tiêu chuẩn và điều kiện nêu trong mục a, giấy phép cũng được cấp
cho tổ chức phát thanh để dịch tất cả các bài giảng trong tài liệu giảng dạy
nghe nhìn được làm ra và xuất bản để chuyên dùng cho đại học, trung học và tiểu
học.
d) Trong
trường hợp không vi phạm các mục từ a đến c, các quy định của các Khoản nêu
trên được áp dụng cho việc phân phát và sử dụng các loại giấy phép được cấp
theo Khoản này.
1. Mọi quốc
gia đã đưa ra tuyên bố áp dụng quyền được quy định trong Điều này có quyền xin
phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép không độc quyền và không thể
chuyển nhượng theo các điều kiện dưới đây và căn cứ vào Điều IV của Bản phụ lục
để thay thế cho quyền sao in riêng biệt quy định tại Điều 9.
2. (a). Đối
với tác phẩm mà Điều này được áp dụng theo quy định ở Khoản 7, sau khi đã:
i) Hết kỳ
hạn đã quy định ở Khoản 3, được tính từ lần xuất bản đầu tiên của một ấn bản
nhất định của tác phẩm, hoặc
ii) Hết một
thời hạn dài hơn do luật pháp quốc gia nói ở Khoản 1 quy định và cũng được tính
như trên,
Nếu các bản
sao của ấn bản đó không được chủ sở hữu quyền sao in hoặc người hưởng quyền ở
nước đó bán với giá tương đương với giá các tác phẩm tương tự thông thường
trong nước đã nói, để thoả mãn nhu cầu của đồng đảo công chúng và giảng dạy
trong đại học, trung học, tiểu học thì bất cứ công dân nào của nước đó đều có
thể xin được một giấy phép sao in và xuất bản ấn bản đó để bán cùng một giá
hoặc rẻ hơn nhằm mục đích giảng dạy đại học, trung học, tiểu học.
b) Cũng có
thể được cấp giấy phép theo những điều kiện được quy định trong Điều này để sao
in và xuất bản một ấn bản đã được phát hành như đã nói ở điểm a nếu như sau khi
hết hạn đã chỉ định mà các bản sao có phép đó không còn được bán ra trong suốt
thời gian 6 tháng ở nước đó, để đáp ứng đòi hỏi của công chúng hoặc hệ thống
giảng dạy với một giá tương đương với giá bán các tác phẩm trong nước đó.
3. Thời hạn
nói ở mục i điểm a Khoản 2 là 5 năm. Nhưng:
i) Đối với
tác phẩm thuộc số học, khoa học tự nhiên gồm cả toán học và kỹ thuật là 3 năm.
ii) Đối với
tác phẩm tiểu thuyết, thơ ca, kịch, nhạc và các sách mỹ thuật là 7 năm.
4. (a). Sau
thời hạn 3 năm theo quy định của Điều này cho giấy phép mới được cấp, cần phải
chờ hết thời gian 6 tháng mới có thể được cấp
i) Kể từ
ngày người xin phép làm xong các thủ tục quy định ở Khoản 1 Điều IV; hay
ii) Trong
trường hợp không biết danh tính hay địa chỉ của người sở hữu quyền sao in, thì
tính từ ngày người xin phép đã gửi đơn lên cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép
theo quy định ở Khoản 2 Điều IV.
(b) Trong
những trường hợp giấy phép được cấp sau một Khoảng thời hạn khác và Khoản 2
Điều IV được áp dụng thì giấy phép không được cấp trước khi kết thúc một thời
hạn 3 tháng kể từ ngày gửi đơn xin cấp giấy phép.
(c) Nếu
trong thời gian 6 hoặc 3 tháng quy định tại điểm a và b, tác phẩm được đem bán
như đã nói ở điểm a Khoản 2 thì không một giấy phép nào được cấp theo Điều này.
(d) Khi tác
giả đã đình chỉ phát hành toàn bộ bản sao in tác phẩm đó được cấp giấy phép cho
tiến hành sao in và xuất bản, khi đó không một giấy phép nào được cấp nữa.
5. Trong
các trường hợp sau đây không được căn cứ vào Điều này để cấp giấy phép cho việc
sao in và xuất bản một tác phẩm dịch:
i) Khi bản
dịch đó không phải do người sở hữu quyền dịch hoặc người hưởng quyền dịch xuất
bản.
ii) Khi bản
dịch không phải là một ngôn ngữ thông dụng ở nước sở tại mà giấy phép được cấp.
6. Nếu các
bản sao in của một ấn bản của một tác phẩm được người sở hữu quyền hoặc người
hưởng quyền tái bản bán ở trong nước như nói ở Khoản 1 tương đương với giá thị
trường của những tác phẩm tương tự nhằm đáp ứng nhu cầu đông đảo công chúng
hoặc cho giảng dạy đại học, trung học, tiểu học, thì các giấy phép đã được cấp
theo Điều này sẽ hết hiệu lực nếu ấn bản đó có cùng một ngôn ngữ và có cùng một
nội dung như ấn bản đã được xuất bản theo giấy phép được cấp trước đó. Những
bản sao in ra trước khi giấy phép hết hiệu lực có thể được tiếp tục bán cho đến
khi hết.
7. (a).
Ngoài trường hợp quy định tại điểm b, những tác phẩm được áp dụng Điều Khoản
này chỉ giới hạn đối với các tác phẩm được xuất bản dưới dạng in ấn hoặc sao in
tương tự.
(b) Điều
này cũng được áp dụng cho việc sao in tác phẩm được bảo hộ với hình thức nghe
nhìn hoặc tư liệu nghe nhìn được bảo hộ và cũng được áp dụng cho văn bản dịch
của mỗi tác phẩm văn tự dùng trong tư liệu nghe nhìn của bản dịch ngôn ngữ
thông dụng trong nước cấp giấy phép, mục đích duy nhất trong việc làm ra và
xuất bản được đề cập đến trong Điều này là sử dụng cho giảng dạy đại học, trung
học, tiểu học.
1. Việc cấp
giấy phép được nói ở Điều II và Điều III của Bản phụ lục chỉ có thể được cấp
nếu người xin cấp theo đúng các thể thức hiện hành ở nước liên quan, chứng minh
được rằng mình đã tuỳ trường hợp xin người sở hữu quyền cho phép thực hiện và
xuất bản bản dịch hoặc sao in và xuất bản một ấn bản mà bị từ chối, hay là sau
khi đã làm hết cách mà không tìm được người sở hữu quyền đó. Đồng thời với việc
xin phép người sở hữu quyền đó, người xin cấp cũng phải thông báo cho bất kỳ
trung tâm thông tin quốc gia hay quốc tế nào được nêu ở Khoản 2.
2. Nếu
người xin cấp giấy phép không có cách nào tìm được người sở hữu quyền, thì
người xin cấp phải gửi bảo đảm bằng máy bay bản sao các đơn từ đã nộp cho nhà
chức trách có quyền cấp giấy phép tới nhà xuất bản có tên in trên tác phẩm,
cũng như tới trung tâm thông tin quốc gia hoặc quốc tế có thể đã được Chính phủ
của nước nơi mà nhà xuất bản có trụ sở hoạt động chính cho phép trong một thông
báo đã gửi lên Tổng Giám đốc về việc đó.
3. Tên tác
giả phải được nêu rõ trên tất cả các bản sao in của bản dịch hay của bản sao in
được xuất bản nhờ giấy phép được cấp theo Điều II hoặc Điều III. Tên tác phẩm
phải được ghi trên mỗi bản sao. Nếu là một bản dịch thì tên tác phẩm gốc cũng
phải được ghi trên các bản sao in này trong bất kỳ trường hợp nào.
4. (a).
Giấy phép được cấp theo Điều II hay Điều III không được mở rộng việc xuất khẩu
các bản sao in, giấy phép chỉ dùng cho việc xuất bản và có giá trị tuỳ từng
trường hợp hoặc bản dịch hoặc sao in trong lãnh thổ của quốc gia nơi giấy phép
đã được cấp.
(b) Để áp
dụng điểm a thì hình thức xuất khẩu sẽ bao gồm việc gửi các bản sao từ bất cứ
vùng lãnh thổ nào tới nước đã có tuyên bố theo Khoản 5 Điều I trong lãnh thổ
nước đó.
(c) Khi một
cơ quan Chính phủ hay một công sở nào khác của nước đã cấp giấy phép theo Điều
II để dịch sang một thứ tiếng khác không phải là tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc
tiếng Tây Ban Nha bằng việc gửi các phiên bản của bản dịch đã được xuất bản nhờ
giấy phép đó sang một nước khác, thì việc gửi các bản sao đó sẽ không được xem
là xuất khẩu trong việc áp dụng ở điểm a nhưng phải phù hợp các điều kiện sau:
i) Những
người nhận là các cá nhân, công dân của một nước mà cơ quan có thẩm quyền đã
cấp giấy phép nói trên hoặc các tổ chức do các công dân cấu thành;
ii) Các bản
sao in chỉ dùng cho giảng dạy, học tập hoặc nghiên cứu;
iii) Việc
gửi các bản sao in và việc phân phát sau đó cho các người nhận không mang tính
chất kinh doanh; và
iv) Nước
nhận các bản sao in đó đã ký hiệp định với nước mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp
giấy phép, việc phê chuẩn quyền nhận hoặc quyền phân phối bản sao in hoặc cả
hai quyền đó, thì Chính phủ của nước tiếp nhận phải thông báo hiệp định đó cho
Tổng giám đốc.
5. Trên tất
cả các bản sao in được xuất bản nhờ giấy phép được cấp theo Điều II hay Điều
III đều phải ghi chú bằng thứ ngôn ngữ có liên quan, nêu rõ là các bản đó chỉ
được phát hành ở trong nước hay lãnh thổ được áp dụng giấy phép nói trên.
6 (a).
Trong phạm vi quốc gia cần có quy định thoả đáng, nhằm đảm bảo:
i) Giấy
phép đó mang lại cho người sở hữu quyền dịch hay quyền sao in một Khoản thù lao
hợp lý, mức thù lao này phù hợp với tiêu chuẩn nhuận bút thông thường mà cá
nhân của hai nước đã có đàm phán với nhau; và
ii) Đảm bảo
việc trả và chuyển tiền nhuận bút, nếu quốc gia đó còn tồn tại quy chế quản lý
ngoại hối, thì cơ quan có thẩm quyền cần đảm bảo việc chuyển tiền bằng một
thông báo cho tổ chức quốc tế để đảm bảo việc chuyển tiền bằng một ngoại tệ
chuyển đổi trên thị trường quốc tế hoặc bằng thứ tiền có giá trị.
(b). Cần
thông qua pháp luật quốc gia để có biện pháp thoả đáng, và trong mọi trường hợp
vẫn có một tác phẩm dịch chính xác hoặc việc in ấn hoàn chỉnh.
1. (a).
Những nước được quyền tuyên bố áp dụng quyền quy định ở Điều II, khi phê chuẩn
hoặc gia nhập Nghị định thư này đã không tuyên bố, thay vì tuyên bố đó, có thể:
i) Nếu nước
đó áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 30 thì ra tuyên bố theo quy định có liên quan
đến quyền dịch của Điều này;
ii) Nếu
nước đó không áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 30 thì dù nước đó là Bên tham gia
Liên hiệp, thì nước đó cần căn cứ vào câu thứ nhất của điểm b Khoản 2 Điều 30
để ra tuyên bố.
(b). Trong
trường hợp một nước không còn được xem là nước đang phát triển theo Khoản 1
Điều I của Bản phụ lục thì việc tuyên bố theo Khoản này vẫn tiếp tục có hiệu
lực cho đến khi hết thời hạn áp dụng đã quy định ở Khoản 3 Điều I của Bản phụ
lục.
(c). Bất kỳ
nước nào đã ra tuyên bố theo Khoản này sau đó sẽ không còn được áp dụng quyền
quy định tại Điều II, cho dù sau khi thu hồi tuyên bố nói trên cũng không được
áp dụng.
2. Ngoài
trường hợp nói ở Khoản 3, bất kỳ nước nào đã áp dụng quyền được quy định tại
Điều II thì sau đó không được tuyên bố theo Khoản 1 nữa.
3. Bất cứ
nước nào không còn được coi là một nước đang phát triển theo Khoản 1 Điều I của
Bản phụ lục có thể chậm lắm là hai năm trước khi chấm dứt thời hạn áp dụng
Khoản 3 Điều I của Bản phụ lục có thể căn cứ vào câu đầu của điểm b Khoản 2
Điều 30 để ra tuyên bố cho dù nước đó là Bên tham gia Liên hiệp. Tuyên bố đó có
hiệu lực hết thời hạn áp dụng Khoản 3 Điều I của Bản phụ lục.
1. Mọi quốc
gia thành viên Liên hiệp, kể từ ngày có Nghị định thư này và vào bất kỳ thời
gian nào trước khi bị ràng buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Bản phụ lục này đều
có thể ra tuyên bố dưới đây:
i) Quốc
gia, một khi bị ràng buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Bản phụ lục, tức là có
quyền áp dụng quyền này trong Khoản 1 Điều I, có thể ra tuyên bố rằng mình sẽ
áp dụng những quy định ở Điều II hay Điều III hoặc là cả hai Điều đó cho những
tác phẩm có quốc gia gốc là một nước theo quy định ở mục ii sau đây, chấp nhận
việc áp dụng các Điều này cho những tác phẩm đã nói, hoặc là một nước bị ràng
buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Bản phụ lục; tuyên bố nói trên có thể đưa ra
theo Điều V thay vì theo Điều II;
ii) Tuyên
bố rằng mình chấp nhận để các nước đã tuyên bố theo mục i trên đây hoặc đã
thông báo theo Điều I của Bản phụ lục và áp dụng Bản phụ lục này cho những tác
phẩm xuất xứ từ quốc gia gốc.
2. Những
tuyên bố theo Khoản 1 phải bằng một văn bản và phải gửi cho Tổng giám đốc.
Tuyên bố đó có hiệu lực kể từ ngày được nộp.
Hiệp ước
được Hội nghị Ngoại giao của WIPO về một số vấn đề về quyền tác giả và quyền kề
cận thông qua tại Geneva, ngày 20/12/1996.
-------------------------------------
[1] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 1(4): như quy định ở Điều 9 của Công ước
Berne và các ngoại lệ được cho phép theo đó, quyền sao chép hoàn toàn áp dụng
trong môi trường kỹ thuật số, đặc biệt đối với việc sử dụng các tác phẩm ở dạng
kỹ thuật số. Điểm này được hiểu là việc lưu giữ một tác phẩm được bảo hộ dưới
dạng kỹ thuật số trong môi trường điện tử tạo thành việc sao chép theo nghĩa
của Điều 9 Công ước Berne.
[2] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 3: khi áp dụng Điều 3 của Hiệp ước, được
hiểu rằng thuật ngữ "nước thuộc Liên hiệp" ở các điều từ Điều 2 đến
Điều 6 của Công ước Berne phải được xem như là nói đến các Bên ký kết Hiệp ước
này trong việc áp dụng các Điều Khoản của Công ước Berne nói trên đối với việc
bảo hộ được quy định trong Hiệp ước này. Hiểu tương tự đối với thuật ngữ
"nước ngoài Liên hiệp" ở các Điều Khoản trên của Công ước Berne,
trong các trường hợp tương tự cũng được xem như là nói tới nước không phải là
Bên ký kết Hiệp ước này và thuật ngữ "Công ước này" ở các Điều 2(8),
2bis(2), 3, 4 và 5 của Công ước Berne phải được xem là nói đến Công ước Berne
và Hiệp ước này. Cuối cùng, được hiểu rằng liên quan đến các Điều 3 tới 6 của Công
ước Berne về "công dân của một trong các nước thuộc Liên hiệp", khi
các Điều này được áp dụng đối với Hiệp ước này, có nghĩa là công dân của một
trong các nước thành viên của của tổ chức liên chính phủ là thành viên của Hiệp
ước này.
[3] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 4: phạm vi bảo hộ đối với chương trình máy
tính theo Điều 4 của Hiệp ước này cùng với Điều 2 là phù hợp với Điều 2 của
Công ước Berne và các quy định tương ứng của Hiệp định TRIPS.
[4] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 5: phạm vi bảo hộ đối với sưu tập dữ liệu
theo Điều 5 của Hiệp ước này, cùng với Điều 2 là phù hợp với Điều 2 của Công
ước Berne và tương đương với các Điều Khoản tương ứng của Hiệp định TRIPS.
[5] Tuyên
bố được thông qua liên qụan đến Điều 6 và 7: như được sử dụng ở các Điều này,
thuật ngữ "bản sao" và "bản gốc và bản sao", tuỳ thuộc vào
quyền phân phối và quyền cho thuê theo các Điều này, chỉ đề cập tới các bản đã
được định hình và có thể đưa vào lưu thông như các vật hữu hình.
[6] Tuyên
bố được thông qua liên qụan đến Điều 6 và 7: như được sử dụng ở các Điều này,
thuật ngữ "bản sao" và "bản gốc và bản sao", tuỳ thuộc vào
quyền phân phối và quyền cho thuê theo các Điều này, là chỉ đề cập tới các bản
đã được định hình và có thể đưa vào lưu thông như các vật hữu hình.
[7] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 7: điểm này được hiểu rằng nghĩa vụ tuân
theo Điều 7(1) không buộc nước thành viên quy định độc quyền cho thuê thương
mại cho tác giả mà không được hưởng các quyền này theo luật pháp nước đó đối
với bản ghi âm. Điểm này được hiểu rằng nghĩa vụ này cũng phù hợp với điều
14(4) của Hiệp định TRIPS.
[8] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 8: điểm này được hiểu là chỉ riêng việc
cung cấp phương tiện vật chất để tạo điều kiện hoặc để thực hiện truyền đạt
không tới mức truyền đạt theo nghĩa của Hiệp ước này hoặc Công ước Berne. Được
hiểu là không có quy định nào ở Điều 8 ngăn cấm nước thành viên áp dụng Điều
11bis(2).
[9] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 10: điểm này được hiểu rằng các quy định
của Điều 10 cho phép nước thành viên đưa ra và mở rộng một cách hợp lý đến các
hạn chế và ngoại lệ trong môi trường kỹ thuật số theo luật pháp nước mình.
Tương tự như vậy, các quy định này phải được hiểu là cho phép nước thành viên
đặt ra các hạn chế và ngoại lệ mới phù hợp trong môi trường mạng kỹ thuật số.
Điểm này
cũng được hiểu là Điều 10(2) không giảm đi cũng không mở rộng phạm vi khả năng
áp dụng các hạn chế và ngoại lệ được phép theo Công ước Berne.
[10] Tuyên
bố được thông qua liên quan đến Điều 12: Điểm này được hiểu rằng nói tới
"sự vi phạm bất kể quyền nào được quy định trong Hiệp ước này hoặc Công
ước Berne " bao gồm cả quyền độc quyền và quyền hưởng thù lao.
Điểm này
cũng được hiểu là nước thành viên sẽ không dựa vào Điều này để lập ra hoặc thi
hành các hệ thống quản lý quyền có thể gây ra việc áp đặt các thủ tục hình thức
không được phép theo Công ước Berne hoặc Hiệp ước này, ngăn cản việc tự do lưu
thông hàng hoá hoặc cản trở việc hưởng các quyền theo Hiệp ước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét