HIỆP ƯỚC
VỀ NHỮNG CƠ SỞ QUAN HỆ
NHÀ NƯỚC VÀ HỢP TÁC GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG
HOÀ TÁT-GI-KI-XTAN
Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Tát-gi-ki-xtan, sau đây gọi là hai
Bên,
Tôn
trọng các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và các tiêu chuẩn
khác của pháp luật quốc tế đã được thừa nhận,
Xuất
phát từ quan điểm cho rằng việc phát triển quan hệ cùng có lợi giữa hai nước
đáp ứng những lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước, phục vụ sự nghiệp hoà bình
và an ninh quốc tế, đặc biệt ở khu vực Châu Á,
Quyết
tâm xây dựng quan hệ giữa hai quốc gia trên nguyên tắc bình đẳng, công bằng và
hiểu biết lẫn nhau,
Với
mục đích thiết lập sự hợp tác song phương cùng có lợi trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, thương mại - kỹ thuật, môi trường, thông tin, nhân đạo, văn hoá,
và các lĩnh vực khác, đồng thời củng cố cơ sở pháp lý của sự hợp tác này,
Đã
thoả thuận như sau:
Điều
1: Hai
bên sẽ phát triển quan hệ hữu nghị, trước sau như một tuân thủ các nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, không dùng
vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực, giải quyết hoà bình các vấn đề tranh chấp,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Điều
2: Hai
bên sẽ giải quyết mọi vấn đề tranh chấp có thể nảy sinh giữa hai nước bằng các
biện pháp hoà bình phù hợp với những cam kết đã được ghi trong Hiến chương Liên
hợp quốc và các văn kiện quốc tế khác.
Hai
bên khẳng định an ninh quốc tế là sự nghiệp chung của tất cả các quốc gia và sẽ
tiến hành nhất quán sự hợp tác trong lĩnh vực này, tích cực góp phần củng cố
hoà bình, an ninh và sự tin cậy trên cơ sở song phương và đa phương.
Hai
bên cam kết không tham gia bất kỳ liên minh nào nhằm chống lại Bên kia và không
cho phép bất cứ Bên thứ ba nào sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành hoạt động
thù địch chống lại bên kia.
Điều
3: Hai
bên sẽ tăng cường trao đổi ý kiến và mở rộng hợp tác về các vấn đề Hai bên cùng
quan tâm tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế.
Điều
4: Nhằm
bảo đảm các điều kiện cần thiết cho nhân dân hai nước xích lại gần nhau, Hai
bên sẽ thúc đẩy mọi mặt việc mở rộng tiếp xúc giữa các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức xã hội và công dân hai nước.
Điều
5: Hai
bên bảo đảm các điều kiện thuận lợi để phát triển sự hợp tác song phương cùng
có lợi trong lĩnh vực kinh tế thương mại và đầu tư phù hợp với pháp luật của
mỗi Bên và các cam kết quốc tế của mình. Hai bên thấy cần thiết ký các Hiệp định
tương ứng giữa hai Chính phủ về các lĩnh vực nêu trên.
Điều
6:
Hai bên sẽ có những biện pháp nhằm hoàn thiện các phương tiện, hệ thống và các
đường liên lạc với nhau, sẽ thúc đẩy việc quá cảnh hàng hoá, phương tiện giao
thông và công dân của Bên kia qua lãnh thổ của mình và sẽ ký các Hiệp định
riêng trong lĩnh vực này.
Điều
7: Hai
bên sẽ thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả trong lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học
ứng dụng để phát triển và áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, cũng như để
hỗ trợ cho mối quan hệ trực tiếp, những sáng kiến chung của các nhà khoa học,
các viện nghiên cứu khoa học, các Liên hiệp khoa học sản xuất. Hai bên sẽ ký
các Hiệp định riêng về vấn đề này.
Điều
8: Hai
bên sẽ phát triển quan hệ và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và sẽ ký các Hiệp
định riêng trong lĩnh vực này.
Điều
9: Hai
bên coi việc mở rộng và làm sâu sắc các quan hệ văn hoá song phương không chỉ
là nhu cầu tự nhiên của nhân dân hai nước, mà còn là điều kiện cần thiết để làm
phong phù hơn di sản văn hoá thế giới. Xuất phát từ đó, Hai bên sẽ thúc đẩy việc
mở rộng trao đổi giữa các tập thể sáng tác, các nhà hoạt động văn hoá, đồng thời
đảm bảo cho công dân của Bên kia tiếp cận rộng rãi với các giá trị văn hoá của
mình.
Mỗi
bên sẽ góp phần bảo vệ và nghiên cứu di sản văn hoá và sáng tạo của Bên kia.
Điều
10:
Xuất phát từ lợi ích và khẳ năng của mình, Hai bên sẽ phát triển sự hợp tác
trong lĩnh vực bảo vệ và cải thiện môi trường, khắc phục hậu quả của các sự cố
công nghiệp và thiên tai, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, mở rộng các
ngành sản xuất sạch về sinh thái, tiến hành các biện pháp có hiệu quả cao nhằm
bảo vệ và khôi phục thiên nhiên ở Châu Á.
Điều
11: Hai
bên thừa nhận sự cần thiết phối hợp hoạt động nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
phát triển y học và y tế.
Điều
12: Hai
bên sẽ hợp tác và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm
có tổ chức, khủng bố, chuyên chở trái phép ma tuý, không tặc, đưa trái phép ra
nước ngoài người và các giá trị văn hoá, lịch sử, cũng như các dạng tội phạm
khác.
Hai
bên sẽ hợp tác trong lĩnh vực tương trợ tư pháp và sẽ ký Hiệp định riêng về vấn
đề này.
Điều
13: Quy
chế pháp lý của sở hữu Nhà nước, cũng như của tài sản của các pháp nhân và công
dân Bên này trên lãnh thổ Bên kia sẽ do các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế và
pháp luật của hai bên điều chỉnh.
Mỗi
bên bảo đảm việc bảo hộ quyền sở hữu thuộc Bên kia trên lãnh thổ của mình.
Điều
14: Hiệp
ước này không nhằm chống lại bất kỳ quốc gia nào và không liên quan đến các quyền
và nghĩa vụ của Hai bên theo các Hiệp ước song phương và đa phương với các nước
thứ ba.
Điều
15: Hai
bên sẽ giải quyết những điều khác nhau trong việc giải thích và thi hành Hiệp ước
này theo các thủ tục được quy định ở Điều 33 Hiến chương Liên hợp
quốc.
Điều
16: Hiệp
ước này có hiệu lực trong thời hạn 10 năm.
Hiệu
lực của Hiệp ước sẽ mặc nhiên được gia hạn thêm từng 05 năm một, nếu một trong
hai Bên không thông báo cho Bên kia bằng công hàm thông qua con đường ngoại
giao ý định chấm dứt hiệu lực của Hiệp ước trước khi Hiệp ước hết hạn 12 tháng.
Hiệp
ước này cần được phê chuẩn và sẽ có hiệu lực kể từ ngày trao đổi công hàm phê
chuẩn.
Làm
tại Hà Nội ngày 19 tháng 01 năm 1999 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng
Tat-gích và tiếng Nga, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau.
Trong
trường hợp có sự khác biệt trong cách giải thích các điều khoản của Hiệp ước
này, văn bản bằng tiếng Nga sẽ được dùng làm cơ sở.
Hiệp
ước về những cơ sở quan hệ Nhà nước và hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hoà Tát-gi-ki-xtan bắt đầu có hiệu lực từ ngày 21 tháng 9
năm 2000.
|
E-Ra-Khơ-Mô-Nốp (Đã ký) |
Trần Đức Lương (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét