Nội dung Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật được biên tập lại từ 04 nguồn chính: https://vbpl.vn/; www.congbao.hochiminhcity.gov.vn; https://congbao.chinhphu.vn/ và https://www.ipvietnam.gov.vn /

218 DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT

Điều 3. Một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự

Điều 3. Một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự

1. Về tình tiết “Phạm tội có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là hình thức đồng phạm có sự kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển của người đứng đầu.

2. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

  • a) Cố ý phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
  • b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
    • Ví dụ: Nguyễn Văn A là một người không nghề nghiệp, chuyên sống bằng nguồn thu thập từ việc phạm tội. Trong một thời gian, A liên tiếp thực hiện năm vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên). Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

3. Về tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc người có chức vụ, quyền hạn dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật.15 Người có chức vụ theo quy định của Bộ luật hình sự là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.

4. Về tình tiết “Phạm tội có tính chất côn đồ” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là hành động coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối an ninh trật tự, sẵn sàng dùng vũ lực, thích dùng vũ lực, tạo các băng nhóm chuyên thực hiện hành vi uy hiếp người khác phải khuất phục mình.

  • Ví dụ: Đi xe đạp, xe máy va quệt vào người khác, có khi chính mình có lỗi nhưng đã kiếm cớ để đánh hoặc giết người va chạm với mình, mặc dù có thể người kia cũng có lỗi nhỏ.

5. Về tình tiết “Phạm tội vì động cơ đê hèn” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là người thực hiện hành vi phạm tội vì tính ích kỷ cao, phản trắc, bội bạc, hèn nhác nhằm mục đích trả thù hoặc để khống chế nạn nhân và gia đình, người thân của nạn nhân phục vụ cho mưu đồ của mình hoặc vì các động cơ tư lợi, thấp hèn khác.

  • Ví dụ: giết người để cướp vợ hoặc chồng nạn nhân; giết tình nhân đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm; giết người đã cho vay, giúp đỡ khắc phục khó khăn, hoạn nạn nhằm trốn nợ,...

6. Về tình tiết “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là là quyết tâm thực hiện bằng được ý định phạm tội và hành vi phạm tội, mặc dù có sự can ngăn của người khác hoặc có những trở ngại khác trong quá trình thực hiện tội phạm.

Ví dụ: Lê Văn A và Nguyễn Văn B xảy ra va chạm khi đang điều khiển xe máy khiến cả hai nảy ra xô xát. A rút dao được cất trong cốp xe và đâm 02 nhát vào phần lưng của B. Sau một hồi chống trả thì B đã chạy thoát được nhưng A không chấm dứt hành vi của mình mà tiếp tục truy đuổi B và dùng dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào bụng B khiến B tử vong.

7. Về tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là đã có từ 02 lần phạm tội trở lên đối với một tội phạm mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

8. Về tình tiết “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu như sau:

  • a) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
  • b) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
    • - Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
    • - Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

9. Tình tiết “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự chỉ áp dụng đối với những trường hợp phạm tội do lỗi cố ý, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị cáo có nhận biết được hay không nhận biết được người bị xâm hại là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên. “Phụ nữ có thai” được xác định bằng cách chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai. Trong trường hợp thực tế khó nhận biết được người phụ nữ đó đang mang thai hay không hoặc giữa lời khai của bị cáo và người bị hại về việc này có mâu thuẫn với nhau thì để xác định người phụ nữ đó có thai hay không phải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định.

10. Về tình tiết “Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác” quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc người phạm tội lợi dụng sự không tỉnh táo, không thể phản kháng hoặc làm chủ bản thân của người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác để thực hiện hành vi phạm tội.

11. Về tình tiết “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội” quy định tại điểm l khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là ngườiphạm tội phải lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để thực hiện hành vi phạm tội.

12. Về tình tiết “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được xác định như sau:

  • a) Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội là trường hợp khi phạm tội, người phạm tội sử dụng những cách thức, phương thức thực hiện khôn khéo, kín đáo nhằm mục đích che dấu cho hành vi phạm tội làm cho bị hại hoặc những người khác khó nhận ra hoặc phát hiện ra;
  • b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao đê thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm20;
  • c) Dùng thủ đoạn tàn ác khác để phạm tội là trường hợp khi phạm tội, người phạm tội đã dùng những thủ đoạn thâm độc, tàn nhẫn21

13. Về tình tiết “Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự là trường hợp khi phạm tội, người phạm tội dùng thủ đoạn, phương tiện không chỉ nhằm xâm hại cho một người nào đó mà thủ đoạn, phương tiện đó còn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người khác.

14. Tình tiết “Xúi giục người chưa thành niên phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự chỉ áp dụng khi có hai điều kiện:

  • a) Bị cáo là người đã thành niên;
  • b) Bị cáo biết rõ người bị xúi giục là người chưa thành niên.

15. Về tình tiết “Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự được hiểu là hành động thâm độc, khó mà lường thấy trước được hoặc là hành động dữ tợn, phá phách, đánh giết người nhằm trốn tránh, tẩu thoát hoặc để che dấu tội phạm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét