1. Về việc điều tra lập hồ sơ, hoà giải, xét xử.
Các đương sự có thể gửi đơn đến các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở nơi họ đang cư trú hoặc gửi đến các Toà án nhân dân trước đây đã giải quyết việc người chồng tập kết xin ly hôn người vợ trong Nam.
Dù vụ án được thụ lý và giải quyết ở nơi nào, việc điều tra, lập hồ sơ cũng cần được tiến hành đầy đủ, chu đáo theo thu tục hiện hành, có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các Toà án nhân dân ở phía Bắc cũng như phía Nam, khi cần thiết.
Nếu có vụ án cần di lý đến các Toà án nhân dân ở phía Nam hoặc khi có yêu cầu của các Toà án nhân dân ở phía Bắc, việc cung cấp tài liệu cần đầy đủ để việc giải quyết được dễ dàng thuận lợi, nếu trước đây có giải quyết việc chồng tập kết xin ly hôn, thì phải gửi kèm theo cả hồ sơ và bản án.
Nói chung sự có mặt trước Toà án nhân dân của các đương sự là cần thiết, nhưng vì xa xôi, để tránh phiền hà cho họ, triệu tập họ để điều tra, lập hồ sơ, hoà giải và xét xử cũng cần phải cân nhắc kỹ. Có thể uỷ thác cho các Toà án nhân dân nơi đương sự đang cư trú lấy lời khai, thu thập các chứng cứ cần thiết là chính, giấy báo đến phiên toà cần được gửi đến sớm để các đương sự đủ thời gian chuẩn bị. Khi xử vắng mặt một bên đương sự, bản án cần được tống đạt cho bên đó để họ sử dụng quyền kháng án, kháng cáo theo luật định. Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật bản sao bản án đó cần được gửi đến Toà án nhân dân nơi các đương sự đang cư trú hoặc nơi sinh quán của họ để tiện việc theo dõi thi hành án.
Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các loại án kiện này là cần thiết. Nếu có mời mà Viện kiểm sát nhân dân không cử đại diện đến tham dự phiên toà được thì đề nghị Viện kiểm sát nhân dân gửi cho bản kết luận về vụ án.
Trong những trường hợp cần đề nghị Toà án nhân dân cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm, Toà án nhân dân thụ lý vụ án, cần gửi kèm theo hồ sơ một bản báo cáo cho biết đầy đủ về tình hình vụ án và nói rõ ý kiến của mình về vụ án đó.
2. Vấn đề tiêu hôn và ly hôn.
Vấn đề được đặt ra là: Khi cần xử việc xin chấm dứt quan hệ vợ chồng giữa người tập kết và người vợ mới lấy sau ở ngoài Bắc thì Toà án cần phân biệt như thế nào để xử cho ly hôn hay tiêu hôn trong các loại việc nói ở điểm 1, 2 thông tư này.
Về nguyên tắc, sau khi Luật Hôn nhân và gia đình được ban hành, người đang có vợ, có chồng không được kết hôn với người khác. Nếu vi phạm họ phải chịu chế tài về mặt dân sự và quan hệ hôn nhân bất hợp pháp phải bị tiêu huỷ.
Nhưng, như đã phân tích ở phần phương hướng chung, việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội đã có vợ, khi tập kết ra Bắc lấy vợ khác mang tính chất đặc biệt. Khi vận dụng pháp luật phải linh hoạt cho phù hợp với nội dung đường lối giải quyết các tranh chấp thuộc loại này. Vì vậy để xử chấm dứt quan hệ vợ chồng giữa người tập kết và người vợ mới lấy sau thì biện pháp cần áp dụng nói chung là xử ly hôn, biện pháp này phù hợp với yêu cầu hiện nay nhằm giải quyết tốt tư tưởng của các đương sự, nhất là đối với người vợ đang gặp những khó khăn về mặt tình cảm đồng thời đảm bảo quyền lợi của người vợ và con cái họ.
Tuy nhiên đối với trường hợp cá biệt bếu sau khi điều tra, có bằng chứng rõ ràng là người chồng tập kết đã có vợ ở trong Nam lại nói dối là chưa có vợ hoặc chỉ mới hứa hôn, nay chính người vợ lấy sau này là người bị lừa dối yêu cầu xin tiêu hôn thì mới áp dụng biện pháp tiêu hôn.
3. Về việc giải quyết vấn đề con cái và tài sản.
Việc giải quyết các vấn đề này sẽ căn cứ vào các điều quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình.
Về con cái: Việc giao con cho ai nuôi giữ, việc góp phần vào phí tổn nuôi nấng và giáo dục con cái vị thành niên, phải xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của đứa con và căn cứ vào khả năng của mỗi bên cha hoặc mẹ.
Tuy nhiên, trong trường hợp có đông con (có từ hai đứa trở lên và không còn bú) và đôi bên cha mẹ ở cách xa nhau, người ở phía Nam người ở phía Bắc không thể mõi lúc đến thăm nom con cái được, nếu họ yêu cầu giao cho mỗi bên nuôi giữ một số thì Tòa án nên chấp nhận nhằm giải quyết tình cảm của cha mẹ đối với các con, cũng như tình cảm của các con đối với cha mẹ. Nhưng đứa con còn bú nhất thiết phải giao cho mẹ.
Trong trường hợp có giải quyết khoản tiền góp vào việc nuôi dạy con, cần giúp đỡ hai bên thoả thuận vè biện pháp đóng góp (qua Bưu điện, nhà Ngân hàng, đề nghị cơ quan trích lương hàng tháng, hàng quý...) để trê ncơ sở đó mà quyết định cụ thể trong bản án.
Đối với trường hợp người cha hoặc người mẹ trốn tránh việc góp phần vào phí tổn nuôi dậy con để người nuôi giữ con gặp nhiều khó khăn trong việc nuôi dạy con, Toà án phải tìm mọi biện pháp buộc họ phải làm đầy đủ nghĩa vụ với các con.
Về tài sản: Nếu cần xử chia tài sản trong các trường hợp ly hôn, tiêu hôn trên đây. Cũng như trong các vụ ly hôn trước đây chỉ mới xử ly hôn, còn gác lại vấn đề tài sản để xét sau, thì trước khi xử chia, phải điều tra, xác minh đầy đủ về nguồn gốc, về tình trạng tài sản còn nhiều hay ít, hiện ai giữ...để việc phân chia được chính xác, thoả đáng.
Về đường lối xử lý chỉ tính vào tài sản chung để chia những tài sản của người chồng và người vợ nay phải ly hôn hay tiêu hôn mà không tính gộp cả tài sản của người vợ kia để chia.
- Đối với trường hợp trước khi ly hôn hay tiêu hôn người chồng hoặc người vợ tìm mọi cách dấu hoặc phân tán tài sản thì cần giáo dục, giải thích cho họ đem những tài sản đó ra để chia. Nếu họ không tự nguyện thì Toà án xử truy hoàn các tài sản đó để đem chia.
Trong trường hợp người chồng tập kết, sau ngày giải phóng khi trở về quê hương công tác hoặc khi đi phép về thăm quê hương, có thủ đoạn mang theo một phần lớn hoặc tát cả tiền nong, tài sản có với người vợ ngoài Bắc mà không cho vợ này biết rõ địa chỉ, hay trong trường hợp ngược lại, người chồng trở ra Bắc có thủ đoạn mang theo một phần lớn hoặc tất cả tiền nong, tài sản có với người vợ trong Nam, làm cho người vợ ở ngoài Bắc hay người vợ ở trong Nam gặp nhiều khó khăn gặp nhiều khó khăn trong đời sống thì khi thụ lý đơn kiện, Tòa án phải tìm đủ mọi cách để buộc họ có nghĩa vụ với người vợ hoặc để xử chia tài sản khi cho ly hôn hoặc tiêu hôn. Khi xử chia tài sản thì xử người chồng phải truy hoàn tài sản đã mang theo để đem chia.
Trường hợp có tính chất lừa lọc, lấy hết tài sản rồi lẩn tránh trách nhiệm với vợ con, gây tác hại lớn đến đời sống của vợ con, và gây ảnh hưởng xấu về chính trị ở địa phương Toà án nên trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân để có thể khởi tố về hình sự.
4. Về việc cấp trích lục hoặc toàn sao bản án trước đây đã xử cho người chồng tập kết ly hôn vợ ở trong Nam.
Hiện nay chưa nên đặt vấn đề cho tống đạt bản án hoặc cấp trích lục án đã xét xử vắng mặt một bên ở trong Nam, trước ngày 1-5-1975 nhưng nếu bên ở trong Nam yêu cầu được cấp trích lục án để hợp pháp hoá việc đã kết hôn với người khác thì Tòa án nhân dân nên thoả mãn yêu cầu đó.
5. Thông tư này chỉ áp dụng đối với các đối tượng là cán bộ, bộ đội đã có vợ hoặc có chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ hoặc lấy chồng khác và chỉ đóng khung trong thời gian từ sau ngày ký hiệp định Giơ-ne-vơ đến ngày Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố thống thất đất nước, Luật Hôn nhân và gia đình về nguyên tắc được áp dụng chung trong cả nước.
_Xem toàn bộ văn bản>>>>【Thông tư số 60/TATC ngày 22-02-1978】
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét