|
|
Số: 02/2002/QH11 |
Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2002 |
LUẬT
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban
hành
văn
bản quy phạm pháp luật
Căn cứ vào Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X,
kỳ họp thứ 10;
Luật này sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 11 năm
1996.
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật:
1.
Điều 1 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 1. Văn bản
quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm
pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật bao gồm:
1. Văn bản do Quốc
hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết.
Văn bản do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội ban hành: pháp lệnh, nghị quyết;
2. Văn bản do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương ban hành để thi hành văn bản
quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội:
a) Lệnh, quyết
định của Chủ tịch nước;
b) Nghị quyết,
nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
c) Quyết định, chỉ
thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
d) Nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông tư của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
đ) Nghị quyết,
thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội;
3. Văn bản do Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật
của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cùng cấp:
a) Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân;
b) Quyết định, chỉ
thị của Uỷ ban nhân dân.''
2.
Điều 3 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 3. Tham
gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
1. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh
tế, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp
ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
2. Trong quá trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự
án, dự thảo, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia góp ý kiến; tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình thức thích hợp.
3. Ý kiến tham gia
về dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu để tiếp thu
chỉnh lý dự án, dự thảo văn bản.''
3.
Điều 9 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 9. Sửa
đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy
phạm pháp luật
1. Văn bản quy
phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ bằng một
văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó
hoặc bị đình chỉ việc thi hành, huỷ bỏ, bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Văn bản sửa đổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải
xác định rõ tên văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung,
thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Văn bản quy phạm
pháp luật khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành thì vẫn còn nguyên hiệu lực và
phải được nghiêm chỉnh thi hành.
2. Khi ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản phải xác định rõ trong văn
bản đó danh mục các điều, khoản, điểm và các văn bản quy phạm pháp luật do mình
đã ban hành mà nay trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới; có trách
nhiệm sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật, điều, khoản, điểm
đó."
4.
Bổ sung Điều 12a sau Điều 12 như sau:
''Điều 12a. Giám
sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
1. Văn bản quy
phạm pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra.
2. Trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và cơ quan giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có trách
nhiệm kịp thời phát hiện và xử lý văn bản quy phạm pháp luật sai trái.
3. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cơ quan, tổ chức khác và công dân có
quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật và kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật sai trái."
5.
Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 17.
Thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Căn cứ vào Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao ban hành nghị quyết, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư."
6.
Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 22. Lập
chương trình, thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
1. Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và
yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của
công dân.
2. Cơ quan, tổ
chức, đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật được quy định tại Điều 87 của
Hiến pháp năm 1992 gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và đồng thời gửi đến Chính phủ. Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải
nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn
bản; những quan điểm, nội dung chính của văn bản; dự báo tác động kinh tế - xã
hội; dự kiến nguồn lực bảo đảm thi hành và điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
văn bản. Kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội cũng được gửi đến
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ.
Chính phủ lập dự
kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phát biểu
ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc
hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.
3. Uỷ ban pháp
luật của Quốc hội chủ trì và phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác
của Quốc hội thẩm tra dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc
hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.
4. Căn cứ vào dự
kiến của Chính phủ, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức,
đại biểu Quốc hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội, ý kiến
thẩm tra của Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội lập dự án chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội quyết định.
5. Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh bao gồm chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo
nhiệm kỳ Quốc hội và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm.
6. Quốc hội quyết
định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ trong năm đầu tiên của
mỗi khoá Quốc hội; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm
tại kỳ họp cuối năm của năm trước."
7.
Điều 25 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 25. Thành
lập Ban soạn thảo
1. Cơ quan, tổ
chức trình dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự
thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo.
2. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo trong các trường hợp sau đây:
a) Dự án luật, dự
án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực;
b) Dự án luật, dự
thảo nghị quyết của Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình;
c) Dự án luật, dự
án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
trình;
d) Dự án luật, dự
án pháp lệnh do đại biểu Quốc hội trình.
3. Ban soạn thảo
gồm Trưởng ban là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và các
thành viên là đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà
khoa học.
4. Cơ quan, tổ
chức chủ trì soạn thảo chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban
soạn thảo; chịu trách nhiệm trước cơ quan trình dự án, dự thảo về nội dung,
chất lượng của dự án, dự thảo và tiến độ soạn thảo.
5. Cơ quan, tổ
chức có thành viên trong Ban soạn thảo có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản
về dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.''
8.
Điều 26 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 26. Nhiệm
vụ của Ban soạn thảo dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
Trong việc soạn
thảo dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, Ban soạn thảo có nhiệm vụ
sau đây:
1. Tổng kết tình
hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có
liên quan đến dự án, dự thảo; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên
quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;
2. Tổ chức nghiên
cứu thông tin, tư liệu có liên quan đến dự án, dự thảo;
3. Chuẩn bị đề
cương, biên soạn và chỉnh lý dự án, dự thảo;
4. Tổ chức lấy ý
kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và các đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình thức thích hợp tuỳ theo tính chất và
nội dung của từng dự án, dự thảo;
5. Chuẩn bị tờ
trình và tài liệu liên quan đến dự án, dự thảo. Trong tờ trình nêu rõ sự cần
thiết phải ban hành, mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng và nội dung chính
của dự án, dự thảo, những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo và những vấn đề còn có
ý kiến khác nhau;
6. Phối hợp với cơ
quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị dự thảo các văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành;
7. Trong việc soạn
thảo dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, phải tính đến điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.''
9.
Điều 28 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 28. Nhiệm
vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự án
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
1. Cơ quan, tổ
chức trình dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây:
a) Chỉ đạo Ban
soạn thảo trong quá trình xây dựng dự án, dự thảo;
b) Yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến dự
án, dự thảo;
c) Xem xét, quyết
định việc trình dự án luật, dự thảo nghị quyết ra Quốc hội, trình dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp chưa
trình được dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo chương trình
thì phải kịp thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội và nêu rõ lý do.
2. Đại biểu Quốc
hội trình dự án luật, dự án pháp lệnh có nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản
1 Điều này. Văn phòng Quốc hội bảo đảm điều kiện cần thiết cho Ban soạn thảo dự
án luật, dự án pháp lệnh do đại biểu Quốc hội trình.
3. Đối với dự án
luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình, thì chậm nhất
là bốn mươi lăm ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, cơ quan, tổ chức,
đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có trách nhiệm gửi dự án, dự thảo đến
Chính phủ để Chính phủ tham gia ý kiến.
Đối với dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội không do Chính phủ
trình, thì chậm nhất là bốn mươi ngày, trước ngày khai mạc phiên họp của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có
trách nhiệm gửi dự án, dự thảo đến Chính phủ để Chính phủ tham gia ý kiến.''
10.
Bổ sung Điều 29a sau Điều 29 như sau:
''Điều 29a. Thẩm
định dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
1. Bộ tư pháp có
trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để
Chính phủ xem xét trước khi quyết định trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.
Hội đồng thẩm định
do Bộ trưởng Bộ tư pháp thành lập để thẩm định các dự án luật, dự án pháp lệnh,
dự thảo nghị quyết do Bộ tư pháp chủ trì soạn thảo.
2. Cơ quan thẩm
định tiến hành thẩm định về những vấn đề sau đây:
a) Sự cần thiết
ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự án,
dự thảo;
b) Sự phù hợp của
nội dung dự án, dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính
hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
c) Tính khả thi
của văn bản;
d) Việc tuân thủ
thủ tục và trình tự soạn thảo;
đ) Ngôn ngữ, kỹ
thuật soạn thảo văn bản.
3. Trong trường
hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo
những vấn đề thuộc nội dung dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; tự
mình hoặc cùng cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức khảo sát thực tế về những vấn
đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm
cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm định dự án, dự thảo.
4. Cơ quan chủ trì
soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến thẩm định, chỉnh lý dự án luật, dự
án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Chính phủ. Trong trường hợp có ý kiến
khác với ý kiến của cơ quan thẩm định thì cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Chính
phủ xem xét, quyết định.''
11.
Bổ sung Điều 34a sau Điều 34 như sau:
"Điều 34a. Uỷ
ban pháp luật của Quốc hội bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất
của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh
Uỷ ban pháp luật
của Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất
của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh trước khi trình
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua bằng các hoạt động sau đây:
1. Tham gia thẩm
tra các dự án luật, dự án pháp lệnh do Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của
Quốc hội chủ trì thẩm tra.
Trong trường hợp
có ý kiến khác với cơ quan chủ trì thẩm tra về tính hợp hiến, hợp pháp và tính
thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự án luật, dự án pháp lệnh thì Uỷ
ban pháp luật báo cáo với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về ý kiến của
mình;
2. Tham gia chỉnh
lý dự án luật, dự án pháp lệnh.''
12.
Điều 45 được sửa đổi, bổ sung thành các điều 45, 45a và 45b như sau:
"Điều 45. Xem
xét, thông qua dự án luật
Tuỳ theo tính chất
và nội dung của dự án luật, Quốc hội có thể xem xét, thông qua dự án luật tại
một hoặc hai kỳ họp của Quốc hội.'';
"Điều 45a.
Trình tự xem xét, thông qua dự án luật tại một kỳ họp của Quốc hội
Quốc hội xem xét,
thông qua dự án luật tại một kỳ họp theo trình tự sau đây:
1. Đại diện cơ
quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án thuyết trình về dự án;
2. Đại diện cơ
quan thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
3. Quốc hội thảo
luận tại phiên họp toàn thể về những nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn có
ý kiến khác nhau của dự án luật. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự
án luật có thể được thảo luận ở Tổ hoặc Đoàn đại biểu Quốc hội.
Trong quá trình
thảo luận, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật được trình bày
bổ sung về những vấn đề liên quan đến dự án.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội.
Trong trường hợp
cần thiết, Quốc hội biểu quyết một số nội dung của dự án luật để làm cơ sở cho
việc chỉnh lý;
4. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan trình dự án, Uỷ ban pháp
luật, Bộ tư pháp và các cơ quan hữu quan căn cứ vào ý kiến của đại biểu Quốc
hội để chỉnh lý dự thảo luật.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật;
5. Quốc hội nghe
đọc dự thảo đã được chỉnh lý; thảo luận, biểu quyết thông qua một số nội dung
còn có ý kiến khác nhau và biểu quyết thông qua dự thảo luật;
6. Dự thảo luật
được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật.
Trong trường hợp
dự thảo luật chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì việc
chỉnh lý và thông qua dự thảo luật được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 45b của Luật này.'';
"Điều 45b.
Trình tự xem xét, thông qua dự án luật tại hai kỳ họp của Quốc hội
Quốc hội xem xét,
thông qua dự án luật tại hai kỳ họp theo trình tự sau đây:
1. Tại kỳ họp thứ
nhất:
a) Đại diện cơ
quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án thuyết trình về dự án;
b) Đại diện cơ
quan thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Quốc hội thảo
luận tại phiên họp toàn thể về những nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn có
ý kiến khác nhau của dự án luật. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự
án luật có thể được thảo luận ở Tổ hoặc Đoàn đại biểu Quốc hội.
Trong quá trình
thảo luận, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật được trình bày
bổ sung về những vấn đề liên quan đến dự án;
d) Uỷ ban thường
vụ Quốc hội chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội và
chuẩn bị những nội dung cơ bản của dự án luật để trình Quốc hội biểu quyết làm
cơ sở cho việc chỉnh lý;
2. Trong thời gian
giữa hai kỳ họp của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo cơ quan chủ trì
thẩm tra, cơ quan trình dự án, Uỷ ban pháp luật, Bộ tư pháp và các cơ quan hữu
quan căn cứ vào ý kiến của đại biểu Quốc hội để chỉnh lý dự thảo luật;
3. Tại kỳ họp thứ
hai:
a) Uỷ ban thường
vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật;
b) Quốc hội nghe
đọc dự thảo đã được chỉnh lý; thảo luận, biểu quyết thông qua một số nội dung
còn có ý kiến khác nhau và biểu quyết thông qua dự thảo luật;
c) Dự thảo luật
được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật.
Trong trường hợp
dự án luật chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì việc xem
xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội.''
13.
Điều 47 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 47.
Trình tự xem xét, thông qua dự án pháp lệnh
1. Tuỳ theo tính
chất và nội dung của dự án pháp lệnh, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét,
thông qua dự án pháp lệnh tại một hoặc hai phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.
2. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh tại một phiên họp theo trình tự
sau đây:
a) Đại diện cơ
quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án thuyết trình về dự án;
b) Đại diện cơ
quan thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Đại diện các cơ
quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
d) Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thảo luận, Chủ tọa phiên họp kết luận và Uỷ ban thường vụ Quốc hội
biểu quyết thông qua dự thảo pháp lệnh;
đ) Trong trường
hợp dự thảo pháp lệnh còn có ý kiến khác nhau thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho
ý kiến về những vấn đề cần được chỉnh lý và chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra,
cơ quan trình dự án, Uỷ ban pháp luật, Bộ tư pháp và các cơ quan hữu quan chỉnh
lý dự thảo pháp lệnh.
Cơ quan chủ trì
thẩm tra báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc chỉnh lý dự thảo pháp lệnh;
e) Uỷ ban thường
vụ Quốc hội nghe đọc dự thảo đã được chỉnh lý; thảo luận, biểu quyết thông qua
một số nội dung còn có ý kiến khác nhau và biểu quyết thông qua dự thảo pháp
lệnh;
g) Dự thảo pháp
lệnh được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội biểu quyết tán thành. Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh.
3. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh tại hai phiên họp theo trình tự
sau đây:
a) Tại phiên họp
thứ nhất, việc trình và thảo luận được thực hiện theo trình tự quy định tại các
điểm a, b và c khoản 2 Điều này; Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận, biểu
quyết một số vấn đề của dự án pháp lệnh để làm cơ sở cho việc chỉnh lý;
b) Trong thời gian
giữa hai phiên họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra,
cơ quan trình dự án, Uỷ ban pháp luật, Bộ tư pháp và các cơ quan hữu quan chỉnh
lý dự thảo pháp lệnh;
c) Tại phiên họp
thứ hai, cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc
chỉnh lý dự thảo pháp lệnh.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội nghe đọc dự thảo đã được chỉnh lý, thảo luận, biểu quyết thông qua một
số nội dung còn có ý kiến khác nhau và biểu quyết thông qua dự thảo pháp lệnh;
d) Dự thảo pháp
lệnh được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội biểu quyết tán thành. Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh.
4. Trong trường
hợp dự án pháp lệnh chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì
việc xem xét, thông qua tại phiên họp tiếp theo do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quyết định theo đề nghị của cơ quan chủ trì thẩm tra."
14.
Điều 60 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 60.
Thành lập Ban soạn thảo dự thảo nghị quyết, nghị định
1. Chính phủ quyết
định cơ quan chủ trì soạn thảo nghị quyết, nghị định.
Cơ quan chủ trì
soạn thảo thành lập Ban soạn thảo.
Đối với nghị định
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 56 của Luật này thì Chính phủ quyết định thành
lập Ban soạn thảo.
2. Ban soạn thảo
gồm Trưởng ban là đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo và các thành viên là đại
diện cơ quan thẩm định và đại diện của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các
chuyên gia, các nhà khoa học.
3. Cơ quan chủ trì
soạn thảo chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban soạn thảo;
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về nội dung, chất lượng của dự thảo và tiến độ
soạn thảo.
4. Bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thành viên trong Ban soạn thảo có trách
nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về những nội dung liên quan đến lĩnh vực công tác
của mình và chịu trách nhiệm về ý kiến đó."
15.
Điều 61 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 61.
Nhiệm vụ của Ban soạn thảo dự thảo nghị quyết, nghị định
Trong việc soạn
thảo dự thảo nghị quyết, nghị định, Ban soạn thảo có nhiệm vụ sau đây:
1. Tổng kết tình
hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có
liên quan đến dự thảo; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan
đến nội dung chính của dự thảo;
2. Tổ chức nghiên
cứu thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo;
3. Chuẩn bị đề
cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo;
4. Tổ chức lấy ý
kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và các đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình thức thích hợp tuỳ theo tính chất và
nội dung của từng dự thảo;
5. Chuẩn bị tờ
trình và tài liệu liên quan đến dự thảo. Trong tờ trình nêu rõ sự cần thiết
phải ban hành, mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng và nội dung chính của dự
thảo, những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo và những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau;
6. Phối hợp với cơ
quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị dự thảo các văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành."
16.
Điều 62 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 62.
Tham gia ý kiến xây dựng dự thảo nghị quyết, nghị định
1. Tuỳ theo tính
chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, nghị định, cơ quan soạn thảo gửi bản
dự thảo tới Hội đồng dân tộc, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, cơ quan, tổ chức hữu quan, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) để tham gia ý kiến.
2. Tuỳ theo tính
chất và nội dung dự thảo nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ giao Văn
phòng Chính phủ đăng tải dự thảo nghị quyết, nghị định trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trên Internet để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý
kiến.
Cá nhân góp ý kiến
về dự thảo nghị quyết, nghị định thông qua cơ quan, tổ chức của mình, trực tiếp
hoặc gửi thư góp ý tới Văn phòng Chính phủ, cơ quan, tổ chức soạn thảo dự thảo
hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
3. Cơ quan soạn
thảo dự thảo nghị quyết, nghị định có trách nhiệm nghiên cứu các ý kiến tham
gia để tiếp thu chỉnh lý dự thảo nghị quyết, nghị định và báo cáo giải trình về
việc tiếp thu ý kiến.''
17.
Điều 63 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 63.
Thẩm định dự thảo nghị quyết, nghị định
1. Bộ tư pháp có
trách nhiệm thẩm định dự thảo nghị quyết, nghị định trước khi trình Chính phủ.
Hội đồng thẩm định
do Bộ trưởng Bộ tư pháp thành lập để thẩm định các dự thảo nghị quyết, nghị
định do Bộ tư pháp chủ trì soạn thảo.
2. Phạm vi thẩm
định dự thảo nghị quyết, nghị định theo quy định tại khoản 2 Điều 29a của Luật
này.
3. Trong trường
hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo
những vấn đề thuộc nội dung dự thảo nghị quyết, nghị định; tự mình hoặc cùng cơ
quan chủ trì soạn thảo tổ chức khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung
của dự thảo nghị quyết, nghị định. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm
cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm định dự thảo nghị quyết,
nghị định.
4. Cơ quan chủ trì
soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến thẩm định, chỉnh lý dự thảo nghị
quyết, nghị định để trình Chính phủ. Trong trường hợp có ý kiến khác với ý kiến
của cơ quan thẩm định thì cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Chính phủ xem xét, quyết
định.
5. Văn phòng Chính
phủ gửi dự thảo nghị quyết, nghị định và văn bản thẩm định đến các thành viên
Chính phủ trước phiên họp của Chính phủ. Chính phủ chỉ xem xét, thảo luận dự
thảo nghị quyết, nghị định khi đã có văn bản thẩm định."
18.
Điều 64 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 64.
Trình tự xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết, nghị định
1. Tuỳ theo tính
chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, nghị định, Chính phủ có thể xem xét,
thông qua dự thảo nghị quyết, nghị định tại một hoặc hai phiên họp của Chính
phủ.
2. Tại phiên họp
của Chính phủ, đại diện cơ quan soạn thảo thuyết trình về dự thảo; cơ quan thẩm
định trình bày ý kiến thẩm định dự thảo; đại diện cơ quan, tổ chức được mời
tham dự phiên họp phát biểu ý kiến.
3. Các thành viên
của Chính phủ thảo luận về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
4. Dự thảo nghị
quyết, nghị định được Chính phủ thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên
Chính phủ biểu quyết tán thành.
5. Thủ tướng Chính
phủ ký nghị quyết, nghị định.
6. Trong trường
hợp dự thảo nghị quyết, nghị định chưa được thông qua, thì Chính phủ cho ý kiến
về những vấn đề cần phải chỉnh lý và định thời hạn trình lại dự thảo."
19.
Điều 65 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 65.
Soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
1. Dự thảo quyết
định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ giao và chỉ đạo
việc soạn thảo.
2. Cơ quan được
giao soạn thảo có trách nhiệm xây dựng dự thảo.
3. Tuỳ theo tính
chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, cơ quan soạn thảo gửi lấy ý
kiến Hội đồng dân tộc, các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
4. Tuỳ theo tính
chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ giao Văn
phòng Chính phủ đăng tải dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên Internet để cơ quan, tổ chức, cá
nhân tham gia ý kiến.
5. Bộ tư pháp có
trách nhiệm thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
6. Cơ quan soạn
thảo chỉnh lý dự thảo và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về ý kiến của cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan.
7. Thủ tướng Chính
phủ xem xét, ký quyết định, chỉ thị.''
20.
Điều 69 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 69.
Quyết định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Quyết định, chỉ
thị, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao được ban hành để thực hiện
việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự về tổ chức; quy
định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
2. Quyết định, chỉ
thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định các biện
pháp để bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
các cấp; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.''
21.
Điều 70 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 70.
Soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Dự thảo quyết
định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Chánh án Toà án
nhân dân tối cao tổ chức và chỉ đạo việc soạn thảo.
Dự thảo quyết
định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao được Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao thảo luận và cho ý kiến. Tuỳ theo tính chất và nội
dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, thông tư, Chánh án Toà án nhân dân tối
cao quyết định gửi dự thảo quyết định, chỉ thị, thông tư để lấy ý kiến của Bộ
quốc phòng, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân địa phương,
Toà án quân sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
Chánh án Toà án
nhân dân tối cao ký quyết định, chỉ thị, thông tư.
2. Dự thảo quyết
định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức và chỉ đạo việc soạn thảo.
Dự thảo quyết
định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Uỷ
ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận và cho ý kiến. Tuỳ theo
tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, thông tư, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định gửi dự thảo quyết định, chỉ thị,
thông tư để lấy ý kiến của Toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan.
Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ký quyết định, chỉ thị, thông tư.''
22.
Điều 75 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 75.
Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
1. Luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội có hiệu
lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp văn bản đó quy
định ngày có hiệu lực khác.
2. Văn bản quy
phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng Công báo, trừ
trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
3. Văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các
văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực sau mười lăm ngày, kể từ ngày
đăng Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được quy định tại văn bản đó. Đối
với văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các
biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, thì văn bản có thể quy định ngày
có hiệu lực sớm hơn.''
23.
Bổ sung Điều 80a trước Điều 81 như sau:
''Điều 80a. Mục
đích giám sát, kiểm tra
Việc giám sát,
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành nhằm phát hiện những nội
dung sai trái của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, huỷ bỏ
hoặc bãi bỏ văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của
hệ thống pháp luật, đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xác định trách
nhiệm của cơ quan, cá nhân đã ban hành văn bản sai trái.''
24.
Bổ sung Điều 80b sau Điều 80a như sau:
''Điều 80b. Nội
dung giám sát, kiểm tra
Nội dung giám sát,
kiểm tra văn bản bao gồm:
1. Sự phù hợp của
văn bản với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên;
2. Sự phù hợp của
hình thức văn bản với nội dung văn bản đó;
3. Sự phù hợp của
nội dung văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản."
25.
Điều 82 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 82. Uỷ
ban thường vụ Quốc hội giám sát, xử lý văn bản trái pháp luật
1. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với văn bản quy phạm pháp luật của các
cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
hoặc đại biểu Quốc hội huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trái với pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội
quyết định việc huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
3. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
4. Chậm nhất là ba
ngày, kể từ ngày ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn
bản thuộc thẩm quyền giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm gửi
văn bản đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Trong trường hợp
phát hiện văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành văn bản và yêu cầu cơ quan ban hành
văn bản sửa đổi hoặc bãi bỏ theo thẩm quyền. Cơ quan ban hành văn bản phải chấp
hành ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội."
26.
Bổ sung Điều 82a sau Điều 82 như sau:
"Điều 82a.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật
1. Hội đồng dân
tộc, các Uỷ ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm
pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính
trị - xã hội thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Uỷ ban phụ trách.
Uỷ ban pháp luật
của Quốc hội còn giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Chậm nhất là ba
ngày, kể từ ngày ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản
thuộc thẩm quyền giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội có
trách nhiệm gửi văn bản đến Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.
Trong trường hợp
phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thì Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội yêu cầu cơ
quan ban hành văn bản xem xét lại văn bản để đình chỉ việc thi hành, sửa đổi
hoặc huỷ bỏ. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan
đã ban hành văn bản có trách nhiệm trả lời Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội; nếu cơ quan đã ban hành văn bản không đình chỉ việc thi hành, sửa đổi
hoặc huỷ bỏ văn bản thì Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội đề nghị Uỷ
ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Trong trường hợp
phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội yêu cầu cơ quan ban hành văn bản xem xét
lại văn bản để đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan đã ban hành văn bản có trách
nhiệm trả lời Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; nếu cơ quan đã ban
hành văn bản không đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc huỷ bỏ văn bản thì Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, xử
lý theo thẩm quyền.''
27.
Điều 83 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 83. Chính
phủ kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật
1. Chính phủ kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
2. Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn
bộ văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên; xem xét, quyết định đình chỉ thi hành một
phần hoặc toàn bộ nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp,
luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời
đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
3. Bộ tư pháp giúp
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật, giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật của
các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.''
a) Bỏ cụm từ
"cơ quan thuộc Chính phủ" tại tên của Chương V, tại các điều 18, 71,
72, 74 và khoản 2 Điều 84;
b) Bỏ cụm từ
"Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ" tại tên của Mục 1 và Mục 2 của
Chương V, tại các điều 16, 58, 66 và 84;
c) Thay cụm từ
"phân bổ ngân sách nhà nước" bằng cụm từ "phân bổ ngân sách
trung ương" tại khoản 2 Điều 20;
d) Cụm từ
"... , thì cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự án luật, dự án pháp
lệnh đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên để lấy ý
kiến" tại đoạn 2 Điều 30 được sửa thành: "..., thì cơ quan soạn thảo
có trách nhiệm gửi dự án luật, dự án pháp lệnh đến Uỷ ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và Ban chấp hành trung ương của các tổ chức thành viên có liên
quan để lấy ý kiến.";
đ) Bổ sung cụm từ
"dự thảo nghị quyết" vào sau các cụm từ "dự án luật, dự án pháp
lệnh", "dự án luật", "dự án pháp lệnh" tại Điều 29;
e) Bỏ từ
"kiểm sát" tại tên của Chương IX.
Luật này có hiệu
lực thi hành kể từ ngày công bố.
Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
Luật này đã được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ hai thông
qua ngày 16 tháng 12 năm 2002./.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI (Đã ký) Nguyễn Văn An |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét