QUỐC HỘI
Luật số: 63/2010/QH12 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
|
LUẬT
Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật
Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số
51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội số 31/2001/QH10 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân số 13/2003/QH11.
Điều 1
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội.
1. Điều 12 được sửa đổi, bổ sung
như sau:
“Điều 12
1. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội chia thành
nhiều khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là
khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
2. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến bốn
nghìn cử tri. Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù
chưa có tới ba trăm cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn quyết định và do Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường,
thị trấn thì việc chia khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập khu vực bỏ
phiếu riêng, trừ trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một
khu vực bỏ phiếu.
Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm
sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ năm mươi cử tri trở
lên có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những
người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính có thể thành lập khu
vực bỏ phiếu riêng.”
2. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 13
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội bao
gồm:
1. Hội đồng bầu cử ở trung ương;
2. Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
3. Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;
4. Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.”
3. Điều 14 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 14
1. Chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày
bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử ở trung ương để
thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp. Hội đồng bầu cử có từ mười lăm đến hai mươi mốt người gồm Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức
hữu quan.
2. Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng bầu
cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức bầu cử trong cả
nước; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của pháp luật về bầu cử;
b) Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận
động bầu cử;
c) Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an
toàn xã hội trong cuộc bầu cử;
d) Nhận và xem xét hồ sơ của người được tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân
dân, cơ quan nhà nước ở trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; gửi
tiểu sử tóm tắt của những người ứng cử đến Ban thường trực Uỷ ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Nhận hồ sơ và danh sách người ứng cử đại biểu
Quốc hội do Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh gửi đến;
e) Quy định mẫu thẻ cử tri và phiếu bầu cử đại
biểu Quốc hội;
g) Lập và công bố danh sách những người ứng cử đại
biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước;
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội của Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử
đại biểu Quốc hội do Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh hoặc Ban bầu cử chuyển đến; giải quyết khiếu nại, tố cáo về người
ứng cử đại biểu Quốc hội; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc
hội;
i) Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu
cử do Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
Ban bầu cử gửi đến; làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong
cả nước;
k) Quyết định việc bầu cử lại, bầu cử thêm đại
biểu Quốc hội hoặc huỷ bỏ kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử;
l) Công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội trong
cả nước;
m) Cấp giấy chứng nhận cho người trúng cử đại biểu
Quốc hội;
n) Trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội
khoá mới biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước và những
hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội.
4. Điều 15 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 15
1. Chậm nhất là chín mươi lăm ngày trước ngày bầu
cử, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất
với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ hai mươi mốt đến ba mươi mốt người gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức
hữu quan.
Danh sách Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được báo cáo lên Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng bầu cử.
2. Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Uỷ ban bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội ở các đơn vị bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của
pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của Ban bầu cử, Tổ bầu cử;
b) Chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên
truyền và vận động bầu cử đại biểu Quốc hội ở địa phương;
c) Chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật
tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội ở địa phương;
d) Nhận và xem xét hồ sơ của người được tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân
dân, cơ quan nhà nước ở địa phương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và hồ sơ
của người tự ứng cử đại biểu Quốc hội; gửi danh sách trích ngang và tiểu sử tóm
tắt của những người được giới thiệu ứng cử và những người tự ứng cử đại biểu
Quốc hội đến Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương;
đ) Nhận tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
từ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và phân phối cho các
Ban bầu cử chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử;
e) Lập danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc
hội theo đơn vị bầu cử và báo cáo Hội đồng bầu cử;
g) Chỉ đạo, kiểm tra việc lập và niêm yết danh
sách cử tri;
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội của Ban bầu cử, Tổ bầu cử; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
bầu cử đại biểu Quốc hội do Ban bầu cử, Tổ bầu cử chuyển đến; giải quyết khiếu
nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội;
i) Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu
cử đại biểu Quốc hội của các Ban bầu cử; lập biên bản xác định kết quả bầu cử
đại biểu Quốc hội ở địa phương;
k) Thông báo kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở
địa phương;
l) Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử
đại biểu Quốc hội theo quy định của Hội đồng bầu cử;
m) Chuyển hồ sơ, biên bản xác định kết quả bầu cử
đại biểu Quốc hội đến Hội đồng bầu cử;
n) Tổ chức việc bầu cử lại, bầu cử thêm đại biểu
Quốc hội theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
5. Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 16
1. Chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử,
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với
Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng
cấp quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ chín đến mười
lăm người gồm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban, Thư ký và các uỷ viên là đại diện
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng
cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
2. Ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của
pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Tổ bầu cử;
b) Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ
phiếu;
c) Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri;
d) Phân phối tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu
Quốc hội cho các Tổ bầu cử chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử;
đ) Niêm yết danh sách những người ứng cử đại biểu
Quốc hội trong đơn vị bầu cử;
e) Chỉ đạo, kiểm tra công việc bầu cử đại biểu
Quốc hội tại các phòng bỏ phiếu;
g) Nhận và kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử đại biểu Quốc hội do các Tổ bầu cử gửi đến; làm biên bản xác định kết
quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử để gửi đến Hội đồng bầu cử, Uỷ ban
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
h) Nhận và chuyển đến Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khiếu nại, tố cáo về người ứng cử
đại biểu Quốc hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội của các Tổ bầu cử;
i) Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử
đại biểu Quốc hội theo quy định của Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
k) Chuyển hồ sơ, tài liệu về bầu cử đến Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
l) Tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử thêm
đại biểu Quốc hội.”
6. Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 17
1. Chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu
cử, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Thường trực Hội
đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định
thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tổ bầu cử có từ mười một
đến hai mươi mốt người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tập thể
cử tri ở địa phương.
Đối với những nơi không có đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn thì Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một
Tổ bầu cử từ mười một đến hai mươi mốt người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và
các uỷ viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tập thể cử tri ở địa phương.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực
bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử từ năm đến chín người gồm Tổ trưởng, Tổ phó,
Thư ký và các uỷ viên là đại diện Chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân.
Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa
phương có chung một khu vực bỏ phiếu thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập
Tổ bầu cử từ mười một đến hai mươi mốt người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và
các uỷ viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tập thể cử tri ở địa phương, đại diện Chỉ huy đơn vị, đại diện
quân nhân.
2. Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ
phiếu;
b) Bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm phiếu;
c) Nhận tài liệu và phiếu bầu từ Ban bầu cử; phát
thẻ cử tri, phiếu bầu có đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri;
d) Thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu
cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu
cử;
đ) Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy phòng bỏ
phiếu;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử
do mình phụ trách;
g) Kiểm phiếu và làm biên bản kết quả kiểm phiếu
để gửi đến Ban bầu cử;
h) Giao biên bản kết quả kiểm phiếu và toàn bộ
phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
i) Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử
theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên;
k) Tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử
thêm.”
7. Điều 21 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 21
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại
biểu Quốc hội sau khi đã trình Quốc hội khoá mới biên bản tổng kết cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội và hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội.
Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại
biểu Quốc hội sau khi Hội đồng bầu cử kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội trong cả nước.”
8. Điều 25 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 25
Chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu cử,
cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách đó tại trụ sở Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn và tại những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời
thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm tra.”
9. Điều 26 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 26
Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai sót
thì trong thời hạn hai mươi lăm ngày, kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền
khiếu nại bằng miệng hoặc bằng văn bản với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ
quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại đó. Trong thời hạn
năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri phải
giải quyết và thông báo cho người khiếu nại biết kết quả giải quyết.
Trường hợp người khiếu nại
không đồng ý về kết quả giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân
huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn
năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu kiện, Toà án nhân dân phải giải quyết
xong. Quyết định của Toà án nhân dân là quyết định cuối cùng.”
10. Điều 46 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 46
Căn cứ vào danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội được
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội đồng
bầu cử gửi đến các Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh hữu quan danh sách những người được giới thiệu về ứng cử tại địa
phương.
Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc
hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước theo danh sách chính thức do Ban
thường trực Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh gửi đến chậm nhất là hai
mươi lăm ngày trước ngày bầu cử.
Trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội phải ghi rõ họ, tên,
ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quê quán, nơi thường trú, dân tộc,
tôn giáo, trình độ văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi làm việc của
người ứng cử. Danh sách những người ứng cử được xếp theo vần chữ cái A, B, C...
Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải
nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó; nếu đơn vị bầu cử được bầu ba đại
biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người
ứng cử vì lý do bất khả kháng thì do Hội đồng bầu cử quyết định.
Người ứng cử chỉ được ghi tên vào danh sách ứng cử
ở một đơn vị bầu cử.”
11. Điều 55 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 55
Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu
sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị
Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định”.
12. Điều 58 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 58
Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội.
Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người khác bầu thay, trừ trường
hợp quy định tại Điều 59 của Luật này; khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri.”
13. Điều 60 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 60
Khi cử tri viết phiếu bầu,
không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm
đóng dấu “đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.”
14. Điều 68 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 68
1. Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập
biên bản kết quả kiểm phiếu. Biên bản phải ghi rõ:
a) Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu;
b) Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
c) Số phiếu phát ra;
d) Số phiếu thu vào;
đ) Số phiếu hợp lệ;
e) Số phiếu không hợp lệ;
g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
h) Những khiếu nại nhận được, những khiếu nại đã giải
quyết và kết quả giải quyết, những khiếu nại chuyển đến Ban bầu cử giải quyết.
2. Biên bản được lập thành ba bản, có chữ ký của
Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Biên bản
được gửi đến Ban bầu cử và Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc xã, phường, thị trấn chậm nhất là ba ngày sau ngày bầu cử.”
15. Điều 82 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 82
Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử bổ sung, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng
nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành
lập ở đơn vị bầu cử Ban bầu cử bổ sung từ ba đến năm người gồm Trưởng ban, Phó
Trưởng ban, Thư ký và các uỷ viên là đại diện chính quyền địa phương và Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc ở địa phương.”
16. Điều 83 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 83
Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử bổ sung, Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử bổ sung từ năm
đến bảy người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tập thể cử tri ở
địa phương.”
Điều 2
Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
1. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 13
1. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
mỗi cấp chia thành một hoặc nhiều khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.
2. Việc thành lập khu vực bỏ phiếu được thực hiện
theo quy định tại Điều 12 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.”
2. Điều 15 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 15
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân bao gồm:
1. Hội đồng bầu cử ở trung ương;
2. Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ủy ban bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi chung là Ủy ban bầu cử);
3. Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã ở đơn vị bầu cử (sau đây gọi chung là Ban bầu cử);
4. Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.”
3. Bổ sung Điều 15a sau Điều 15 như sau:
“Điều 15a
1. Hội đồng bầu cử được thành lập theo quy định
tại khoản 1 Điều 14 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
2. Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Hội
đồng bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức bầu cử trong cả
nước; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của pháp luật về bầu cử;
b) Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận
động bầu cử;
c) Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an
toàn xã hội trong cuộc bầu cử;
d) Quy định mẫu phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân;
đ) Hủy bỏ kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân và quyết định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó.”
4. Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 16
1. Việc thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thực hiện theo quy định tại khoản 1
Điều 15 của Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội.
Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Chậm nhất là chín mươi lăm ngày trước ngày bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sau khi thống
nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cùng cấp quyết định thành lập Ủy ban bầu cử tương ứng gồm đại diện Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, một số cơ
quan, tổ chức hữu quan.
Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện
có từ mười một đến mười lăm người.
Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có
từ chín đến mười một người.
Ủy ban bầu cử gồm Chủ tịch, các Phó
Chủ tịch, Thư ký và các ủy viên.
Danh sách Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp huyện và cấp xã phải được báo cáo lên Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp trên trực tiếp.
3. Ủy ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
a) Chỉ đạo việc tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở địa phương; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của pháp luật
về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
b) Chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật
tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương;
c) Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận
động bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương;
d) Nhận và xem xét hồ sơ của những người được tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, thôn,
tổ dân phố ở địa phương giới thiệu ứng cử và những người tự ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân; gửi danh sách trích ngang và tiểu sử tóm tắt của những
người ứng cử và những người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đến Ban thường
trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp;
đ) Giải quyết những khiếu nại, tố cáo về công tác
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của các Ban bầu cử, Tổ bầu cử;
e) Công bố số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị
và số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa
phương mình;
g) Nhận hồ sơ và công bố danh sách những người ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo từng đơn vị bầu cử; giải quyết những khiếu
nại, kiến nghị về việc lập danh sách đó;
h) Nhận tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân từ Uỷ ban nhân dân cùng cấp và phân phối cho các Ban bầu cử chậm nhất
là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử;
i) Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân do các Ban bầu cử gửi đến; làm biên bản tổng kết
cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương;
k) Chỉ đạo việc bầu cử thêm, bầu cử lại đại biểu
Hội đồng nhân dân theo quy định tại các điều 62, 63, 64 và 65 của Luật này;
l) Công bố kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân;
m) Trình Hội đồng nhân dân biên bản tổng kết cuộc
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và chuyển giao các hồ sơ, tài liệu về cuộc
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật này.”
5. Khoản 1 Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Chậm nhất là bốn mươi lăm ngày
trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân sau khi thống
nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử gồm đại
diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Ở cấp
xã, thành phần Ban bầu cử có thêm đại diện tập thể cử tri ở địa phương.
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh có từ mười một đến mười ba người.
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp huyện có từ chín đến mười một người.
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã có từ bảy đến chín người.
Ban bầu cử gồm Trưởng ban,
Phó Trưởng ban, Thư ký và các ủy viên.”
6. Điều 18 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 18
1. Tổ bầu cử được thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu
để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và bầu cử đại
biểu Quốc hội.
2. Việc thành lập Tổ bầu cử, nhiệm vụ, quyền hạn
của Tổ bầu cử được thực hiện theo quy định tại Điều 17 của Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội.”
7. Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 22
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân sau khi các Ủy ban bầu cử đã trình biên bản tổng kết
cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân
dân khoá mới.
Ủy ban bầu
cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử
đã trình biên bản tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp
thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới.
Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử kết thúc việc tổng kết công
tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.”
8. Điều 37 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 37
Hội nghị cử tri ở xã,
phường, thị trấn tổ chức theo đơn vị thôn, tổ dân phố do Ban thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
cùng cấp triệu tập và chủ trì.
Hội nghị cử tri ở cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp do Thủ trưởng cơ quan hoặc người đứng đầu của tổ chức phối
hợp với Ban chấp hành công đoàn cùng cấp triệu tập và chủ trì. Hội nghị cử tri
ở đơn vị vũ trang nhân dân là Hội nghị quân nhân do lãnh đạo, Chỉ huy đơn vị
triệu tập và chủ trì.
Người được giới thiệu ứng cử, tự ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố có người ứng cử được mời tham
dự các hội nghị này.
Tại các hội nghị này, cử tri đối chiếu với tiêu
chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân để nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người
tự ứng cử, người được giới thiệu ứng cử bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín
theo quyết định của Hội nghị.
Biên bản Hội nghị cử tri lấy ý kiến về những người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham
dự, diễn biến, kết quả Hội nghị. Biên bản Hội nghị cử tri lấy ý kiến về những
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì gửi đến Ban thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cấp đó để chuẩn bị cho Hội nghị hiệp
thương lần thứ ba.
Ủy ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Uỷ ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc tổ chức Hội nghị cử tri nơi
làm việc và nơi cư trú.”
9. Điều 44 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 44
Hội đồng bầu cử chỉ đạo công
tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử trong phạm vi cả nước. Các Ủy
ban bầu cử chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử tại địa
phương mình.”
10. Điều 48 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 48
Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối.
Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng
không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá mười
giờ đêm.
Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu
trước sự chứng kiến của cử tri.”
11. Điều 54 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 54
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu phải được tiến
hành liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu
thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong giấy tờ và hòm phiếu, kịp thời báo cáo
cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để cuộc bỏ
phiếu được tiếp tục.
Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày
quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Ủy
ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.”
12. Điều 64 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 64
Hội đồng bầu cử huỷ bỏ cuộc bầu cử ở đơn vị bầu cử
có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng theo đề nghị của Chính phủ và quyết
định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó.”
13. Điều 70 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 70
Chậm nhất là hai mươi ngày
trước ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân
dân, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
cấp đó thành lập Ủy ban bầu cử bổ sung từ ba đến năm người và chậm nhất là mười
lăm ngày trước ngày bầu cử bổ sung, thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử bổ sung một
Ban bầu cử bổ sung từ ba đến năm người gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội.
Ủy ban bầu cử bổ sung gồm Chủ tịch, Thư ký và ủy viên.
Ban bầu cử bổ sung gồm
Trưởng ban, Thư ký và ủy viên.”
14. Điều 71 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 71
Chậm nhất là mười ngày trước
ngày bầu cử bổ sung, Uỷ ban nhân dân cấp xã thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu
một Tổ bầu cử bổ sung từ năm đến bảy người gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và tập thể cử tri ở địa phương.
Tổ bầu cử bổ sung gồm Tổ
trưởng, Tổ phó, Thư ký và các ủy viên.”
Điều 3
1. Thay thế cụm từ “Ủy ban bầu cử” tại các điều 18, 19, 28, 31, 38, 40, 45, 49, 50,
69, 71, 72, 73, 75, 76 và 84 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội bằng cụm từ “Ủy
ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh”.
Thay thế cụm từ “Đoàn Chủ
tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” tại Điều 39 và Điều 84 của Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội bằng cụm từ “Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam”.
2. Thay thế cụm từ “Hội đồng bầu cử” tại các điều 12, 17, 21, 29, 31, 32, 36, 38, 40,
41, 43, 60, 62, 63, 66, 67 và 74 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
bằng cụm từ “Ủy ban bầu cử”.
Điều 4
1. Luật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các
điều, khoản được giao trong Luật; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của
Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010.
|
CHỦ TỊCH QUỐC
HỘI (Đã ký) Nguyễn Phú
Trọng |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét