|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà
Nội, ngày 17 tháng 3 năm 2020 |
NGHỊ ĐỊNH
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thi hành án dân sự
Căn
cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày
19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự ngày 14 tháng 11 năm 2008;
Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
hành án dân sự ngày 25 tháng 11 năm 2014;
Theo đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp;
Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự:
1. Khoản 3 Điều 3 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
“3. Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được
thi hành án đối với khoản tiền, tài sản thuộc sở hữu nhà nước không yêu cầu thi
hành án thì cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp; cơ quan đại diện chủ sở hữu của
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó có trách nhiệm chỉ đạo việc yêu cầu thi hành án.”
2. Điểm b khoản 3 và điểm đ khoản 4
Điều 4 được sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Điểm b khoản 3 Điều 4
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“b) Trở ngại khách quan
là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải
do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu
cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc
đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách, giải thể, chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp
mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo
quy định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc
cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng
hạn.”
b) Điểm đ khoản 4 Điều 4
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“đ) Đối với trường hợp hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải
thể, chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp thì phải có văn bản hợp pháp chứng minh thời gian chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi
hành án.”
3. Khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 5 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
"2. Trường hợp cơ
quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có quyền tự
thỏa thuận thi hành án. Thỏa thuận phải bằng văn bản thể hiện rõ thời gian, địa
điểm, nội dung thỏa thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ
ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia. Đương sự phải chịu trách nhiệm về nội
dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không
đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba
hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.
Trường hợp các bên không
tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan thi hành án
dân sự căn cứ nội dung quyết định thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa
thuận, đề nghị của đương sự để tổ chức thi hành, trừ trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều này.
3. Trường hợp cơ
quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc
không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành một phần hoặc toàn
bộ quyết định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định
đình chỉ thi hành án đối với nội dung thỏa thuận đó theo quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự.
Trường hợp đương sự thỏa thuận đình chỉ thi hành án sau thời điểm tài sản đã được bán đấu giá thành hoặc đã
bán cho đồng sở hữu hoặc người được thi hành án đã đồng ý nhận tài sản để trừ
vào tiền thi hành án mà chưa giao được tài sản cho họ thì
việc thỏa thuận phải được sự đồng ý của người trúng đấu giá, người mua tài sản
hoặc người nhận tài sản.
Sau khi có quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự, đương sự không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại
đối với nội dung đã đình chỉ thi
hành.
4. Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách
nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận trong trường hợp quy định tại
khoản 2, khoản 3 của Điều này. Việc chứng kiến thỏa thuận phải được thực hiện tại
trụ sở cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp phát hiện thỏa thuận vi phạm điều
cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án
thì Chấp hành viên từ chối chứng kiến thỏa thuận nhưng phải nêu rõ lý do từ chối
vào biên bản thỏa thuận.”
4. Khoản 1 và khoản 3 Điều 6 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung đối với các khoản thuộc
diện chủ động thi hành trong một bản án, quyết định, trừ các trường
hợp sau đây:
a) Có người được trả lại
tiền, tài sản thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó.
b) Có người phải thi
hành nhiều khoản khác nhau thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó.
c) Một người vừa có quyền, vừa
có nghĩa vụ thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó.
3. Các khoản thu khác
cho Nhà nước thuộc diện cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định
thi hành án quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án dân sự bao gồm: khoản truy thu thuế;
khoản viện trợ cho Nhà nước; khoản bồi thường cho Nhà nước, cơ quan Nhà nước hoặc
doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ trong các vụ án xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng; khoản thu nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước.”
5. Khoản 1 và khoản 4 Điều 7 được sửa đổi, bổ sung như
sau:
“1. Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án cho mỗi yêu cầu thi hành án.
Trường hợp trong bản án, quyết định có một người phải thi hành án cho nhiều người
và các đương sự yêu cầu thi hành án vào cùng thời điểm thì Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho nhiều yêu cầu.
Trường hợp nhiều người
được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo bản
án, quyết định, nhưng chỉ có một hoặc một số người có yêu cầu thi hành án thì
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo đúng nội
dung bản án, quyết định.
4. Cơ quan thi hành án dân
sự từ chối yêu cầu thi hành án đối với bản án, quyết định
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương sự theo quy định tại điểm a
khoản 5 Điều 31 Luật thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định
không xác định rõ khoản phải thi hành hoặc không xác định rõ người phải thi
hành án, trừ các trường hợp:
a) Giao quyền sở hữu,
sử dụng, quản lý tài sản mà tại thời điểm yêu cầu thi hành án, người được thi
hành án không được trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản;
b) Giao quyền nuôi dưỡng
người chưa thành niên mà tại thời điểm yêu cầu thi hành án, người được thi hành
án không được trực tiếp nuôi dưỡng;
c) Giao quyền thăm
nom, chăm sóc người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả
năng lao động cho người được thi hành án không trực tiếp nuôi dưỡng.”
6. Khoản 2 và khoản 6 Điều 9 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trường hợp cần xác
minh làm rõ thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm việc, trụ sở của người phải
thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi hành án thì Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan thi hành án dân
sự nơi có thông tin.
Việc ủy quyền xác minh của
cơ quan thi hành án dân sự phải bằng văn bản, nêu rõ nội dung ủy quyền
và nội dung cần thiết khác. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy
quyền phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh theo nội dung ủy quyền, trả lời
bằng văn bản về kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy
quyền trong thời hạn sau đây:
a) Đối với việc xác minh
tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thời hạn
trả lời kết quả xác minh không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Trường hợp khó khăn, phức tạp thì thời hạn gửi kết quả xác minh có thể
kéo dài nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
b) Đối với việc xác minh
các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn trả lời kết quả xác minh không quá
15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
6. Việc thi hành án chưa có điều kiện quy định tại khoản
5 Điều này được thống kê riêng để theo dõi. Khi có thông tin mới về điều kiện
thi hành án của người phải thi hành án thì Chấp hành viên tiến hành xác minh và tổ chức thi hành
án theo quy định tại khoản 4 Điều này.”
7. Khoản 2 Điều 12 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trường hợp người được thông báo là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì việc thông báo cho họ thông qua người thân
thích được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 40 Luật thi hành án dân sự.
Trường hợp đương sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu được nhận thông báo bằng điện tín,
fax, email hoặc hình thức khác thì việc thông báo trực tiếp có thể được thực hiện
theo hình thức đó nếu không gây trở ngại cho cơ quan thi hành án dân sự.”
8. Khoản 1 Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Chấp hành viên căn cứ
vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất, mức độ,
nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu bằng văn
bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng
các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp.
Chấp hành viên được áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong trường hợp thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 130 Luật
thi hành án dân sự.
Việc áp dụng biện pháp bảo
đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành
án và các chi phí thi hành án theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp tài sản
duy nhất của người phải thi hành án lớn hơn nhiều lần so với
nghĩa vụ thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia
làm giảm đáng kể giá trị của tài sản; tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định
tuyên xử lý để thi hành án hoặc trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 24 Nghị định này.
Trường hợp đương sự, người
đang quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản không thực hiện theo yêu cầu của Chấp
hành viên thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên tổ chức cưỡng chế mở
khóa, mở gói; buộc ra khỏi nhà, công trình xây dựng, tài sản gắn liền với đất
hoặc các biện pháp cần thiết khác để kiểm tra hiện trạng, thẩm định giá, bán đấu
giá tài sản hoặc giao tài sản cho cá nhân, tổ chức khác bảo quản theo quy định
của pháp luật.
Trường hợp sau khi áp dụng
biện pháp cưỡng chế mà không thực hiện được việc giao bảo quản đối với tài sản
theo quy định tại Điều 58 Luật thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp, hỗ trợ bảo
quản trong thời gian chưa xử lý được tài sản.”
9. Khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 16 được sửa
đổi, bổ sung như sau:
“1. Căn cứ bản án, quyết
định được thi hành hoặc kết quả xác minh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành
án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở.
2. Trường hợp người phải
thi hành án có nhiều tài sản ở nhiều nơi thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện
ủy thác theo thứ tự sau đây:
a) Theo thỏa thuận của đương sự;
b) Nơi có tài sản đủ để thi hành án;
c) Nơi có tổng giá trị
tài sản lớn nhất.
3. Trường hợp bản án,
quyết định tuyên tài sản bảo đảm cho khoản phải thi hành án cụ thể mà tài sản
đó ở nơi khác thì phải ủy thác khoản phải thi hành án đó đến cơ quan thi hành
án dân sự nơi có tài sản bảo đảm.
Trường hợp tài sản đang
xử lý để thi hành án nhưng có tranh chấp và đã được tòa án thụ lý giải quyết mà
đương sự có tài sản ở địa phương khác thì ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự
nơi có tài sản để thi hành án.
Cơ quan thi hành án nơi ủy
thác phải thường xuyên cập nhật, theo dõi và thông báo ngay cho cơ quan thi
hành án nhận ủy thác biết kết quả giải quyết tranh chấp của Tòa án để phối hợp
tổ chức thi hành án. Cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác phải kịp thời thông
báo tiến độ, kết quả xử lý tài sản cho cơ quan ủy thác thi hành án để theo dõi,
phối hợp trong việc tổ chức thi hành án.
4. Quyết định ủy thác
thi hành án phải ghi rõ nội dung ủy thác, khoản đã thi hành xong, khoản tiếp tục
thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện ủy thác.
Khi gửi quyết định ủy
thác thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải gửi kèm theo bản án, quyết định;
bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản và các tài liệu khác có liên quan, nếu
có. Trong trường hợp phải ủy thác cho nhiều nơi thì Chấp hành viên sao chụp bản
án, quyết định và các tài liệu khác có liên quan thành nhiều bản, có đóng dấu của
cơ quan thi hành án dân sự nơi ủy thác để gửi cho cơ quan thi hành án dân sự
nơi nhận ủy thác.
Các quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, quyết
định tạm hoãn xuất cảnh và các quyết định về thi hành án khác liên quan đến khoản
ủy thác có hiệu lực cho đến khi có quyết định thay thế của cơ quan nhận ủy thác.”
10. Khoản 1 và khoản 2 Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Chấp hành viên tổ chức
định giá tài sản để thực hiện việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại
thời điểm thi hành án theo quy định tại Điều 59 Luật thi hành án dân sự khi có
đủ các điều kiện sau đây:
a) Người phải thi hành
án không tự nguyện giao tài sản hoặc không tự nguyện thanh toán giá trị tài sản
theo nội dung bản án, quyết định khi đã hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
45 Luật thi hành án dân sự;
b) Có ít nhất một trong
các đương sự có đơn yêu cầu định giá tài sản và đã nộp tạm ứng chi phí định giá
tài sản;
c) Tại thời điểm thi
hành án, giá tài sản thay đổi tăng hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá trị tài
sản khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Người có đơn yêu cầu
định giá tài sản có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng minh có thay đổi giá
tài sản, kèm theo đơn yêu cầu định giá tài sản. Tài liệu chứng minh có thay đổi
giá tài sản có thể là khung giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định được
áp dụng tại địa phương hoặc giá thị trường phổ biến của tài sản giống hệt hoặc
tương tự với tài sản cần định giá tại địa phương hoặc giá chuyển nhượng thực tế
ở địa phương của tài sản cùng loại.
Trong thời hạn 05 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu định giá tài sản của đương sự và tài
liệu chứng minh có thay đổi giá tài sản, Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục
định giá theo quy định tại Điều 98 của Luật thi hành án dân sự. Chi phí định
giá do người yêu cầu định giá chịu.”
11. Khoản 1 và khoản 6 Điều 24 được sửa đổi, bổ sung như
sau:
“1. Trường hợp tài sản
đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm
thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch liên
quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp
hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với
tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến
giao dịch đối với tài sản đó.
Trường hợp có giao dịch
về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được
từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản
khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau:
a) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì
Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi kê biên tài sản, nếu
có tranh chấp thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật
thi hành án dân sự, trường hợp cần tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch thì thực hiện theo quy định
tại khoản 2 Điều 75 Luật thi hành án dân sự.
Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng
đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên không kê
biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật thi hành án
dân sự và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản.
Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa
án hoặc cơ quan có thẩm quyền.
b) Trường hợp có các giao dịch khác liên quan đến tài
sản mà không chuyển giao quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người khác
thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử
lý tài sản để thi hành án. Quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao
dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và các quy định của
pháp luật có liên quan.
6. Trường hợp người phải
thi hành án tự nguyện giao tài sản theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 7a Luật
thi hành án dân sự để thi hành nghĩa vụ trả tiền thì Chấp hành viên lập biên bản
về việc tự nguyện giao tài sản. Biên bản này là cơ sở để Chấp hành viên giao
tài sản theo thỏa thuận hoặc tổ chức việc định giá, bán tài sản và xác định
thứ tự ưu tiên thanh toán. Chi phí định giá, bán tài sản và các chi phí cần thiết
khác theo quy định của pháp luật do người phải thi hành án chịu.
Trường hợp đương sự tự
nguyện giao nhà ở là tài sản duy nhất nhưng số tiền thu được không đủ để thanh
toán các nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để
thuê nhà ở hoặc tạo lập nơi ở mới thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại
khoản 5 Điều 115 Luật thi hành án dân sự.”
12. Khoản 1, khoản 3 và khoản 5 Điều
27 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Trước khi bán đấu giá tài sản lần đầu đối với tài sản
thuộc sở hữu chung mà có nhiều chủ sở hữu chung đề nghị mua phần tài sản của
người phải thi hành án theo giá đã định thì Chấp hành viên thông báo cho các chủ
sở hữu chung đó thỏa thuận người được quyền mua. Nếu không thỏa thuận được thì
Chấp hành viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người được mua tài sản.
3. Trường hợp trong cùng
một cuộc đấu giá mà có nhiều tài sản được đấu giá để thi hành án thì cơ quan
thi hành án dân sự yêu cầu tổ chức đấu giá thực hiện việc đấu giá theo thứ tự từ
tài sản có giá trị lớn nhất. Trường hợp số tiền thu được đã đủ để thi hành
nghĩa vụ và các chi phí theo quy định thì không tiếp tục đấu giá các tài sản
còn lại.
Người mua được tài sản
bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời
hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm.
Trong thời hạn không quá
30 ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người
mua được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao
tài sản cho người mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Tổ chức đấu giá tài sản
có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc giao tài sản
cho người mua được tài sản đấu giá. Tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp trái
pháp luật dẫn đến việc chậm giao tài sản bán đấu giá thành mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường.
5. Trường hợp sau khi
phiên đấu giá kết thúc mà người trúng đấu giá tài sản từ chối mua hoặc đã ký
hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản
tiền nào thì sau khi trừ chi phí đấu giá tài sản, khoản tiền đặt trước thuộc về
ngân sách nhà nước và được sử dụng để thanh toán lãi suất chậm thi hành án, tạm
ứng chi phí bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính để thi hành án và các chi
phí cần thiết khác.
Trường hợp người mua
được tài sản bán đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn nghĩa vụ
thanh toán theo hợp đồng thì tiền thanh toán mua tài sản đấu giá được xử lý
theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá và quy định của pháp
luật về hợp đồng mua bán tài sản.
Cơ quan thi hành án dân
sự tổ chức bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật.”
13. Khoản 1 và điểm a khoản 5 Điều 49
được sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Khoản 1 Điều 49 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
“1. Trường hợp thanh
toán tiền thi hành án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật thi hành án
dân sự thì những người được thi hành án đã yêu cầu theo các bản án, quyết định
đang do cơ quan thi hành án đó tổ chức thi hành tính đến thời điểm có quyết định
cưỡng chế hoặc có biên bản về việc tự nguyện giao tài sản được ưu tiên thanh
toán.
Trường hợp nhiều người
được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo quy định tại khoản 1 Điều
7 Nghị định này thì Chấp hành viên thực hiện thủ tục về thi hành án đối
với những người đã yêu cầu thi hành án; tổ chức giao tiền, tài
sản cho những người đã yêu cầu hoặc những người được thi hành án có mặt tại thời
điểm thanh toán tiền, trả tài sản. Quyền và lợi ích hợp pháp của những người được
thi hành án khác theo bản án, quyết định đó được giải quyết theo thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật về dân sự.”
b) Điểm a khoản 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“a) Khoản tiền, tài sản chưa xác định được địa chỉ của người được nhận hoặc
khoản tiền hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông báo, trừ trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều này mà người được thi hành án đã yêu cầu thi hành án không đến
nhận.
Sau khi gửi tiền, tài sản, nếu người được nhận tiền, tài sản đến nhận thì
cơ quan thi hành án dân sự chi trả tiền, tài sản cho người được nhận. Phần lãi
tiền gửi được cộng vào số tiền gửi ban đầu và trả cho người được nhận.
Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật hoặc 01 năm, kể từ ngày thông báo đối với trường hợp thu được
tiền sau thời điểm 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
mà người được thi hành án không đến nhận thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự ra quyết định sung công quỹ nhà nước và chuyển nộp số tiền, tài sản đó vào
Ngân sách Nhà nước.”
14. Khoản 3 Điều 50 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Đối với việc thi
hành án có yêu cầu ủy thác tư pháp thì xử lý như sau:
a) Trong thời hạn 06
tháng, kể từ ngày Bộ Tư pháp gửi hồ sơ ủy thác tư pháp hợp lệ mà nhận được đủ kết
quả theo yêu cầu thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc thi hành án theo
quy định của pháp luật.
Trường hợp nhận được kết quả ủy thác tư pháp nhưng
chưa đáp ứng yêu cầu thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc ủy thác tư
pháp lần thứ hai. Nếu đã ủy thác tư pháp lần thứ hai mà kết quả không đáp ứng
yêu cầu thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo quy định tại điểm b khoản
này.
b) Trường hợp hết thời hạn
quy định tại điểm a khoản này mà không có kết quả hoặc có thông báo về việc
không thực hiện được việc ủy thác tư pháp thì việc thông báo văn bản đã ủy thác
và các văn bản khác trong quá trình thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 43 Luật thi hành án dân sự.
c) Trường hợp ủy thác tư
pháp về việc giao trả giấy tờ, tài liệu liên quan đến tài sản, nhân thân của
đương sự, nếu việc thực hiện ủy thác tư pháp không có kết quả hoặc đương sự
không đến nhận thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn quy định tại
điểm a khoản này hoặc hết thời hạn theo thông báo thì cơ quan thi hành án làm
thủ tục gửi cho người đó; trường hợp không xác định được địa chỉ người nhận thì
gửi cho cơ quan, tổ chức đã ban hành giấy tờ, tài liệu hoặc cơ
quan đại diện của nước có cơ quan, tổ chức đã ban hành giấy tờ, tài liệu.”
15. Khoản
1, điểm e khoản 2 và khoản 4 Điều 51 được sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Khoản 1 và
khoản 4 Điều 51 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Người phải thi hành án chưa thực hiện xong nghĩa vụ
thi hành án theo bản án, quyết định thì có thể bị tạm hoãn xuất cảnh, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự ra quyết định về tạm hoãn xuất cảnh và gửi cho cơ quan quản lý xuất nhập
cảnh khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Có yêu cầu của người được thi hành án;
b) Có căn cứ cho thấy việc xuất cảnh ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hoặc để đảm bảo việc thi
hành án.
Việc tạm hoãn xuất cảnh, gia hạn, giải tỏa, hủy bỏ tạm
hoãn xuất cảnh được thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất, nhập cảnh.
Cơ quan, tổ chức
đang có nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định thì việc tạm hoãn xuất cảnh được
áp dụng đối với người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Trường hợp nhận được thông báo về việc thay đổi
người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 4 Điều này thì cơ quan thi hành án dân sự gửi văn bản đến cơ
quan quản lý xuất nhập cảnh để điều chỉnh thông tin.
4. Việc giải tỏa, hủy bỏ
tạm hoãn xuất cảnh được thực hiện khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm hủy
bản án, quyết định đang thi hành, khi căn cứ tạm hoãn xuất cảnh không còn hoặc
khi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”
b) Điểm e khoản 2 Điều 51 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“e) Có văn bản của cơ
quan Công an hoặc cơ quan đại diện ngoại giao đề nghị cho xuất cảnh trong trường
hợp cá nhân là người phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng đang bị bệnh hiểm nghèo hoặc không có tài sản, thu nhập tại Việt Nam
nhưng không được người được thi hành án cho xuất cảnh hoặc không xác định được
địa chỉ của người được thi hành án hoặc người được thi hành án là người nước
ngoài đã về nước và các trường hợp đặc biệt khác.”
16. Khoản 3 Điều 66 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quy định tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm tra viên sau khi thống nhất
với Bộ trưởng Bộ Nội vụ.”
17. Khoản 2 Điều 71 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quy định tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của Thư ký thi hành án sau khi thống
nhất với Bộ trưởng Bộ Nội vụ.”
Điều 2. Bãi bỏ
điểm b khoản 2 Điều 64
Điều
3. Quy định chuyển tiếp
Đối với việc thi hành án đã thi hành một phần hoặc chưa
thi hành xong trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành nhưng đã thực hiện
các thủ tục về thi hành án theo đúng quy định của Luật thi hành án dân sự và
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành thì kết quả thi hành án được
công nhận; các thủ tục thi hành án tiếp theo được tiếp tục thực hiện theo quy định
của Nghị định này.
Điều 4. Hiệu lực thi
hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 5 năm
2020.
Điều 5. Trách nhiệm thi
hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên
quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Nơi nhận: - Văn phòng Tổng Bí
thư; - Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao; - Ủy ban Giám sát tài
chính Quốc gia; các Vụ, Cục, đơn vị trực
thuộc, Công báo; |
TM. CHÍNH PHỦ Đã ký Nguyễn Xuân Phúc |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét