HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Số: 03/2018/NQ-HĐTP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2018 |
NGHỊ QUYẾT
-----------
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm
2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng;
Để áp dụng đúng và thống nhất một số quy định của pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
tại Tòa án nhân dân;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Nghị quyết này hướng dẫn
áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản
bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; một số
quy định của pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản
bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21
tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
(sau đây gọi là Nghị quyết số 42/2017/QH14).
Điều
2. Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài
sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại khoản 1 Điều 8
của Nghị quyết số 42/2017/QH14
1. Tranh chấp về nghĩa vụ
giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc bên bảo đảm, bên
giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không giao tài sản bảo đảm hoặc giao không
đúng theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm để xử
lý tài sản đó nhằm giải quyết nợ xấu.
Ví dụ: Ngân hàng thương
mại cổ phần A cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ
đồng). Để bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách
nhiệm hữu hạn B (bên bảo đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho
Ngân hàng thương mại cổ phần A (bên nhận bảo
đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần
A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử
lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn B không giao. Tranh
chấp này là "Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài
sản bảo đảm của khoản nợ xấu”.
2. Tranh chấp về quyền xử
lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc xác định người có
quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Ví dụ: Ngân hàng thương
mại cổ phần A cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ
đồng). Để bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn
B (bên bảo đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng
thương mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản
nợ xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B
giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng Công ty
trách nhiệm hữu hạn B không đồng ý vì cho rằng mình có quyền tự chuyển nhượng ngôi nhà X để
giải quyết
nợ xấu. Tranh chấp này là “Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản
nợ xấu”.
1. Tòa án giải quyết theo
thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp
về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đáp ứng đủ các điều kiện quy
định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và
hướng dẫn của Nghị quyết này.
2. Trong quá trình giải
quyết vụ án hôn nhân và gia đình, trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử sơ thẩm, nếu có đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về nghĩa
vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ
xấu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết
số 42/2017/QH14 mà tài sản bảo đảm đó là tài sản của vợ chồng thì Tòa án có
thể tách yêu cầu của đương sự đó để giải quyết bằng một vụ án
khác theo thủ tục rút gọn.
Ví dụ: Tòa án nhân dân
thành phố HP đã thụ lý vụ án ly hôn giữa ông A và bà B. Ngân hàng thương mại cổ
phần X được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, Ngân hàng thương mại cổ phần X có đơn đề nghị Tòa
án giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu ngôi nhà trên đất nằm trong khối tài sản chung của vợ chồng ông
A, bà B. Đồng thời, Ngân hàng thương mại cổ phần X đề nghị Tòa án tách phần yêu
cầu này giải quyết bằng vụ án khác theo thủ tục rút gọn. Trường hợp này, nếu
Ngân hàng thương mại cổ phần X cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh
tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm giữa Ngân hàng thương mại cổ phần X
và ông A, bà B đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và hướng dẫn của Nghị quyết này thì
Tòa án tách yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần X để giải quyết bằng một
vụ án khác theo thủ tục rút gọn.
3. Tòa án áp dụng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự về giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút
gọn, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự có liên quan và
hướng dẫn của Nghị quyết này để giải quyết các tranh chấp hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 của Điều này.
1. Hình thức, nội dung
đơn khởi kiện thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4
Điều 189 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Mẫu số 23-DS ban hành kèm
theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban
hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự và
hướng dẫn tại Điều 6 của Nghị quyết này.
2. Tài liệu kèm theo đơn
khởi kiện:
a) Hợp đồng tín dụng;
b) Tài liệu, chứng cứ
chứng minh khoản nợ đang có tranh chấp là nợ xấu theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết số 42/2017/QH14;
c) Văn bản, hợp đồng bảo
đảm và tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc đã đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc
biện pháp bảo đảm;
d) Tài liệu, chứng cứ về
nơi cư trú, làm việc của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là cơ quan, tổ chức;
đ) Trường hợp có đương sự
cư trú ở nước ngoài thì phải có một trong các tài liệu, chứng cứ sau đây:
đ1) Văn bản thỏa thuận giữa đương sự ở nước ngoài và đương
sự ở Việt Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn có công chứng,
chứng thực hợp pháp. Trường hợp văn bản này được lập ở nước ngoài thì phải được
hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp
pháp hóa lãnh sự theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 9 của Nghị
định số 111/2011/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về chứng
nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự;
đ2) Tài liệu, chứng cứ
chứng minh quyền sở hữu tài sản hợp pháp và thỏa thuận
thống nhất về việc xử lý tài sản của các đương sự có công chứng, chứng thực hợp pháp. Trường hợp văn bản này được lập ở nước ngoài thì
phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự
theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 9 của Nghị định số
111/2011/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh
sự, hợp pháp hóa lãnh sự.
3. Việc nộp đơn và thụ lý
đơn khởi kiện tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được
thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và văn bản hướng dẫn thi
hành.
4. Tòa án ghi trích yếu
quan hệ tranh chấp theo quy định tại Mục 1 Chương III của Bộ
luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Điều 3 của Nghị quyết này.
Ví dụ: “v/v tranh chấp về
nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”, “v/v tranh chấp về quyền xử lý
tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”.
Điều
5. Về thỏa thuận nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, tranh chấp
“không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài” theo
quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14
1. Thỏa thuận về nghĩa vụ
giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 có thể được ghi nhận trong hợp đồng bảo đảm, phụ lục hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác có hiệu lực như hợp đồng.
2. Tranh chấp “không có
đương sự cư trú ở nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản 1
Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 là tranh chấp không thuộc các trường
hợp sau:
a) Đương sự là người Việt
Nam nhưng không cư trú ở Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.
Tòa án xác định việc cư trú của đương sự theo quy định của Luật Cư trú;
b) Đương sự là người nước
ngoài không thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn
khởi kiện. Tòa án xác định việc thường trú hoặc tạm trú của người nước ngoài
theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam;
c) Đương sự là tổ chức
nước ngoài theo quy định tại khoản 26 Điều 4 của Luật Doanh
nghiệp mà không ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân ở Việt Nam khởi kiện, tham
gia tố tụng.
3. Tranh chấp “không có
tài sản tranh chấp ở nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 là tranh chấp mà không có tài sản
được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự ở ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thời điểm
Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.
Điều
6. Ủy quyền khởi kiện, tham gia tố tụng
1. Quyền ủy quyền
a) Cá nhân được quyền ủy
quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác tham gia tố tụng
tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu.
Việc làm đơn khởi kiện
của cá nhân thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 189 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
b) Pháp nhân có quyền ủy
quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có
thẩm quyền để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản
nợ xấu.
c) Cá nhân, pháp nhân
được ủy quyền được ủy quyền lại cho pháp nhân, cá nhân khác tham gia tố tụng
nếu bên ủy quyền đồng ý bằng văn bản.
2. Việc ủy quyền theo
khoản 1 của Điều này phải được lập thành văn bản và xác định rõ phạm vi, nội
dung ủy quyền.
3. Việc ghi thông tin và
ký đơn khởi kiện của pháp nhân được thực hiện như sau:
a) Trường hợp người được
ủy quyền khởi kiện là cá nhân thì phân người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ
của pháp nhân khởi kiện và họ tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền;
phần cuối đơn khởi kiện ghi đại diện của người khởi kiện, người đại diện theo
ủy quyền ký tên, ghi rõ họ tên của người được ủy quyền. Người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân ủy quyền không bắt buộc phải ký tên, đóng dấu vào phần
cuối đơn khởi kiện;
b) Trường hợp người được
ủy quyền khởi kiện là pháp nhân thì phần người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ
của pháp nhân khởi kiện và tên, địa chỉ của pháp nhân đại diện theo ủy quyền,
họ tên và chức vụ của người đại diện hợp pháp của pháp nhân được
ủy quyền; phần cuối đơn ghi đại diện của người khởi kiện, pháp nhân đại diện
theo ủy quyền, người đại diện hợp pháp của pháp nhân được ủy quyền ký tên, ghi
rõ họ tên, chức vụ và đóng dấu của pháp nhân được ủy quyền. Người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân ủy quyền không bắt buộc phải ký tên, đóng dấu vào phần
cuối đơn khởi kiện.
4. Khi giải quyết tranh
chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, nếu hợp đồng ủy quyền được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2017
giữa tổ chức, cá nhân chưa hoặc đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức
phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và tại thời điểm Tòa án thụ lý
vụ án không phát sinh tranh chấp về hợp đồng ủy quyền đó thì Tòa án công nhận
hiệu lực của hợp đồng ủy quyền mà không yêu cầu các bên phải xác lập lại.
Điều
7. Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
1. Bên mua khoản nợ xấu,
khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thì kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
của bên bán theo quy định tại khoản 4 Điều 74 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
2. Vụ án dân sự đang được
Tòa án thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm mà đương sự thực hiện việc
mua bán khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản
nợ xấu thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Tòa án căn cứ
vào hợp đồng mua bán nợ để bổ sung việc xác định tư cách đương sự, người kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự như sau:
a) Bên mua một phần khoản
nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu được kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng và xác định tư cách đương sự như bên bán đối với phần khoản nợ đã mua. Tòa án ghi trong các văn bản
tố tụng tư cách của bên mua là “người kế thừa một
phần quyền, nghĩa vụ tố tụng” của bên bán (ghi rõ tên của bên bán nợ);
b) Bên mua toàn bộ khoản
nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu được kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa
vụ tố tụng và xác định tư cách đương sự thay thế cho bên bán. Tòa án ghi trong
các văn bản tố tụng tư cách của bên mua là
“người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng” của bên bán (ghi rõ tên của bên bán
nợ);
c) Kể từ ngày Tòa án nhận
được các tài liệu, chứng cứ xác định hợp đồng mua bán nợ có hiệu lực, bên mua
đã xác lập được quyền sở hữu đối với tài sản mua theo
quy định của pháp luật thì văn bản tố tụng phải ghi bên mua là người kế thừa
quyền, nghĩa vụ của bên bán.
Ví dụ: Ngân hàng thương
mại cổ phần A là nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản
bảo đảm”. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Ngân hàng thương mại cổ phần
A bán toàn bộ khoản nợ xấu và quyền yêu cầu chuyển giao tài sản bảo đảm cho
Công ty trách nhiệm hữu hạn B. Kể từ ngày nhận được các tài liệu, chứng cứ xác
định bên mua đã xác lập quyền đòi khoản nợ xấu đó thì Tòa án xác định Công ty
trách nhiệm hữu hạn B là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn
và văn bản tố tụng ghi: “Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần A, trụ sở
tại...; Công ty trách nhiệm hữu hạn B, trụ sở tại... là người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng thương mại cổ phần A; người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn C - Giám đốc Công
ty trách nhiệm hữu hạn B”.
Điều
8. Về tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm d khoản 2
Điều 7 của Nghị quyết số 42/2017/QH14
1. Trường hợp tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và đang trong quá trình giải quyết vụ việc
phá sản thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán,
xử lý nợ xấu không có quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Việc xử lý tài sản bảo đảm
trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của Luật Phá sản.
2. Trường hợp tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu là tài sản của bên thứ ba mà bên được bảo đảm là doanh
nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và đang trong quá trình giải quyết
vụ việc phá sản thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức
mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm
đó và xử lý theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền giải
quyết trong quá trình giải quyết phá sản theo quy định của pháp luật.
Điều
9. Điều khoản chuyển tiếp
1. Đối với những vụ án tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản
bảo đảm của khoản nợ xấu mà Tòa án đã thụ lý trước khi Nghị quyết này có hiệu
lực thi hành nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng hướng
dẫn của Nghị quyết này để giải quyết. Các hoạt động tố tụng đã được tiến hành
trước khi Nghị quyết này có hiệu lực mà phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì không phải thực hiện lại.
2. Đối với những vụ án
tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà Tòa án đã thụ
lý trong thời gian Nghị quyết này có hiệu lực thi hành nhưng vẫn đang giải
quyết khi Nghị quyết này hết hiệu lực thi hành thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng
những hướng dẫn của Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực
thi hành thì không áp dụng hướng dẫn của Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp kháng nghị vì lý do khác.
1. Nghị quyết này đã được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 15 tháng 5 năm 2018
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2018 đến ngày Nghị quyết số
42/2017/QH14 hết hiệu lực thi hành.
2. Trường hợp có sự khác
nhau giữa Nghị quyết này và Nghị quyết khác hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng
dân sự về cùng một vấn đề thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này.
3. Định kỳ hàng năm hoặc
khi có yêu cầu của Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân thống kê số
liệu vụ án tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với
từng loại tranh chấp hướng dẫn tại Điều 3 của Nghị quyết này. Thời gian thống
kê được tính theo năm công tác, từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày
30 tháng 11 của năm báo cáo.
4. Trong quá trình thực
hiện nếu có vướng mắc cần phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung thì đề nghị
các Tòa án, cá nhân, cơ quan, tổ chức phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao
(thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có sự giải thích hoặc hướng dẫn
bổ sung kịp thời.
Nơi nhận: |
TM. HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét