HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 03/2024/NQ-HĐTP |
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2024 |
NGHỊ QUYẾT
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về
thời hiệu
thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên,
giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, hoãn chấp
hành
hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
_______________________
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24
tháng 11 năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống nhất một số quy định
của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 12/2017/QH14 về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt,
giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp
đặc biệt, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù;
Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại các điều 60, 62, 63, 64, 67, 68 và 105 của Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau
đây gọi là Bộ luật Hình sự) về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình
phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong
trường hợp đặc biệt, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù.
1. “Cố tình trốn tránh” quy định tại
khoản 5 Điều 60 của Bộ luật Hình sự là cố tình giấu hoặc khai không đúng nơi
thường trú, nơi tạm trú, nơi ở hiện tại; thay đổi thông tin cá nhân, nhân dạng
hoặc giới tính nhằm gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong việc nhận
dạng, xác định nơi ở hiện tại.
Thông tin cá nhân gồm quốc tịch; họ tên,
ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp; chứng minh nhân dân, căn cước công dân, căn
cước hoặc hộ chiếu; thông tin khác gắn liền với việc xác định danh tính của một
người cụ thể.
2. “Lập công” quy định tại điểm a
khoản 2, khoản 4 Điều 62, Điều 64 và khoản 2 Điều 105 của Bộ luật Hình sự là
trường hợp người bị kết án có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu, giúp được người khác trong tình thế
hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên của Nhà
nước, tập thể, cá nhân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn hoặc sự
kiện bất khả kháng khác; có sáng kiến, phát minh, sáng chế hoặc có thành tích
xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khen thưởng, xác nhận.
3. “Lập công lớn” quy định tại các
khoản 3, 5 Điều 62 và khoản 3 Điều 105 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người
bị kết án đã giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, truy bắt, điều tra, xử
lý tội phạm không liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội; cứu được người khác
trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 100.000.000 đồng
trở lên của Nhà nước, tập thể, cá nhân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh,
tai nạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; có sáng kiến, phát minh, sáng chế hoặc
có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng, xác nhận.
4. “Mắc bệnh hiểm nghèo” quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 62, Điều 64, khoản 2 Điều 105 của Bộ luật Hình sự là trường
hợp người bị kết án đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức
chữa trị (ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng
IV, lao nặng độ 4 kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy
thận độ IV trở lên) hoặc mắc bệnh khác dẫn đến không có khả năng tự phục vụ bản
thân, tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao.
5. “Bị bệnh nặng” quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị xử phạt tù đang bị
bệnh hiểm nghèo hướng dẫn tại khoản 4 Điều này hoặc đang bị bệnh khác tới mức
không thể chấp hành hình phạt và nếu phải chấp hành hình phạt sẽ nguy hiểm đến
tính mạng của họ.
6. “Chấp hành tốt pháp luật” quy định
tại điểm c khoản 2, khoản 4 Điều 62 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị
kết án được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, đơn vị quân đội được giao quản
lý người đó xác nhận đã chấp hành đúng và đầy đủ nội quy, quy chế; chủ trương,
chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước tại nơi cư trú.
7. “Không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”
quy định tại điểm c khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 62 của Bộ luật Hình sự
được chứng minh bằng việc họ đã hoàn lương, chăm chỉ làm ăn, tham gia các hoạt
động xã hội hoặc họ đã quá già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo không còn khả năng gây
nguy hiểm cho xã hội nữa.
8. “Hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn”
quy định tại điểm c khoản 2, khoản 4 Điều 62, “gia đình sẽ gặp khó khăn đặc
biệt” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự là trường hợp
người bị kết án là lao động duy nhất trong gia đình, được Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi gia đình người đó cư trú xác nhận là đúng và thuộc một trong các trường
hợp sau:
a) Gia đình của người bị kết án gặp tai nạn,
ốm đau, thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng dẫn đến không còn tài
sản gì đáng kể, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng dưới mức chuẩn hộ
nghèo;
b) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của người bị kết án
ốm đau kéo dài mà không có người chăm sóc.
9. “Đã quá già yếu” quy định tại Điều
64 của Bộ luật Hình sự là người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Từ đủ 70 tuổi trở lên;
b) Từ đủ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên
ốm đau, phải nằm điều trị tại bệnh viện liên tục từ 03 tháng trở lên hoặc không
liên tục nhưng phải nằm điều trị tại bệnh viện từ 03 lần trở lên (mỗi lần từ 01
tháng trở lên), không có khả năng tự phục vụ bản thân, có kết luận bằng văn bản
của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên hoặc bệnh viện.
10. “Do nhu cầu công vụ” quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự là trường hợp cơ quan có thẩm quyền
thấy cần thiết phải có người bị xử phạt tù để thực hiện công vụ nhất định và
nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù ngay thì chưa có người thay thế họ.
Điều 3. Về thời hiệu thi
hành bản án quy định tại Điều 60 của
Bộ luật Hình sự
1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự quy định
tại Điều 60 của Bộ luật Hình sự là thời hiệu thi hành bản án về quyết định hình
phạt.
Thời hiệu thi hành bản án đối với quyết định
về bồi thường thiệt hại, án phí và quyết định khác về tài sản trong bản án hình
sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự tính từ
ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 60 của Bộ luật Hình sự, người bị kết án, pháp nhân thương mại lại
thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện
hành vi phạm tội mới.
Ví dụ: ngày 01/02/2024, Nguyễn Văn A bị Tòa
án phạt 02 năm tù về tội cố ý gây thương tích tại Bản án số 01/2024/HS-ST (đã
có hiệu lực pháp luật). Nguyễn Văn A chưa chấp hành hình phạt tù. Ngày
10/3/2024, Nguyễn Văn A phạm tội trộm cắp tài sản. Như vậy, thời hiệu thi hành
Bản án số 01/2024/HS-ST ngày 01/02/2024 là 05 năm tính từ ngày 10/3/2024; thời
hiệu thi hành bản án đối với tội trộm cắp tài sản tính từ ngày bản án kết án về
tội trộm cắp tài sản có hiệu lực pháp luật.
3. Trường hợp bản án hình sự tổng hợp hình
phạt của nhiều tội thì thời hiệu thi hành bản án được tính theo hình phạt chung
của hình phạt chính nặng nhất.
Ví dụ: tại Bản án hình sự phúc thẩm số
01/2024/HS-PT ngày 10/01/2024, Tòa án nhân dân cấp cao quyết định không chấp
nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số
60/2023/HS-ST ngày 02/9/2023 của Toà án nhân dân tỉnh T; tuyên bị cáo Nguyễn
Văn H phạm tội giết người, tội cố ý gây thương tích và tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 năm tủ về tội giết
người, 02 năm tù về tội cố ý gây thương tích, 70.000.000 đồng về tội cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Văn H
phải chấp hành hình phạt chung là 14 năm tù và 70.000.000 đồng. Trường hợp này,
căn cứ vào hình phạt chung của hình phạt chính nặng nhất là 14 năm tù để tính
thời hiệu thi hành Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2024/HS-PT. Căn cứ điểm b
khoản 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự thì thời hiệu thi hành bản án phúc thẩm này
là 10 năm.
4. Trường hợp bản án hình sự có nhiều người
bị kết án thì căn cứ vào mức hình phạt đối với từng người để tính thời hiệu thi
hành bản án hình sự đối với họ.
5. Trường hợp bản án hình sự tổng hợp hình
phạt của nhiều bản án thì căn cứ vào mức hình phạt trong từng bản án để tính
thời hiệu thi hành cho mỗi bản án hình sự đó mà không căn cứ vào mức tổng hợp
hình phạt chung.
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị Tòa án phạt 01 năm 06
tháng tù về tội trộm cắp tài sản tại Bản án số 01/2024/HS-ST (đã có hiệu lực
pháp luật). Tại Bản án số 15/2024/HS-ST phạt Nguyễn Văn A 07 năm tù về tội cố ý
gây thương tích và tổng hợp với hình phạt của Bản án số 01/2024/HS-ST, buộc
Nguyễn Văn A phải chấp hành hình phạt chung là 08 năm 06 tháng tù (đã có hiệu
lực pháp luật). Theo đó, thời hiệu thi hành bản án đối với Bản án số
01/2024/HS-ST là 05 năm; Bản án số 15/2024/HS-ST là 10 năm.
6. Trường hợp người bị kết án cố tình trốn
tránh, nhưng cơ quan công an không ra quyết định truy nã hoặc có ra quyết định
truy nã nhưng không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trừ những việc
không thể thực hiện được (ví dụ: phải dán ảnh kèm theo nhưng không có ảnh) thì
thời gian trốn tránh vẫn được tính để xác định thời hiệu thi hành bản án hình
sự.
7. Trường hợp người bị kết án phạt tù được
hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì thời hạn được hoãn hoặc tạm
đình chỉ không được trừ vào thời hiệu thi hành bản án, trừ trường hợp được hoãn
hoặc tạm đình chỉ để áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính
kể từ ngày hết thời hạn hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và căn cứ
vào mức hình phạt tù còn lại mà người bị kết án chưa chấp hành.
Ví dụ: Nguyễn Văn A chấp hành hình phạt 04
năm tù về tội cố ý gây thương tích từ ngày 01/01/2023. Ngày 01/01/2024, Nguyễn
Văn A được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Ngày 01/5/2024, Nguyễn Văn A
hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trường hợp này, thời hiệu thi
hành bản án hình sự là 05 năm được tính kể từ ngày 01/5/2024 và căn cứ vào hình
phạt tù còn lại chưa chấp hành là 03 năm.
Điều 4. Về miễn chấp hành
hình phạt quy định tại Điều 62 của
Bộ luật Hình sự
1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ
hoặc tù có thời hạn chưa chấp hành hình phạt quy định tại khoản 2, 3 Điều 62
của Bộ luật Hình sự là trường hợp họ đã có quyết định thi hành án nhưng chưa
chấp hành án.
2. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp
hành được một phần hình phạt quy định tại khoản 5 Điều 62 của Bộ luật Hình sự
là trường hợp họ đã chấp hành được ít nhất một phần ba mức hình phạt tiền.
3. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế cải
tạo tốt quy định tại khoản 6 Điều 62 của Bộ luật Hình sự là trường hợp họ chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, hối cải, tích cực lao động, học tập và được Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi họ cư trú có văn bản xác nhận.
Điều 5. Về giảm mức hình
phạt đã tuyên quy định tại Điều
63 của Bộ luật Hình sự
1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ,
phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân được xét giảm thời hạn chấp hành
hình phạt lần đầu khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Đã chấp hành được một phần ba thời hạn đối
với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn; 12 năm đối với
tù chung thân; 15 năm đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị
kết án tù chung thân;
b) Đối với người bị kết án cải tạo không giam
giữ phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thành thật hối cải, tích cực lao
động, học tập.
Đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn
hoặc phạt tù chung thân phải có nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc chấp hành tốt
nội quy cơ sở giam giữ, tích cực học tập, lao động, cải tạo và phải có đủ kỳ
xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau:
Người bị kết án phạt tù chung thân phải có ít
nhất 16 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp
người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có
ít nhất 20 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên.
Người bị kết án phạt tù từ trên 20 năm đến 30
năm phải có ít nhất 14 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở
lên.
Người bị kết án phạt tù từ trên 15 năm đến 20
năm phải có ít nhất 12 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở
lên.
Người bị kết án phạt tù từ trên 10 năm đến 15
năm phải có ít nhất 08 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở
lên.
Người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 10
năm phải có ít nhất 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở
lên.
Người bị kết án phạt tù từ trên 03 năm đến 05
năm phải có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở
lên.
Người bị kết án phạt tù từ 03 năm trở xuống
phải có ít nhất 01 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên.
Trường hợp chưa có kết quả xếp loại quý liền kề do chưa đến thời điểm xếp loại
quý nhưng có 03 tháng liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại khá thì vẫn có
thể được xét giảm.
c) Đã bồi thường được ít nhất một phần hai
nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án.
Người bị kết án bồi thường được ít hơn một
phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng có văn bản
miễn giảm một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận khác của người được thi
hành án, người đại diện hợp pháp của người được thi hành án (có xác nhận của cơ
quan có thẩm quyền) thể hiện người bị kết án đã bồi thường được một phần hai
nghĩa vụ dân sự thì cũng được coi là đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân
sự.
Người bị kết án có hoàn cảnh gia đình đặc
biệt khó khăn hướng dẫn tại khoản 8 Điều 2 của Nghị quyết này được Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi họ cư trú hoặc cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác nhận
thì mức bồi thường nghĩa vụ dân sự có thể thấp hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự
theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng Tòa án phải ghi rõ trong quyết định.
Người bị kết án về tội tham nhũng, chức vụ
thì phải bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự.
d) Được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm
quyền đề nghị bằng văn bản xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
2. Mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt được
thực hiện như sau nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt
quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 63 của Bộ luật Hình sự:
a) Người bị kết án cải tạo không giam giữ thì
mỗi lần có thể được giảm từ 03 tháng đến 09 tháng;
b) Người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở
xuống hoặc người bị kết án phạt tù chung thân đã được giảm xuống 30 năm tù thì
mỗi lần có thể được giảm từ 01 tháng đến 03 năm. Trường hợp giảm đến 03 năm thì
phải là người có thành tích đặc biệt xuất sắc.
3. Người bị kết án phạt tù chung thân, người
bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân có thể được
Tòa án xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù chung thân
xuống hình phạt tù có thời hạn. Người bị kết án phạt tù chung thân lần đầu được
giảm xuống 30 năm tù. Thời hạn 30 năm tù này được tính kể từ ngày thi hành án
phạt tù chung thân và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời gian thực
tế chấp hành hình phạt là 20 năm tù đối với người bị kết án phạt tù chung thân;
25 năm tù đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt
tù chung thân.
4. Người bị kết án phạt tù đang chấp hành
hình phạt được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt
hoặc người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu chưa đủ thời gian chấp hành án tại cơ sở
giam giữ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì cũng được coi là có
đủ số kỳ xếp loại hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều này:
a) Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 15
năm trở lên được thiếu 04 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên của thời gian
liền kề thời điểm xét giảm;
b) Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 05
năm đến 15 năm được thiếu 02 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên;
c) Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 03
năm đến 05 năm được thiếu 01 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên;
d) Đối với người bị kết án phạt tù từ 03 năm
trở xuống chưa được xếp loại chấp hành án phạt tù.
Đối với các trường hợp nêu trên, thời gian bị
tạm giữ, tạm giam hoặc thời gian ở trại giam phải được nhận xét là chấp hành
nghiêm chỉnh nội quy cơ sở giam giữ.
5. Người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm
nhưng không liên tục được xếp loại khá trở lên, nếu có đủ các điều kiện khác
hướng dẫn tại Nghị quyết này và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì vẫn
có thể được xét giảm:
a) Có tổng số quý xếp loại khá trở lên nhiều
hơn từ 02 quý trở lên so với các quy định đối với người bị kết án phạt tù từ
trên 10 năm tại điểm b khoản 1 Điều này và có ít nhất 04 quý liền kề thời điểm
xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
b) Có tổng số quý xếp loại khá trở lên nhiều
hơn 01 quý trở lên so với các quy định đối với người bị kết án phạt tù từ trên
05 năm đến 10 năm tại điểm b khoản 1 Điều này và có ít nhất 02 quý liền kề thời
điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên.
6. Người bị kết án có tiền án phải có số kỳ
xếp loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những người bị kết án chưa có tiền án,
ứng với mỗi tiền án là 02 quý xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp người bị kết
án bị phạt tù từ 03 năm trở xuống thì ứng với mỗi tiền án là 01 quý xếp loại từ
khá trở lên.
7. Người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên
mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn đúng đợt. Trường hợp không đủ
điều kiện để được xét giảm đúng đợt thì có thể được xét giảm thời hạn khi có đủ
04 quý xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên (trong đó phải có ít nhất
02 quý liền kề thời điểm xét giảm).
8. Người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù mà vi phạm nội quy cơ sở giam giữ bị xử lý kỷ luật, sau khi
được Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện công nhận đã cải tạo tiến bộ và có đủ 04 quý liền kề (đối với
người bị kết án bị kỷ luật khiển trách 02 lần hoặc kỷ luật cảnh cáo) hoặc 05
quý liền kề (đối với người bị kết án bị giam tại buồng kỷ luật) được xếp loại
chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm
thời hạn chấp hành án phạt tù.
9. Người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù mà lại phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý thì phải chấp hành
được ít nhất một phần hai mức hình phạt chung và phải có đủ điều kiện hướng dẫn
tại các điểm b, c và d khoản 1 và khoản 6 Điều này thì có thể được xét giảm
thời hạn chấp hành án phạt tù.
10. Người bị kết án đã được giảm thời hạn
chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt
chung hoặc 25 năm nếu là tù chung thân và phải có đủ các điều kiện hướng dẫn
tại các điểm b, c và d khoản 1 và khoản 6 Điều này thì có thể được xét giảm
thời hạn chấp hành án phạt tù.
11. Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án
phạt tù hoặc người đang được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được bảo lưu
kết quả chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau
khi trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện để tiếp tục chấp hành án. Khi những người này trở lại trại giam, trại tạm
giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án,
nếu có đủ điều kiện quy định tại các khoản của Điều này và trong thời gian được
tạm đình chỉ hoặc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, được chính quyền địa phương nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án
phạt tù về cư trú hoặc cơ sở y tế điều trị cho người được áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh xác nhận thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành
án phạt tù.
Điều 6. Về giảm thời hạn
chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 64 của Bộ luật Hình sự
1. Người bị kết án đã chấp hành được ít nhất
một phần tư thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ
30 năm trở xuống; 10 năm đối với tù chung thân; 12 năm đối với người bị kết án
về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân và có đủ điều kiện hướng
dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1, khoản 4, khoản 6 Điều 5 Nghị quyết này thì
có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu người bị kết án thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã lập công; trong đó, mỗi lần lập công,
người bị kết án chỉ được xét giảm thời hạn một lần;
b) Đã quá già yếu;
c) Mắc bệnh hiểm nghèo.
2. Mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường
hợp hướng dẫn tại khoản 1 Điều này có thể là 01 năm đối với hình phạt cải tạo
không giam giữ, 04 năm đối với hình phạt tù có thời hạn, hình phạt tù chung
thân, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt ít nhất là hai
phần năm mức hình phạt đã tuyên hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân;
trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung
thân thì thời gian thực tế chấp hành hình phạt ít nhất là 20 năm.
3. Trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; sau khi có ý kiến của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao thì người bị kết án có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn
hoặc với mức cao hơn so với hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 7. Về hoãn chấp hành
hình phạt tù quy định tại Điều 67 của
Bộ luật Hình sự
1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp
hành hình phạt khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Thuộc một trong các trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người bị xử phạt tù là phụ nữ có
thai không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh
nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi không phân biệt là con đẻ hay con nuôi thì có thể được hoãn chấp hành hình
phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
b) Có nơi cư trú rõ ràng.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường
trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người bị
xử phạt tù về cư trú, sinh sống thường xuyên;
c) Sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi
phạm pháp luật nghiêm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn.
2. Tòa án cũng có thể cho người bị xử phạt tù
thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự
nhưng không đáp ứng một trong các điều kiện hướng dẫn tại điểm b và điểm c
khoản 1 Điều này được hoãn chấp hành hình phạt tù nhưng phải gắn với hoàn cảnh
đặc biệt và phải xem xét thận trọng, chặt chẽ.
Ví dụ: Nguyễn Thị B bị xử phạt 04 năm tù về
tội cố ý gây thương tích, không có nơi cư trú rõ ràng, đang nuôi con 12 tháng
tuổi nhưng con bị mắc bệnh hiểm nghèo phải điều trị trong bệnh viện mà không có
người chăm sóc thì Tòa án có thể xem xét cho Nguyễn Thị B được hoãn chấp hành
hình phạt tù.
3. Thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù được
xác định như sau:
a) Thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù đối
với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự được
tính từ ngày Tòa án ban hành quyết định cho đến khi sức khỏe của người bị xử
phạt tù được hồi phục;
b) Thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù đối
với trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình
sự được tính từ ngày Tòa án ban hành quyết định cho đến khi kết thúc thời hạn
hoãn chấp hành hình phạt tù mà Tòa án quyết định.
4. Giải quyết một số trường hợp sau khi được
hoãn chấp hành hình phạt tù:
a) Trong thời gian được hoãn chấp hành hình
phạt tù mà người được hoãn chấp hành hình phạt tù lại có thai hoặc phải tiếp
tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì Tòa án có thể quyết định cho họ được hoãn
đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi;
b) Người được hoãn chấp hành hình phạt tù
theo quy định tại điểm c hoặc điểm d khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự thì có
thể được hoãn một hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian được hoãn tối đa đến
01 năm.
Điều 8. Về tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù quy định tại Điều 68 của Bộ luật Hình sự
1. Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự và có
nơi cư trú rõ ràng thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
2. Thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự.
Đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị
bệnh nặng thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù một lần hoặc
nhiều lần cho đến khi sức khỏe hồi phục.
Đối với người đang chấp hành hình phạt tù là
lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ thì có thể được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian
được tạm đình chỉ tối đa là 01 năm.
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông
qua ngày 24 tháng 4 năm 2024 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 7 năm
2024./.
Nơi nhận: |
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét