HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Số: 04/2017/NQ-HĐTP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2017 |
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN
MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 1 VÀ KHOẢN 3 ĐIỀU 192 BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ SỐ
92/2015/QH13 VỀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN, QUYỀN NỘP ĐƠN KHỞI KIỆN LẠI VỤ ÁN
-------------------
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ
Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để áp
dụng đúng và thống nhất một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật
tố tụng dân sự ngày 25 tháng 11 năm 2015;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết
này hướng dẫn một số quy định về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện
lại vụ án tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự
số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015).
Điều 2. Về người khởi kiện không có quyền khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Người khởi
kiện không có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
1. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
a) Cơ quan,
tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều
186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện
không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp
pháp;
b) Cơ quan,
tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều
187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện
không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác,
lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Ví dụ: Tổ
chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn,
quy chuẩn
kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết,
quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C
(người tiêu
dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức
A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015.
2. Yêu cầu
khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ
cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Ví dụ: Cụ A
chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có
thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều
621 Bộ luật dân sự năm 2015). Trường hợp này, theo quy định của pháp luật
về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền
khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ A theo pháp luật.
Điều 3. Về chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
1. Chưa có
đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố
tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức,
cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi
ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến
Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Ví dụ: Công
ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông
B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc
tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong
ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc
ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của
hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều
201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.
2. Đối với
tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ
điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với
tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch
liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia
tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện
khởi kiện vụ án.
Điều 4. Về vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm2015
Vụ án không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp
luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Ví dụ: Theo
quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì
tranh chấp đất đai mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức, cá nhân không có
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy
định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có quyền lựa chọn
Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự
hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản
3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp.
Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp
tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp
thì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự.
Điều 5. Về địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. “Địa chỉ
nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định
tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
được xác định như sau:
a) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt
Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp
mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường trú hoặc tạm
trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú;
b) Nếu
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài đang
cư trú tại Việt Nam thì nơi cư trú của họ được xác định theo quy định của Luật
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;
c) Nếu
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài,
người Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn
cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng
cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận;
d) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được
xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo quy định của pháp luật;
Trường hợp
cơ quan, tổ chức có quốc tịch nước ngoài thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được
xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo
tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận.
2. Người
khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy
định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi
kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác
chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa
chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại
điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
3. Địa chỉ
“nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng” của người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm đ, e khoản 4
Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là địa chỉ người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã từng cư trú, làm việc hoặc có trụ sở mà người
khởi kiện biết được gần nhất tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh.
Điều 6.
Xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Trường
hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận đơn
khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
2. Trường
hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tổng đạt được thông báo
về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không
còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp
thì Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường
hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư
trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì
được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ
sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi
nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư
trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3
Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố
tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không
đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
b) Trường
hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có
trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ
chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là
“đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố
tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà
không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan;
c) Trường
hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung
cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên
đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ
mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp
luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
Trường hợp
sau khi thụ lý vụ án mà phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì
Tòa án yêu cầu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập cung cấp địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đó. Nếu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu
phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không cung
cấp được địa chỉ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ theo
quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ thì đình
chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có liên quan đến người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó theo quy định tại điểm h
khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn
tại khoản 3 Điều này.
3. Tòa án
vẫn tiếp tục giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với
vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thuộc diện thừa kế mà nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ và Tòa án đã tiến
hành các biện pháp để thu thập, xác minh địa chỉ theo đúng quy định của pháp
luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của người đó thì Tòa án vẫn giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Phần tài sản mà người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ được nhận thì Tòa
án tạm giao cho người thân thích của người đó hoặc người thừa kế khác quản lý.
Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế
chưa tìm được địa chỉ sẽ được Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu
cầu;
b) Các
trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 5 và điểm c khoản 6Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
c) Các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
4. Trường
hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì
theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp
được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Điều 7.
Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định
tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
1. Người
khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 và các trường hợp khác mà pháp luật có quy
định.
2. Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy
định căn cứ trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì vậy,
Tòa án không được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi
kiện. Trường hợp kể từ ngày 01-01-2012, Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do
thời hiệu khởi kiện đã hết và thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại vụ án đó thì
Tòa án xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
3. "Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật" quy
định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định
nhưng đã được quy định trong Nghị quyết này, các văn bản quy phạm pháp luật
khác hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.
"Các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật" quy định trong Nghị quyết này
là:
a) Đối với
những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017, Tòa
án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả
lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1
Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi
kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án
theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm
2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015.
Đối với
những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017 đã
được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết)
đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1
Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó;
b) Đối với
những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm
kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017
Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì
chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm
2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn
còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế
theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm
d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án xem xét thụ
lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Đối với
những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm
kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết
bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì
thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người
khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó;
c) Trường
hợp quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị quyết này.
Điều 8.
Hiệu lực thi hành
1. Nghị
quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14
tháng 4 năm 2017 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2017.
2. Đối với
những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà
Tòa án đã thụ lý trước khi Nghị quyết này có hiệu lực thi hành nhưng chưa xét
xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị
quyết này để giải quyết.
3. Đối với
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết
này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
4. Trong
quá trình triển khai thi hành, nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì
phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học)
để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: |
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét