|
|
Số: 05/2006/NQ-HĐTP |
Hà
Nội, ngày 04 tháng 08 năm 2006 |
NGHỊ QUYẾT
Hướng dẫn thi hành một số quy định trong
Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp phúc thẩm” của bộ luật tố tụng
dân sự
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định tại Phần thứ ba
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự
(sau đây viết tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
I. VỀ CHƯƠNG XV “TÍNH
CHẤT CỦA XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ
ÁN CẤP SƠ THẨM”
1.1. Đối tượng mà đương sự, người đại diện
của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu
Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm bao gồm: bản
án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.
1.2. Đương sự là cá nhân có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của
người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có kháng cáo. Đồng thời ở phần cuối đơn
kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.3. Đương sự là người
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân
sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng
lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình là đương sự trong vụ
án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó có
thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong
đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có kháng cáo. Đồng thời ở phần cuối
đơn kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.4. Đương sự được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 và tiểu mục 1.3 mục 1 này nếu không tự mình kháng
cáo, thì có thể uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo, trừ kháng
cáo bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về ly hôn. Tại mục tên, địa chỉ
của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo
uỷ quyền có kháng cáo; họ, tên, địa chỉ của đương sự uỷ quyền kháng cáo và văn
bản uỷ quyền. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo uỷ quyền
phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.5. Đương sự là cơ
quan, tổ chức có quyền kháng cáo. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là
cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của
người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ của đương sự là cơ quan, tổ
chức; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ
quan, tổ chức. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo pháp
luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó.
Trường hợp người đại
diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền cho người khác
đại diện cho cơ quan, tổ chức kháng cáo, thì tại mục tên, địa chỉ của người
kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền
kháng cáo; tên, địa chỉ của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền; họ, tên,
chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó
và văn bản uỷ quyền. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo
uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.6. Người đại diện
theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên (trừ trường hợp được hướng
dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này), người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên,
địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại
diện theo pháp luật; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người đại
diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình
kháng cáo, thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ,
tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền và văn bản uỷ quyền; họ, tên, địa
chỉ của người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền; họ, tên, địa chỉ
của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người
đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.7. Cơ quan, tổ chức
khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của BLTTDS là người đại diện theo pháp
luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ. Người đại diện theo pháp luật
của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ
của người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ,
tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó; họ,
tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ. Đồng thời ở
phần cuối đơn, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký
tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó.
1.8. Việc uỷ quyền
được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 Phần I của Nghị quyết này
phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp
văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán
bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội
dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm.
2.1. Để bảo đảm cho
việc làm đơn kháng cáo đúng và thống nhất, Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người
kháng cáo làm đơn kháng cáo theo đúng mẫu và ghi đầy đủ nội dung theo hướng dẫn
sử dụng mẫu đơn kháng cáo được ban hành kèm theo Nghị quyết này. Toà án cấp sơ
thẩm phải niêm yết công khai tại trụ sở Toà án nhân dân mẫu đơn kháng cáo và
hướng dẫn sử dụng mẫu đơn kháng cáo.
2.2. Việc nhận đơn
kháng cáo và xử lý đơn kháng cáo tại Tòa án cấp sơ thẩm.
a) Tòa án cấp sơ thẩm
phải có sổ nhận đơn kháng cáo để ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo làm
căn cứ xác định ngày kháng cáo.
b) Toà án cấp sơ thẩm
thực hiện thủ tục nhận đơn kháng cáo như sau:
b.1) Trường hợp người
kháng cáo trực tiếp nộp đơn kháng cáo tại Toà án cấp sơ thẩm, thì Toà án cấp sơ
thẩm ghi ngày, tháng, năm người kháng cáo nộp đơn vào sổ nhận đơn kháng cáo.
Ngày kháng cáo được xác định là ngày nộp đơn kháng cáo.
b.2) Trường hợp người
kháng cáo gửi đơn kháng cáo đến Toà án cấp sơ thẩm qua bưu điện, thì Toà án
phải ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo do bưu điện chuyển đến và ngày,
tháng, năm người kháng cáo gửi đơn theo ngày, tháng, năm có dấu bưu điện nơi
gửi đơn vào sổ nhận đơn. Phong bì có dấu bưu điện phải được đính kèm đơn kháng
cáo. Ngày kháng cáo được xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi đơn.
Trường hợp không có
hoặc không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện nơi gửi trên phong
bì, thì Toà án phải ghi chú trong sổ nhận đơn và vào góc bên trái của đơn kháng
cáo là “không xác định được ngày, tháng, năm”. Trường hợp này ngày kháng cáo
được xác định là ngày Toà án nhận được đơn. Khi kiểm tra đơn kháng cáo, nếu
thấy đơn kháng cáo này quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo
trình bày rõ lý do bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 246 của BLTTDS
và hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 mục 5 Phần I của Nghị quyết này. Nếu đơn kháng
cáo đúng hạn quy định tại Điều 245 của BLTTDS, thì Toà án cấp sơ thẩm tiến hành
các thủ tục quy định tại Điều 248 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 6 Phần I của
Nghị quyết này.
b.3) Toà án phải ghi
(hoặc đóng dấu nhận đơn kháng cáo có ghi) ngày, tháng, năm nhận đơn vào góc
trên bên trái của đơn kháng cáo.
c) Khi nhận được đơn
kháng cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến, theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3
mục 2 này, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra xem đã nhận được đơn kháng cáo có
cùng nội dung do cùng người kháng cáo gửi đến chưa để xử lý như sau:
c.1) Trường hợp Toà án
cấp sơ thẩm đã nhận được đơn kháng cáo có nội dung trùng với nội dung đơn kháng
cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến, thì Toà án cấp sơ thẩm ghi chú vào đơn
kháng cáo đó và đính kèm với đơn kháng cáo đã nhận để lưu vào hồ sơ vụ án.
c.2) Trường hợp Toà án
cấp sơ thẩm chưa nhận được đơn kháng cáo hoặc đã nhận được đơn kháng cáo, nhưng
một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo khác với nội dung kháng cáo do Toà án
cấp phúc thẩm chuyển đến, thì Tòa án cấp sơ thẩm ghi ngày, tháng, năm nhận đơn
kháng cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến và ngày, tháng, năm nhận đơn kháng
cáo theo ngày, tháng, năm mà Toà án cấp phúc thẩm ghi ở góc trên bên trái của
đơn kháng cáo vào sổ nhận đơn. Trong trường hợp này việc xác định ngày kháng
cáo được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm b.1 và b.2 tiểu mục 2.2 mục 2
này.
2.3. Việc nhận đơn
kháng cáo và xử lý đơn kháng cáo tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Trường hợp người kháng
cáo trực tiếp nộp đơn kháng cáo tại Toà án cấp phúc thẩm hoặc gửi đơn kháng cáo
đến Toà án cấp phúc thẩm qua bưu điện, thì khi nhận đơn kháng cáo Toà án cấp
phúc thẩm cũng phải vào sổ nhận đơn kháng cáo để theo dõi. Toà án cấp phúc thẩm
phải ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục
2.2 mục 2 này. Đồng thời Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển ngay đơn kháng cáo và
các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục cần
thiết và gửi kèm hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều
255 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 9 Phần I của Nghị quyết này. Việc chuyển
đơn kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm phải được ghi chú vào sổ nhận đơn để theo
dõi. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho người kháng cáo biết về việc đã
nhận được đơn kháng cáo và chuyển đơn kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm để họ
liên hệ với Toà án cấp sơ thẩm thực hiện quyền, nghĩa vụ của người kháng cáo
theo thủ tục chung.
2.4. Sau khi nhận đơn
kháng cáo do người kháng cáo nộp trực tiếp, Toà án cấp sơ thẩm phải cấp ngay
giấy báo nhận đơn kháng cáo cho người kháng cáo. Nếu Toà án cấp sơ thẩm nhận
đơn kháng cáo gửi qua bưu điện hoặc do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến, thì Toà
án cấp sơ thẩm gửi ngay giấy báo nhận đơn kháng cáo để thông báo cho người
kháng cáo biết.
2.5. Trường hợp người
kháng cáo nộp hoặc gửi kèm theo đơn kháng cáo tài liệu, chứng cứ bổ sung để
chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp, thì việc giao nhận
tài liệu, chứng cứ bổ sung do người kháng cáo nộp hoặc gửi kèm theo đơn kháng
cáo được thực hiện theo hướng dẫn tại Phần V của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”.
2.6. Trong trường hợp
người kháng cáo đến Toà án cấp sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm trình bày trực
tiếp về việc kháng cáo, thì Toà án cấp sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm giải
thích cho họ biết là theo quy định tại Điều 243 của BLTTDS thì người kháng cáo
phải làm đơn kháng cáo, để họ tự mình làm đơn kháng cáo hoặc uỷ quyền cho người
khác kháng cáo.
3. Về
Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS
3.1. Thời điểm bắt đầu
tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác
định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại
phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối
với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm.
3.2. Thời điểm bắt đầu
tính thời hạn kháng nghị bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác
định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án, trong trường hợp Viện kiểm
sát cùng cấp tham gia phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày Viện kiểm sát cùng cấp
nhận được bản án sơ thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia
phiên toà sơ thẩm.
Ví dụ: Ngày 01-10-2005
Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng ngày 01-10-2005 Toà án tuyên án, thì
ngày được xác định và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị như
sau:
- Đối với đương sự có
mặt tại phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là ngày 01-10-2005 và thời
điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 02-10-2005.
- Đối với đương sự
không có mặt tại phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 15-10-2005 Toà án cấp sơ thẩm
mới giao bản án sơ thẩm cho đương sự, thì ngày được xác định là ngày 15-10-2005
và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 16-10-2005;
nếu Toà án cấp sơ thẩm không thể giao trực tiếp bản án sơ thẩm cho đương sự mà
phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban
nhân dân cấp xã nơi cư trú của đương sự là ngày 16-10-2005, thì ngày được xác
định là ngày 16-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm
ngày là ngày 17-10-2005.
- Trường hợp đại diện
Viện kiểm sát cùng cấp có tham gia phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là
ngày 01-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị mười lăm ngày
(đối với Viện kiểm sát cùng cấp), ba mươi ngày (đối với Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp) là ngày 02-10-2005.
- Trường hợp đại diện
Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 15-10-2005
Viện kiểm sát cùng cấp mới nhận được bản án của Toà án cấp sơ thẩm, thì ngày
được xác định là ngày 15-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị
mười lăm ngày (đối với Viện kiểm sát cùng cấp), ba mươi ngày (đối với Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp) là ngày 16-10-2005.
3.3. Thời điểm bắt đầu
thời hạn kháng cáo, kháng nghị quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ
án của Toà án cấp sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được
xác định là ngày người có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp nhận được
quyết định đó.
a) Trường hợp quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án được ban hành tại phiên toà sơ
thẩm và Hội đồng xét xử giao ngay quyết định này cùng ngày cho đương sự có mặt
tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà (nếu có), thì ngày
được xác định là ngày ban hành quyết định đó. Nếu ngày giao quyết định không
cùng với ngày ban hành quyết định, thì ngày được xác định là ngày giao quyết
định cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
b) Trường hợp quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án được ban hành trước khi mở phiên
toà sơ thẩm hoặc tại phiên toà sơ thẩm mà đương sự vắng mặt, thì ngày được xác
định đối với đương sự là ngày quyết định đó được giao hoặc được niêm yết; đối
với Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp là ngày Viện kiểm sát cùng cấp
nhận được quyết định đó.
3.4. Thời điểm kết
thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Thời điểm kết thúc
thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời
hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật)
hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị kết thúc vào lúc hai mươi
tư giờ của ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó.
Ví dụ: Thời hạn kháng
cáo là mười lăm ngày được tính bắt đầu từ ngày 02-10-2005. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 245 của BLTTDS, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với
đương sự có mặt tại phiên toà) kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 16-10-2005
(nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ). Giả sử ngày 16-10-2005
là ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc hai mươi
tư giờ ngày 17-10-2005 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần); giả sử sau
ngày nghỉ lễ (17-10-2005), ngày 18-10-2005 đúng vào ngày thứ bảy, thì thời hạn
kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 20-10-2005.
4.1. Sau khi nhận được
đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải kiểm tra đơn kháng cáo có đầy đủ các nội
dung quy định tại khoản 1 Điều 244 và người làm đơn kháng cáo có thuộc chủ thể
có quyền kháng cáo được quy định tại Điều 243 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 1
Phần I của Nghị quyết này hay không; đồng thời kiểm tra kháng cáo có được làm
trong thời hạn quy định tại Điều 245 của BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 3
Phần I của Nghị quyết này hay không để tiến hành tiếp các công việc theo quy
định của BLTTDS và hướng dẫn của Nghị quyết này. Trường hợp đơn kháng cáo làm
trong thời hạn luật định và là của người có quyền kháng cáo nhưng chưa có đầy
đủ các nội dung chính quy định tại khoản 1 Điều 244 của BLTTDS hoặc nội dung
kháng cáo chưa cụ thể, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo (trực tiếp hoặc
bằng văn bản) ngay cho người kháng cáo để họ sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo cho
đầy đủ hoặc thể hiện nội dung kháng cáo cho cụ thể, rõ ràng theo quy định của
pháp luật.
4.2. Việc thông báo và
thực hiện yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo được thực hiện như sau:
a) Toà án cấp sơ thẩm
yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung đơn trong thời hạn do Toà án cấp sơ
thẩm ấn định nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày người kháng cáo nhận
được thông báo của Toà án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo, trừ trường
hợp có trở ngại khách quan, thì thời gian có trở ngại khách quan không tính vào
thời hạn sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo.
b) Trong thông báo yêu
cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo phải nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ
sung cho người kháng cáo biết để họ thực hiện.
c) Thời gian thực hiện
việc sửa đổi, bổ sung đơn không tính vào thời hạn kháng cáo. Ngày kháng cáo vẫn
được xác định theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2
mục 2 Phần I của Nghị quyết này.
d) Sau khi người kháng
cáo đã sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án cấp
sơ thẩm tiếp tục thực hiện các thủ tục theo quy định tại Điều 248 của BLTTDS.
Hết thời hạn do Toà án ấn định mà người kháng cáo không thực hiện việc sửa đổi,
bổ sung đơn kháng cáo và đơn kháng cáo không có đầy đủ các nội dung chính quy
định tại khoản 1 Điều 244 của BLTTDS, thì đơn kháng cáo không được coi là hợp
lệ. Toà án cấp sơ thẩm trả lại đơn cho người kháng cáo và ghi chú vào sổ nhận
đơn về việc trả lại đơn.
đ) Nếu qua kiểm tra mà
phát hiện thấy đơn kháng cáo là của người không có quyền kháng cáo hoặc nội
dung kháng cáo không thuộc giới hạn của việc kháng cáo, thì trong thời hạn ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn, Toà án cấp sơ thẩm trả lại đơn và ghi
chú vào sổ nhận đơn về việc trả lại đơn.
e) Việc trả lại đơn
kháng cáo được hướng dẫn tại điểm d và điểm đ tiểu mục 4.2 mục 4 này phải được
thông báo bằng văn bản trong đó ghi rõ lý do của việc trả lại đơn.
5.1. Trường hợp đơn
kháng cáo là của người có quyền kháng cáo, nội dung kháng cáo thuộc giới hạn
kháng cáo, nhưng quá thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 245 của BLTTDS và
hướng dẫn tại mục 3 Phần I của Nghị quyết này mà người kháng cáo chưa tường
trình hoặc có tường trình nhưng lý do kháng cáo quá hạn không rõ ràng, thì Toà
án cấp sơ thẩm phải có văn bản yêu cầu người kháng cáo tường trình cụ thể bằng
văn bản về lý do kháng cáo quá hạn và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu có) để
chứng minh cho lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. Toà án cấp sơ
thẩm yêu cầu người kháng cáo quá hạn tường trình cụ thể bằng văn bản về lý do
kháng cáo quá hạn và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu có) trong thời hạn do
Toà án cấp sơ thẩm ấn định nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày người
kháng cáo nhận được thông báo của Toà án yêu cầu làm bản tường trình về lý do
kháng cáo quá hạn. Toà án có thể giao trực tiếp hoặc gửi văn bản này cho người
kháng cáo qua bưu điện.
“Lý do chính đáng” là
trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác (như: do thiên tai, lũ
lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện...) làm cho người kháng cáo
không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định.
5.2. Toà án cấp sơ
thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình về lý do kháng cáo quá hạn và các
tài liệu, chứng cứ (nếu có) chứng minh lý do của việc kháng cáo quá hạn cho Toà
án cấp phúc thẩm để xét kháng cáo quá hạn. Nếu trong vụ án chỉ có kháng cáo quá
hạn, không có kháng cáo khác, không có kháng nghị, thì Toà án cấp sơ thẩm chưa
phải gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
5.3. Việc kháng cáo
quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng được hướng dẫn tại tiểu
mục 5.1 mục 5 này.
5.4. Việc xét lý do
kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm không
phụ thuộc vào việc ngoài các đương sự kháng cáo quá hạn, trong vụ án còn có
kháng cáo của các đương sự khác trong thời hạn quy định tại Điều 245 của BLTTDS
hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát quy định tại Điều 252 của BLTTDS; do đó, khi
nhận được hồ sơ vụ án có nhiều người kháng cáo, Toà án cấp phúc thẩm phải kiểm
tra có kháng cáo nào quá hạn hay không. Nếu có thì phải xét lý do kháng cáo quá
hạn trước khi mở phiên toà.
5.5. Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm
theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét đơn
kháng cáo quá hạn. Trong trường hợp cần thiết Hội đồng xét đơn kháng cáo quá
hạn có quyền triệu tập người kháng cáo quá hạn đến phiên họp trình bày bổ sung
về lý do kháng cáo quá hạn hoặc yêu cầu họ cung cấp tài liệu, giấy tờ bổ sung
chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn của mình là có lý do chính đáng. Đại diện
Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp xét lý do kháng cáo quá hạn đối với
các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà phúc thẩm quy định tại
khoản 2 Điều 264 của BLTTDS.
Trước khi Hội đồng xét
đơn kháng cáo quá hạn thảo luận, một thành viên của Hội đồng nêu tóm tắt nội
dung đơn kháng cáo quá hạn, các tài liệu, chứng cứ chứng minh lý do của việc
kháng cáo quá hạn. Nếu người kháng cáo quá hạn được triệu tập đến phiên họp thì
Hội đồng xét đơn kháng cáo có thể yêu cầu trình bày bổ sung lý do kháng cáo quá
hạn. Hội đồng xét đơn kháng cáo quá hạn có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc
không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn. Quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận kháng cáo quá hạn phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm và người kháng
cáo quá hạn. Trường hợp nhận được quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn của
Toà án cấp phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo theo quy định tại
Điều 249 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 Phần I của Nghị quyết này. Toà án
cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục theo quy định của BLTTDS và gửi hồ sơ vụ
án cho Toà án cấp phúc thẩm (nếu hồ sơ vụ án còn ở Toà án cấp sơ thẩm).
5.6. Thẩm phán Toà án
cấp phúc thẩm đã tham gia Hội đồng xét đơn kháng cáo quá hạn vẫn có thể tham
gia Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
6.1. Sau khi chấp nhận
đơn kháng cáo hợp lệ, nếu người kháng cáo được miễn án phí hoặc không phải nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm tiến hành thủ tục thông
báo về việc kháng cáo và gửi hồ sơ cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại
khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 255 của BLTTDS. Trường hợp họ phải nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo bằng văn bản
cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Thông báo
phải ghi rõ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm phải nộp, nơi nộp tiền, thời hạn
nộp tiền và hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Thông báo
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm được giao trực tiếp hoặc gửi cho người kháng
cáo qua bưu điện.
6.2. Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Toà
án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu hết thời hạn này mà người
kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà không có lý do chính đáng,
thì được coi là họ từ bỏ việc kháng cáo.
“Lý do chính đáng” là
trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 mục 5 Phần I của Nghị quyết này.
6.3. Trong trường hợp
sau khi hết thời hạn mười ngày, người kháng cáo mới nộp cho Toà án biên lai nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và không có tường trình về lý do chậm nộp biên
lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người
kháng cáo trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày Toà án yêu cầu phải làm
bản tường trình nộp cho Toà án cấp sơ thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp
này được coi như kháng cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm thực hiện theo hướng
dẫn tại mục 5 Phần I của Nghị quyết này.
6.4. Toà án cấp sơ
thẩm không phải tiến hành thủ tục thông báo về việc kháng cáo đã được coi là từ
bỏ hướng dẫn tại tiểu mục 6.2 mục 6 này và không phải gửi hồ sơ cho Toà án cấp
phúc thẩm, trừ trường hợp trong vụ án còn có kháng cáo của người khác, kháng
nghị của Viện kiểm sát.
7.1. Khi thực hiện
thông báo về việc kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm không phải thông báo về việc
kháng cáo cho chính người đã kháng cáo. Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay
bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo
(nếu việc xét xử phúc thẩm vụ án do có kháng cáo có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của đương sự đó) biết về việc kháng cáo.
7.2. Đương sự được
thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội
dung kháng cáo cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của người được
thông báo phải được lưu vào hồ sơ vụ án. Trường hợp người được thông báo gửi
văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm mà hồ
sơ vụ án chưa gửi cho Toà án cấp phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm đưa văn bản
này vào hồ sơ vụ án và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm; nếu hồ sơ vụ án đã gửi cho
Toà án cấp phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm phải gửi văn bản đó cho Toà án cấp
phúc thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án và xem xét khi xét xử phúc thẩm.
Những phần của bản án,
quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật, kể
từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được đưa ra thi hành khi có đầy
đủ các điều kiện sau đây:
a) Độc lập với những
phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị;
b) Việc xét kháng cáo,
kháng nghị đối với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị không có liên quan đến những phần của bản án, quyết định sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị.
Ví dụ: Tại bản án số
35/2006/HNGĐ-ST ngày 15-02-2006, Toà án nhân dân huyện H, tỉnh HT. đã quyết
định cho anh A được ly hôn chị B; giao chị B trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con chung là cháu C, anh A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi
tháng 200.000 đồng và chia tài sản chung của vợ chồng cho anh A và chị B. Sau
khi xét xử sơ thẩm anh A không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị. Chị B
chỉ kháng cáo bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, những phần
của bản án sơ thẩm về ly hôn giữa anh A và chị B; về trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn không bị
kháng cáo, kháng nghị, độc lập với phần bản án sơ thẩm bị chị B kháng cáo và
việc xét kháng cáo phần bản án sơ thẩm này không có liên quan đến những phần
của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; do đó những phần của bản án
sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi
hành.
9.1. Toà án cấp sơ
thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo
cho Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm và trong vụ án không có người khác kháng cáo.
9.2. Nếu người kháng
cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn năm ngày làm việc để
Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ
kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm, được tính kể từ ngày người kháng cáo nộp cho
Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
9.3. Nếu có nhiều
người kháng cáo và họ đều phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn
năm ngày làm việc để Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị,
tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm, được tính kể từ ngày
người nộp cuối cùng cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm.
10.1.
Về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp vẫn còn
thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS,
thì người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung nội
dung kháng cáo, kháng nghị đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có
quyền kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp người kháng
cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng sau
đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng
nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.
b) Trường hợp đã hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 của
BLTTDS, thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm người
kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo,
kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị đã gửi cho
Toà án trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
10.2.
Về việc rút kháng cáo, kháng nghị.
a) Toà án cấp phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà
người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị khi có đủ
các điều kiện sau đây:
a.1) Người kháng cáo
rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút kháng nghị mà trong vụ án không còn có
kháng cáo của người khác, không có kháng nghị của Viện kiểm sát đối với phần
của bản án, quyết định sơ thẩm đó.
a.2) Phần bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị mà kháng cáo hoặc kháng nghị đó
đã được rút độc lập với những phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị và việc xét kháng cáo, kháng nghị này không liên quan đến phần
bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị đã được rút.
Ví dụ: Trong ví dụ nêu
tại điểm b mục 8 Phần I của Nghị quyết này, sau khi xét xử sơ thẩm, anh A không
kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm mà chỉ có chị B kháng
cáo bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng. Trước khi mở
phiên toà phúc thẩm hoặc tại phiên toà phúc thẩm nếu chị B rút kháng cáo, thì
Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần của
vụ án mà chị B đã rút kháng cáo vì trong vụ án không có kháng cáo của người
khác, không có kháng nghị của Viện kiểm sát.
Trường hợp anh A cũng
kháng cáo bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng vì lý do
Toà án cấp sơ thẩm quyết định buộc anh A phải thanh toán một số khoản nợ mà chị
B vay không sử dụng cho mục đích chung của vợ chồng, mặc dù chị B rút kháng
cáo, thì phần bản án sơ thẩm mà chị B rút kháng cáo vẫn có liên quan đến phần
bản án sơ thẩm bị anh A kháng cáo. Do đó, trường hợp này Toà án cấp phúc thẩm
không ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần của vụ án mà chị B
đã rút kháng cáo.
b) Trường hợp người
kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo và Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước
khi bắt đầu hoặc tại phiên toà (trong vụ án không còn có kháng cáo, kháng
nghị), thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Trước khi mở phiên toà
việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên toà thực hiện, còn tại phiên toà do Hội đồng xét xử thực hiện. Bản án
sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm.
10.3.
Về hình thức thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị.
a) Việc thay đổi, bổ
sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn
bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm.
Toà án cấp phúc thẩm
phải thông báo bằng văn bản về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng
nghị đó cho các đương sự biết theo quy định tại khoản 3 Điều 256 của BLTTDS và
hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 Phần I của Nghị quyết này, đồng thời tiến hành
các công việc theo quy định của BLTTDS để mở phiên toà xét xử phúc thẩm vụ án
đối với kháng cáo, kháng nghị, phần kháng cáo, kháng nghị còn lại theo thủ tục
chung.
b) Việc thay đổi, bổ
sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên
toà. Toà án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung
đối với kháng cáo, kháng nghị đã được thay đổi, bổ sung và phần kháng cáo,
kháng nghị còn lại.
II. VỀ CHƯƠNG XVI “CHUẨN BỊ XÉT XỬ
PHÚC THẨM”
1.
Về khoản 2 Điều 257 của BLTTDS
1.1. Đối với Toà án
nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án có thể uỷ nhiệm cho một Phó Chánh án hoặc uỷ
quyền cho Chánh toà hoặc Phó Chánh toà thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và
phân công một Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà.
1.2. Đối với Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao, Chánh toà có thể uỷ nhiệm cho một Phó Chánh toà
thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ toạ
phiên toà.
1.3. Khi phân công
Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm, thì cần tiếp tục phân công các
Thẩm phán đã tham gia Hội đồng xét kháng cáo quá hạn. Việc phân công này không
phải ra quyết định.
Điều 258 của
BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét
xử phúc thẩm; do đó, các thời hạn quy định trong Điều này đều được tính trong
thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Tuỳ từng trường hợp cụ thể thời hạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm được tính như sau:
2.1.
Trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
a) Nếu không phải gia
hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa là hai tháng,
kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án.
b) Nếu phải kéo dài
thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại
khách quan, thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm tối đa là ba tháng, kể từ
ngày Toà án thụ lý vụ án.
c) Trong các trường
hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b tiểu mục 2.1. mục 2 này mà phiên toà
không được mở trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra
xét xử vì có lý do chính đáng, thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng trường
hợp được cộng thêm tối đa là một tháng nữa.
2.2.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.
Trường hợp có quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét xử
kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm bắt đầu tính lại, kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc
thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa.
2.3.
Về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm.
Đối với những vụ án có
tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan quy định tại khoản 1 Điều 258
của BLTTDS mà thời hạn chuẩn bị xét xử
phúc thẩm gần hết (thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm còn lại không quá năm
ngày) và Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà thấy rằng vụ án phức
tạp nên chưa thể ra được một trong những quyết định quy định tại khoản 1 Điều
258 của BLTTDS, thì cần phải báo ngay với Chánh án Toà án cấp phúc thẩm để ra
quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Việc gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm không được quá thời hạn quy định tại đoạn cuối khoản
1 Điều 258 của BLTTDS và hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần II của
Nghị quyết này. Hết thời hạn được gia hạn, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ
phiên toà phải ra một trong những quyết định quy định tại khoản 1 Điều 258 của
BLTTDS.
Việc xác định những vụ
án có tính chất phức tạp, trở ngại khách quan, lý do chính đáng được thực hiện
theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 Phần II của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp
sơ thẩm” của BLTTDS.
Quyết định đưa vụ án
ra xét xử phúc thẩm phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những
người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị sau khi Toà án ra quyết định,
không phân biệt vụ án đó Viện kiểm sát cùng cấp có tham gia phiên toà phúc thẩm
hay không.
3.
Về khoản 2 Điều 262 của BLTTDS
Trường hợp Viện kiểm
sát cùng cấp tham gia phiên toà phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ
vụ án cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cho Viện kiểm sát theo
hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I Thông tư liên tịch số
03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự”.
III. VỀ CHƯƠNG XVII “THỦ TỤC XÉT XỬ
PHÚC THẨM”
Có liên quan đến việc
xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị là trường hợp việc giải quyết kháng cáo,
kháng nghị đối với phần này của bản án, quyết định sơ thẩm đòi hỏi phải xem
xét, giải quyết đồng thời phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm đó mặc dù
phần này không bị kháng cáo, kháng nghị.
Ví dụ: Tại bản án số
45/2006/DS-ST ngày 17-3-2006, Toà án nhân dân huyện K, tỉnh TN đã quyết định xử
chia di sản thừa kế của ông N cho năm thừa kế theo pháp luật của ông N. Toà án
cấp sơ thẩm còn quyết định các thừa kế của ông N phải thực hiện nghĩa vụ về tài
sản do ông N để lại đối với ông B. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông B kháng cáo phần
bản án sơ thẩm về thanh toán nghĩa vụ tài sản mà các thừa kế của ông N phải
thực hiện đối với ông B trong khối di sản do ông N để lại.
Trường hợp này việc
giải quyết kháng cáo của ông B đòi hỏi phải xem xét đồng thời phần bản án về
chia di sản thừa kế của ông N cho các thừa kế theo đúng quy định của Bộ luật
dân sự là người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại.
2.1. Người kháng cáo
vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải
hoãn phiên toà. Trường hợp không xác định được người kháng cáo vắng mặt lần thứ
nhất có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét xử phúc
thẩm cũng hoãn phiên toà.
Trường hợp người kháng
cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên toà, thì
bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt (nếu trong
vụ án không có người kháng cáo khác). Trường hợp có nhiều người kháng cáo mà có
người kháng cáo thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 266 của BLTTDS, thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung
đối với kháng cáo của những người kháng cáo có mặt tại phiên toà. Đối với phần
vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm
đình chỉ xét xử phúc thẩm mà không phải ra quyết định riêng bằng văn bản, nhưng
phải ghi rõ quyết định này trong bản án, nếu phần vụ án có kháng cáo của người
kháng cáo vắng mặt không liên quan đến phần khác của bản án bị kháng cáo, kháng
nghị.
Toà án cấp phúc thẩm
cũng phải hoãn phiên toà đối với người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà phúc
thẩm thuộc trường hợp hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần III của Nghị quyết
số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS.
2.2. Đối với người
tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà, thì
việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy
định tại các điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 của BLTTDS và hướng
dẫn tại các mục 1 và 2 Phần III của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các
quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm”
của BLTTDS. Người tham gia tố tụng khác phải là người liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị theo quy định tại Điều 263 của BLTTDS, thì Toà án cấp phúc thẩm mới
xem xét việc hoãn phiên toà. Nếu họ không có liên quan đến việc xét xử phúc
thẩm (quyền lợi, nghĩa vụ của họ độc lập với việc xem xét kháng cáo, kháng
nghị) thì Toà án cấp phúc thẩm không phải xem xét việc hoãn phiên toà.
2.3. Trường hợp Hội
đồng xét xử phúc thẩm hoãn phiên toà phúc thẩm, thì thời hạn hoãn phiên toà và
quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 208
của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 3 Phần III của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
ngày 12-5-2006 nêu trên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Việc chuẩn bị khai mạc
phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm cũng được thực hiện
theo quy định tại các điều 212, 213, 214, 215 và 216 của BLTTDS. Do đó, khi
chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và tiến hành thủ tục bắt đầu phiên toà
phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải thi hành đúng các quy định tại các
điều luật nêu trên của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 5 Phần III của Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
4.1. Việc rút đơn khởi
kiện của nguyên đơn trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản. Việc
rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tại phiên toà không phải làm thành văn bản,
nhưng phải ghi vào biên bản phiên toà.
4.2. Trong thời hạn
nguyên đơn có quyền kháng cáo, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện, thì Toà án cấp
sơ thẩm cần phải giải thích cho họ biết hậu quả của việc bị đơn không đồng ý để
họ quyết định việc kháng cáo hoặc rút đơn khởi kiện.
Trường hợp nguyên đơn
vẫn quyết định rút đơn khởi kiện thì Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo bằng văn
bản cho bị đơn biết và yêu cầu bị đơn phải trả lời bằng văn bản cho Toà án cấp
sơ thẩm về việc họ có đồng ý hay không đồng ý trong thời hạn năm ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án. Tuỳ thuộc vào kết quả trả lời của bị
đơn mà giải quyết như sau:
a) Trường hợp Toà án
cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn không đồng ý việc rút đơn khởi
kiện của nguyên đơn và trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị không có đương sự
nào kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị, thì việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn đương nhiên không được chấp nhận. Trong trường hợp này bản án sơ
thẩm được coi là không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
b) Trường hợp Toà án
cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện
của nguyên đơn, thì không phân biệt trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị có
đương sự nào kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị hay không, Toà án cấp sơ
thẩm đều phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị, văn bản rút đơn khởi
kiện cho Toà án cấp phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào Điều 269 của
BLTTDS mở phiên toà giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
4.3. Trường hợp đương
sự có kháng cáo (bao gồm cả nguyên đơn) hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị, nhưng
trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi
kiện, thì Toà án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều
269 của BLTTDS.
4.4. Khi Toà án cấp
phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 269 của BLTTDS, thì căn cứ vào quyết định của Toà
án cấp sơ thẩm về án phí trong bản án sơ thẩm bị huỷ, Toà án cấp phúc thẩm
quyết định đương sự nào phải chịu án phí và mức án phí sơ thẩm. Đối với trường hợp
này các đương sự còn phải chịu một nửa án phí phúc thẩm.
5.1. Trường hợp trước
khi mở phiên toà phúc thẩm, các đương sự đã tự thoả thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án và các đương sự yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm công nhận sự thỏa
thuận của họ, thì Tòa án yêu cầu các đương sự
làm văn bản ghi rõ nội dung thỏa thuận và nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm
để đưa vào hồ sơ vụ án. Văn bản này được coi như chứng cứ mới bổ sung. Tại
phiên toà phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi lại các đương sự về thỏa
thuận của họ là có tự nguyện hay không và xem xét thoả thuận đó có trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội hay không; nếu thoả thuận của họ là tự nguyện, không
trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận
và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự.
5.2. Tại phiên toà
phúc thẩm nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
thì thoả thuận này phải được ghi vào biên bản phiên toà. Nếu xét thấy thoả
thuận của các đương sự là tự nguyện không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội,
thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận và ra bản án phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
5.3. Trong các trường
hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 và 5.2 mục 5 này, Hội đồng xét xử cần hướng
dẫn cho các đương sự thoả thuận về trách nhiệm chịu án phí sơ thẩm; nếu họ
không thoả thuận được, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định theo quy định
của pháp luật về án phí.
6.1. Toà án cấp phúc
thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho người đã kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp
pháp của họ và các chủ thể khác theo đúng quy định tại Điều 281 của BLTTDS.
6.2. Trường hợp phải
gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho một trong những người được hướng dẫn tại
tiểu mục 6.1 mục 6 này mà họ là người nước ngoài thì Toà án phải dịch bản án,
quyết định đó sang tiếng nước ngoài, nếu điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định.
Trường hợp đương sự là
người nước ngoài là công dân của nước chưa ký kết điều ước quốc tế với Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
đã áp dụng nguyên tắc có đi, có lại thì áp dụng nguyên tắc có đi, có lại
1. Ban hành kèm theo
Nghị quyết này các mẫu văn bản tố tụng sau đây:
1.1. Đơn kháng cáo
(mẫu số 01)
1.2. Giấy báo nhận đơn
kháng cáo (mẫu số 02)
1.3. Thông báo về việc
sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo (mẫu số 03)
1.4. Thông báo về việc
trình bày lý do kháng cáo quá hạn (mẫu số 04)
1.5. Thông báo trả lại
đơn kháng cáo (mẫu số 05)
1.6. Quyết định chấp
nhận việc kháng cáo quá hạn (mẫu số 06)
1.7. Quyết định không
chấp nhận việc kháng cáo quá hạn (mẫu số 07)
1.8. Thông báo nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (mẫu số 08)
1.9. Thông báo về việc
kháng cáo (mẫu số 09)
1.10. Thông báo về
việc sửa đổi, bổ sung kháng cáo (kháng nghị) (mẫu số 10)
1.11. Thông báo về
việc rút kháng cáo (kháng nghị) (mẫu số 11)
1.12. Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm (mẫu số 12)
1.13. Quyết định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 13)
1.14. Quyết định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 14)
1.15. Quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 15)
1.16. Quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 16)
1.17. Quyết định huỷ
bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (mẫu số 17)
1.18. Quyết định giải
quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ (đình chỉ)
giải quyết vụ án (mẫu số 18)
1.19. Biên bản phiên
toà phúc thẩm (mẫu số 19)
1.20. Quyết định hoãn
phiên toà phúc thẩm (mẫu số 20)
1.21. Bản án phúc thẩm
(mẫu số 21)
1.22. Thông báo sửa
chữa, bổ sung bản án phúc thẩm (mẫu số 22)
2. Mẫu văn bản tố tụng
ban hành kèm theo Nghị quyết này chỉ hướng dẫn về nội dung để Toà án ban hành
văn bản tố tụng tương ứng trong quá trình giải quyết vụ án. Khi ban hành các
văn bản tố tụng cụ thể, Toà án phải thực hiện đúng nội dung và hướng dẫn sử dụng
mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết, thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06-5-2005 của Bộ Nội vụ - Văn phòng Chính
phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, như: văn bản phải được
trình bày trên giấy khổ A4 (210 mm x 297 mm), về khổ chữ, về hình thức văn bản…
3. Trong quá trình sử
dụng mẫu văn bản tố tụng, nếu cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mẫu văn bản tố
tụng mới thì báo cáo cho Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao giao cho Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao
nghiên cứu, soạn thảo mẫu văn bản tố tụng sửa đổi, bổ sung hoặc mẫu văn bản tố
tụng mới trình Chánh án Toà án nhân dân tối cao ký ban hành.
V. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
Nghị quyết này đã được
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 04 tháng 8 năm 2006
và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo./.
|
TM.
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét