HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Số: 05/2019/NQ-HĐTP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019 |
NGHỊ QUYẾT
------------
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ
Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại các điều 214, 215
và 216 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; Bộ luật Tố tụng hình sự
số 101/2015/QH13;
Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Nghị quyết
này hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 214 về tội
gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về
tội gian lận bảo hiểm y tế và Điều 216 về tội trốn đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động của Bộ luật
Hình sự.
Điều 2. Về một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng các điều
214, 215 và 216 của Bộ luật Hình sự
1. Lập
hồ sơ giả quy định tại điểm a khoản 1 Điều 214 của Bộ
luật Hình sự là hành vi lập hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong
đó có giấy tờ, tài liệu giả (ví dụ: giấy tờ, tài liệu không có thật, không do
cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc cấp không đúng quy định, không đúng thẩm quyền,
không đúng thời hạn...) để thanh toán các chế độ: ốm đau; thai sản; tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất; trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ tư vấn,
giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình
độ kỹ năng để duy trì việc làm cho người lao động và chế độ khác theo quy định
của pháp luật.
2. Lập
hồ sơ bệnh án khống quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215
của Bộ luật Hình sự là trường hợp không có sự việc khám bệnh, chữa bệnh hoặc có
sự việc khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng họ không
phải điều trị mà vẫn lập hồ sơ bệnh án cho họ.
3. Kê
đơn thuốc khống quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của
Bộ luật Hình sự là trường hợp không có sự việc khám
bệnh, chữa bệnh hoặc có sự việc khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng không có việc sử dụng thuốc mà vẫn kê đơn
thuốc cho người có thẻ bảo hiểm y tế.
4. Kê
tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh quy định tại điểm a khoản 1 Điều
215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp có sự việc khám bệnh, chữa bệnh của
người tham gia bảo hiểm y tế nhưng kê số lượng thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ
thuật nhiều hơn số lượng thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật mà thực tế người
bệnh sử dụng hoặc kê thêm các loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật mà thực
tế người bệnh không sử dụng; kê tăng số lượng ngày điều trị nội trú tại cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh hoặc kê không đúng tên thuốc, vật tư y tế, loại giường và
các dịch vụ kỹ thuật khác mà thực tế người bệnh đã sử dụng để làm tăng tiền chi
phí khám bệnh, chữa bệnh thanh toán với quỹ
bảo hiểm y
tế.
5. Chi phí khác quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215
của Bộ luật Hình sự là các chi phí phát sinh trong quá trình khám bệnh, chữa
bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bao gồm chi
phí tiền thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật và chi phí giường bệnh (ví dụ:
tiền công khám, chi phí vận chuyển người bệnh...).
6. Giả
mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế quy định tại điểm b khoản 1 Điều 215 của Bộ luật
Hình sự là hành vi lập, sử dụng hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế không do cơ quan có
thẩm quyền cấp hoặc giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế của người khác để hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định.
7. Thẻ
bảo hiểm y tế được cấp khống quy định tại điểm b khoản 1
Điều 215 của Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp cho người không đóng hoặc không thuộc diện được các tổ chức,
nguồn quỹ khác đóng bảo hiểm y tế theo quy định.
8. Thẻ
bảo hiểm y tế giả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 215
của Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế không
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
9. Thẻ
đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa quy định tại điểm b khoản 1
Điều 215 của Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp cho người tham gia bảo hiểm y tế nhưng đã bị thu hồi theo quy định của pháp luật và bảo hiểm y tế hoặc thẻ đã bị sửa chữa, làm sai lệch thông
tin của người có thẻ.
10. Trốn
đóng bảo hiểm quy định tại Điều 216 của Bộ luật
Hình sự là hành vi của người sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng
thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động thuộc
đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
11. Gian
dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp quy định tại khoản 1
Điều 216 của Bộ luật Hình sự là trường hợp cố ý không kê khai hoặc
kê khai không đúng thực tế việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp với cơ quan có thẩm quyền.
12. Không
đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người sử
dụng lao động không gửi hồ sơ đăng ký đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp đối với người lao động hoặc có gửi hồ sơ và đã xác định rõ,
đầy đủ số người phải đóng hoặc các khoản phải đóng, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán
lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp, nhưng không đóng tiền bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo
quy định.
13. Không
đóng đầy đủ quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật
Hình sự là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng
bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập
doanh nghiệp nhưng chỉ đóng một phần tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định.
14. 06
tháng trở lên quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ
luật Hình sự được xác định là 06 tháng liên tục hoặc 06 tháng cộng dồn trở lên.
Ví dụ:
Trong thời gian từ tháng 5 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, Doanh nghiệp A không
đóng bảo hiểm xã hội 04 tháng trong năm 2018 (gồm các tháng 5, 7, 9 và 11) và
02 tháng trong năm 2019 (tháng 01 và tháng 02) là không đóng bảo hiểm xã hội 06
tháng cộng dồn trở lên.
15. Thiệt
hại do hành vi phạm tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp quy định tại Điều 214 và Điều 215 của Bộ luật Hình
sự gây ra không bao gồm số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
y tế bị chiếm đoạt.
Điều 3. Về một số tình tiết định khung hình phạt
1. Có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm
b khoản 2 các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và
người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu
nhập.
2. Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt quy định tại
điểm đ khoản 2 các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao, móc nối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước
hoặc thủ đoạn gian dối, mánh khóe khác để tiêu hủy chứng cứ, che giấu hành vi
phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.
3. Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm a khoản 2 Điều
216 của Bộ luật Hình sự; là trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội trốn
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động từ
02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Không
đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm d khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 216 của Bộ luật Hình sự
là trường hợp người sử dụng lao động đã
thu hoặc đã khấu trừ tiền đóng bảo hiểm từ tiền lương tháng đóng bảo hiểm của
người lao động nhưng không đóng cho cơ quan bảo hiểm.
Điều 4. Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể
1. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi quy
định tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự chiếm đoạt
tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trong các hành vi
đó chưa có lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt
vi phạm hành chính hoặc chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
tổng số tiền bảo hiểm của các lần bị chiếm đoạt bằng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ
luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều
lần cùng loại hành vi phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương
ứng theo tổng số tiền của các lần bị chiếm
đoạt, nếu các hành vi được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
2. Trường
hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi
quy định tại các điều 214
và 215 của Bộ luật Hình sự gây thiệt
hại cho quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trong các
hành vi đó chưa có lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu
xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu tổng số tiền của các lần bị thiệt hại bằng hoặc trên mức tối thiểu để
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng số tiền của các lần
gây thiệt hại, nếu các hành vi được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt
thời gian.
3. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm
tội vừa chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp vừa gây
thiệt hại mà số tiền bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại đều trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự thì xử lý như sau:
a) Nếu số
tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại đều thuộc khung hình phạt cơ
bản thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt cơ
bản.
Ví dụ: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã
hội chiếm đoạt 20.000.000 đồng và gây thiệt hại 150.000.000 đồng thì Nguyễn Văn
A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Hình
sự.
b) Nếu số
tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại thuộc các khung hình phạt
khác nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình
phạt cao hơn.
Ví dụ:
Nguyễn Văn A thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm đoạt
20.000.000 đồng và gây thiệt hại 250.000.000 đồng thì Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gian
lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại điểm d
khoản 2 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.
c) Nếu số
tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại cùng một khung hình phạt tăng
nặng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo cả hai tình tiết
định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Ví dụ:
Nguyễn Văn B thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm đoạt
150.000.000 đồng và gây thiệt hại 250.000.000
đồng thì Nguyễn Văn B bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp với tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.
4. Người
thực hiện hành vi làm giả hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
y tế, thẻ bảo hiểm y tế để chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc gây thiệt hại, ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phạm tương ứng quy định tại các điều 214 hoặc
215 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc
tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 của
Bộ luật Hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm.
1. Đối với
hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thực
hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không xử lý về hình sự
theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng
trường hợp xử lý như sau:
a) Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu
xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm
hành chính.
b) Trường
hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức
bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật Xử lý vi
phạm hành chính. Việc thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính này thực hiện theo pháp luật về thi hành, cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
c) Trường
hợp gây thiệt hại cho người lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc tổ chức, cá
nhân khác thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
2. Không
coi việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trước 0 giờ 00 phút ngày
01 tháng 01 năm 2018 là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự.
Điều 6. Xác định tư cách tố tụng của cơ quan bảo hiểm xã hội
Trong các
vụ án hình sự mà bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo Điều 214 của Bộ
luật Hình sự; tội gian lận bảo hiểm y tế theo Điều 215 của
Bộ luật Hình sự; tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động theo Điều 216 của Bộ luật Hình sự, cơ quan bảo hiểm xã hội tham gia tố
tụng với tư cách là bị hại.
1. Khi phát
hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 214,
215 và 216 của Bộ luật Hình sự, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan bảo hiểm xã hội gửi văn bản kiến nghị
khởi tố kèm theo chứng cứ, tài liệu có liên quan đến cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện cho người lao động và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác phát hiện hành vi có
dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 214, 215 và 216 của
Bộ luật Hình sự thì thông báo ngay đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự.
2. Khi nhận
được tin báo về tội phạm hoặc văn bản kiến nghị khởi tố và chứng cứ, tài liệu có liên quan, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải xem xét, thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Việc gửi
văn bản kiến nghị khởi tố và chuyển chứng cứ, tài liệu có liên quan đến cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố.
Nghị quyết này đã được Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 6 năm 2019 và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2019.
Nơi nhận: |
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét