|
|
Số: Không số |
Hà Nội, ngày 25 tháng 9
năm 1989 |
PHÁP LỆNH
HỢP ĐỒNG KINH
TẾ
Để bảo đảm các quan hệ kinh
tế được thiết lập và thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế nhằm đẩy mạnh sản xuất và lưu thông hàng hoá;
Để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, đề cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ kinh tế; giữ vững
trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kinh
tế;
Căn cứ vào Điều 34 và Điều
100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này quy định chế
độ hợp đồng kinh tế.
Chương I
Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau
đây:
a) Pháp nhân với pháp nhân;
b) Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật.
Thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng kinh tế đã ký kết là nghĩa vụ của đơn
vị kinh tế. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp
luật việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp
được thể hiện trong hợp đồng kinh tế của các bên ký kết.
Các bên ký kết có quyền yêu cầu làm chứng thư hợp
đồng kinh tế tại cơ quan công chứng.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký một số loại hợp
đồng kinh tế theo quy định của pháp luật.
1- Những hợp đồng kinh tế sau đây bị coi là vô hiệu toàn bộ:
a) Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của
pháp luật;
c) Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền
hoặc có hành vi lừa đảo.
2- Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần
đó vi phạm điều cấm của pháp luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần
còn lại của hợp đồng.
3- Việc kết luận hợp đồng kinh tế là vô hiệu toàn bộ hoặc từng phần
thuộc thẩm quyền của Trọng tài kinh tế.
Chương II
Người được uỷ quyền chỉ được ký hợp đồng kinh tế trong phạm vi được uỷ
quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.
Các căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế:
a) Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn
mức kinh tế - kỹ thuật hiện hành;
b) Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng;
c) Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế
của mình;
d) Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo đảm
về tài sản của bên cùng ký hợp đồng.
Hợp đồng kinh tế được coi là đã hình thành và có hiệu lực pháp lý từ
thời điểm các bên đã ký vào văn bản hoặc từ khi các bên nhận được tài liệu giao
dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả những điều khoản chủ yếu của hợp đồng,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với từng loại hợp đồng kinh tế.
1- Hợp đồng kinh tế bao gồm các điều khoản sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và
ngân hàng giao dịch của các bên, họ, tên người đại diện, người đứng tên đăng ký
kinh doanh;
b) Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc
giá trị quy ước đã thoả thuận;
c) Chất lượng, chủng loại, quy sách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng
hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc;
d) Giá cả;
đ) Bảo hành;
e) Điều kiện nghiệm thu, giao nhận;
g) Phương thức thanh toán;
h) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế;
i) Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế;
k) Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế;
l) Các thoả thuận khác.
2- Các điều khoản quy định tại các điểm a, b, c, d, khoản 1, Điều này
là điều khoản chủ yếu của các hợp đồng kinh tế. Các điều khoản khác liên quan
trực tiếp đến đặc điểm của từng loại hợp đồng kinh tế cũng là điều khoản chủ
yếu của loại hợp đồng kinh tế đó.
Đối với sản phẩm, hàng hoá mới chưa đăng ký tiêu chuẩn chất lượng hoặc
công việc không thể hiện được bằng các tiêu chuẩn chất lượng cụ thể thì nhất
thiết phải ghi rõ trong hợp đồng kinh tế sự thoả thuận về chất lượng sản phẩm,
hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc.
Các bên có quyền thoả thuận những quy định về việc sửa chữa hoặc xử lý
các sai sót khi có vi phạm chất lượng sản phẩm, hàng hoá, công việc trong thời
hạn bảo hành.
Đối với sản phẩm, hàng hoá do Nhà nước định giá thì giá ghi trong hợp
đồng kinh tế phải phù hợp với giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.
Trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau thì địa điểm và
phương thức giao nhận phải theo các quy định của pháp luật đối với từng loại
hợp đồng kinh tế.
Nếu trong hợp đồng kinh tế không có sự thoả thuận của các bên và không
có quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng kinh tế đó, thì địa điểm giao
nhận là kho chính của bên giao hàng, bán hàng và giao trên phương tiện vận
chuyển của bên đặt hàng, mua hàng.
Phương thức thanh toán do các bên thoả thuận
phù hợp với quy định của pháp luật.
Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế do
các bên thoả thuận.
Các bên được quyền thoả thuận về tiền thưởng
để khuyến khích thực hiện tốt hợp đồng kinh tế.
Tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế do các bên thoả thuận trong khung
phạt đối với từng loại hợp đồng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp
không có quy định của pháp luật, các bên có quyền thoả thuận về mức tiền phạt.
Các bên có quyền đưa vào hợp đồng kinh tế
những thoả thuận khác không trái pháp luật.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, các bên có quyền ký biên
bản bổ sung những điều mới thoả thuận vào hợp đồng kinh tế. Biên bản bổ sung có
giá trị pháp lý như hợp đồng kinh tế.
Chương III
THỰC
HIỆN, THAY ĐỔI, ĐÌNH CHỈ THANH LÝ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, nếu một bên gặp khó khăn có
thể dẫn đến vi phạm hợp đồng thì phải thông báo ngay cho bên kia biết, đồng
thời phải tìm mọi biện pháp khắc phục. Bên nhận được thông báo, tuỳ theo khả
năng của mình góp phần khắc phục khó khăn đó và tìm mọi biện pháp hạn chế những
thiệt hại có thể xảy ra.
Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện theo phương thức và thời hạn
thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng kinh tế. Nếu trong hợp đồng không ghi
thời hạn, thì thời hạn trả tiền là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hoá đơn,
giấy đòi tiền. Nghĩa vụ trả tiền được coi là hoàn thành từ khi chuyển đủ tiền
trên tài khoản của mình tại Ngân hàng cho bên đòi hoặc khi bên đòi trực tiếp
nhận đủ số tiền mặt theo hoá đơn.
Người nhận chuyển giao có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng kinh tế được
chuyển giao. Trong trường hợp người nhận chuyển giao không đủ điều kiện thực
hiện hợp đồng kinh tế được chuyển giao thì yêu cầu bên chuyển giao phải thanh
lý hợp đồng kinh tế trước khi nhận chuyển giao.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên có quan
hệ hợp đồng kinh tế với bên chuyển giao có quyền yêu cầu thanh lý hợp đồng kinh
tế bằng văn bản. Trong thời hạn đó, nếu không có yêu cầu thanh lý hợp đồng kinh
tế thì việc chuyển giao hợp đồng kinh tế coi như đã được chấp nhận.
Các bên phải cùng nhau thanh lý hợp đồng kinh
tế trong trường hợp:
1- Hợp đồng kinh tế được thực hiện xong;
2- Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế đã hết và không có sự thoả
thuận kéo dài thời hạn đó;
3- Hợp đồng kinh tế bị đình chỉ thực hiện hoặc huỷ bỏ;
4- Khi hợp đồng kinh tế không được tiếp tục thực hiện theo quy định tại
đoạn 2, đoạn 3 Điều 24 hoặc Điều 25 của Pháp lệnh này.
Chương IV
TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÀ XỬ LÝ HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÔ
HIỆU
1- Các bên phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với nhau về việc
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng kinh tế.
2- Bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm
hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo
quy định sau đây:
a) Mức tiền phạt vi phạm hợp đồng từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng
kinh tế bị vi phạm. Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết mức tiền phạt theo
loại vi phạm đối với từng loại hợp đồng kinh tế.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu bên
nhận thông báo không trả lời thì coi như đã chấp nhận có sai sót.
Bên bảo hành có nghĩa vụ phải sửa chữa các sai sót về chất lượng. Các
bên có quyền thoả thuận thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá hoặc
đổi lấy sản phẩm, hàng hoá khác.
Nếu sai sót không được sửa chữa hoặc việc sửa chữa bị kéo dài dẫn đến
việc sản phẩm, hàng hoá không thể sử dụng đúng theo mục đích của hợp đồng thì
bên bị vi phạm có quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại như
trường hợp không thực hiện hợp đồng quy định tại Điều 37 của Pháp lệnh này.
Nếu bên nhận sản phẩm, hàng hoá tự sửa chữa sai sót về chất lượng theo
sự thoả thuận của bên vi phạm thì có quyền đòi bên vi phạm trả tiền chi phí sửa
chữa.
Trong thời hạn bảo hành bắt buộc theo quy định của pháp luật, nếu xảy
ra thiệt hại do chất lượng của sản phẩm, hàng hoá không đúng thoả thuận trong
hợp đồng kinh tế thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm.
Trong trường hợp từng phần hoặc toàn bộ hợp đồng kinh tế được thực hiện
trước thời hạn, bên đặt hàng có quyền không nhận, nếu trong hợp đồng không có
quy định khác.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy đòi tiền phạt,
bên vi phạm phải trả tiền phạt vi phạm hợp đồng cho bên bị vi phạm; nếu quá
hạn, bên vi phạm phải chịu lãi suất chậm trả trên số tiền phạt theo quy định
của pháp luật.
Khi có thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh tế thì bên bị vi phạm có
quyền đưa yêu cầu bồi thường thiệt hai. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu bồi thường thiệt hai, nếu bên vi phạm không trả lời hoặc
không chấp nhận yêu cầu đó thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Trọng tài kinh
tế giải quyết.
Bên đòi bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh việc đã áp
dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại ngay sau khi được biết có vi
phạm.
Thời hạn trả tiền bồi thường thiệt hại là ba mươi ngày, kể từ ngày chấp
nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc ngày có quyết định của Trọng tài kinh
tế; nếu quá hạn, bên vi phạm phải chịu lãi suất chậm trả trên số tiền bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
1- Việc xử lý hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ theo quy định
như sau:
a) Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa được thực hiện thì các
bên không được phép thực hiện;
b) Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện một phần thì
các bên phải chấm dứt việc tiếp tục thực hiện và bị xử lý về tài sản;
c) Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện xong, thì
các bên bị xử lý tài sản.
2- Việc xử lý tài sản quy định tại điểm b, điểm c khoản 1, Điều này
tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
b) Thu nhập bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách Nhà nước;
c) Thiệt hại phát sinh, các bên phải chịu.
3- Người nào ký hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, người nào
cố ý thực hiện hợp đồng đã bị coi là vô hiệu toàn bộ thì tuỳ theo mức độ nhẹ
hoặc nặng của vi phạm pháp luật mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các
bên phải sửa đổi các điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích
ban đầu và bị xử lý theo các quy định khác của pháp luật.
1- Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể
lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục.
2- Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
3- Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ
ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1
và điểm 2, Điều này.
4- Việc vi phạm hợp đồng kinh tế của một bên là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến sự vi phạm hợp đồng của bên kia.
Chương V
Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh
này đều bãi bỏ.
Đối với việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp
lệnh, Hội đồng bộ trưởng có thể ban hành quy định khác.
|
TM. HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC CHỦ TỊCH (Đã ký) Võ Chí Công |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét