Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại
biểu,
Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày, đã nêu
lên bức tranh toàn cảnh của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta từ Đại hội lần
thứ IV đến Đại hội lần thứ V của Đảng.
Báo cáo tổng hợp những
diễn biến phong phú của tình hình đất nước trong những năm đầu của giai đoạn mới,
giai đoạn nhân dân cả nước cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Phân tích những thành tựu cũng như những mặt yếu kém của
chúng ta trên bước đường tiến lên, báo cáo khẳng định "5 năm qua được ghi
vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường thắng lợi rất vẻ vang của cách mạng Việt
Nam"; đồng thời, Báo cáo cũng vạch ra những vấn đề gay gắt trong tình hình
kinh tế và xã hội hiện nay. Trên cơ sở ấy, Báo cáo xác định nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam, chủ trương lớn cho các lĩnh vực hoạt động của nhân dân
ta trong chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ kế hoạch 5 năm (1981 - 1985),
cho đến năm 1990.
Căn cứ Báo cáo chính
trị, Báo cáo này kiểm điểm những nét lớn về tình hình thực hiện kế hoạch trong
5 năm (1976-1980), trình bày phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về
kinh tế, xã hội trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80, nhằm hướng dẫn việc
xây dựng kế hoạch nhà nước 5 năm (1981 - 1985).
Phần thứ nhất: Nhìn lại
tình hình kinh tế, xã hội những năm 1976 - 1980 và hiện nay
Năm năm (1976 - 1980)
mở đầu giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, là một thời kỳ đấu tranh oanh liệt
của toàn dân ta trên hai mặt trận: chiến đấu chống âm mưu và hành động phá hoại
và xâm lược của nhiều loại kẻ thù, xây dựng cuộc sống mới trong những điều kiện
vô cùng khó khăn. Đó cũng là thời kỳ mà công cuộc chiến đấu và lao động đã làm
sáng ngời bản lĩnh anh hùng và phẩm chất cao quý của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam.
Trên mặt trận kinh tế,
nhân dân ta đã làm được nhiều việc đáng kể. Chúng ta đã nỗ lực khắc phục những
hậu quả nặng nề của chiến tranh xâm lược, do đế quốc Mỹ... và bè lũ tay sai gây
nên; khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền
Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá. Kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở miền Bắc tiếp tục được củng cố. ở miền Nam,
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, công
thương nghiệp tư doanh bước đầu được cải tạo và sắp xếp, một bộ phận nông dân
Nam Bộ được tổ chức lại trong các tập đoàn sản xuất, nông dân Nam Trung Bộ được
đưa vào con đường làm ăn tập thể. Bộ mặt của nông thôn xã hội chủ nghĩa, nhất
là ở miền Bắc, đang hình thành với những cải thiện về đời sống vật chất và văn
hoá. Lực lượng lao động xã hội bước đầu được phân bố lại. Cơ sở vật chất - kỹ
thuật của nền kinh tế quốc dân, năng lực sản xuất trong hầu hết các ngành và
các địa phương được tăng thêm. Trên một số mặt, sản xuất phát triển hơn trước,
nhất là sản xuất nông nghiệp. Nhờ những cố gắng của Nhà nước và của toàn dân
trong việc phục hoá, khai hoang, tăng vụ, làm thủy lợi, mở thêm diện tích gieo
trồng, chúng ta đã vượt qua những thiên tai dồn dập và nặng nề, khắc phục nạn
đói từng uy hiếp nghiêm trọng nhiều vùng rộng lớn của đất nước. Trên mặt trận
văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, y tế..., chúng ta
cũng thu được nhiều thành tựu.
ở mỗi địa phương, mỗi
ngành đều nổi lên những điển hình tiên tiến, những kinh nghiệm phong phú; đó là
nhân tố thuận lợi cho bước phát triển trong những năm tiếp theo. Chúng ta cần
đánh giá đúng mức những thành tựu ấy, những thành tựu đã đạt được với biết bao
công sức của công nhân, nông dân, lao động trí óc và các lực lượng vũ trang của
chúng ta trong những điều kiện vô cùng khó khăn và thiếu thốn của một nước vốn
rất nghèo nàn, lại trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, gian khổ và lâu dài trong một
hoàn cảnh rất phức tạp của tình hình quốc tế và tình hình khu vực.
Tuy nhiên, trong 5
năm (1976 - 1980), kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu
tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc
dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường,
vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn
nhiều khó khăn, nhất là đời sống của công nhân, viên chức và nông dân những
vùng bị thiên tai, địch hoạ.
Càng tự hào về nhân
dân anh hùng đã làm nên thắng lợi, chúng ta càng nghiêm túc trong việc phân
tích những khuyết điểm và sai lầm, rút bài học kinh nghiệm, nhằm đáp ứng tốt
hơn nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Kiểm điểm những việc làm được và những
việc chưa làm được, tìm nguyên nhân của thành tựu và của khó khăn, của ưu điểm
và của khuyết điểm, chúng ta thấy nổi lên một câu hỏi lớn: vì sao đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra là đúng đắn, mà sau 5 năm thực hiện, chúng
ta không đạt được những kết quả về kinh tế như đất nước yêu cầu và khả năng cho
phép?
Trước hết, cần nhìn lại
đường lối do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra.
Đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ rõ phải
nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học, kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học,
kỹ thuật là then chốt, xây dựng chế độ làm chủ tập thể về mọi mặt, xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa;
thấu suốt nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa nước nhà, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp
thành cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển
kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với
xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết
hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài,
trước hết với Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Đó là sự vận dụng
đúng đắn những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và của chủ nghĩa xã hội
vào điều kiện của nước ta dựa trên sự đánh giá đúng những đặc điểm lớn của đất
nước và của thế giới trong thời đại ngày nay, phản ánh ý chí và nguyện vọng của
nhân dân ta phấn đấu từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn
cách mạng của nước ta, với những thành tựu và những thiếu sót trong quá trình tổ
chức thực hiện, đã chứng tỏ sự đúng đắn của đường lối của Đảng.
Vì là đường lối cho cả
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, cho nên đường lối làm nổi bật sự nghiệp
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ. Lẽ ra, chúng ta phải "cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh tế,
căn cứ vào đường lối để vạch ra chiến lược kinh tế, xã hội, những kế hoạch phát
triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp lớn cho cả nước cũng như cho từng
ngành, từng lĩnh vực, sát với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, với
những yêu cầu và khả năng của nhân dân ta trong từng chặng đường", như Báo
cáo chính trị đã nhấn mạnh. Thế nhưng, chúng ta chưa làm tốt việc ấy! Chúng ta
chưa xác định được rõ ràng chiến lược của chặng đường đầu tiên trong sự nghiệp
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và, trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch nhà nước
1976 - 1980 có căn cứ khoa học. Chúng ta chưa vận dụng đường lối chung và đường
lối kinh tế sát với tình hình cụ thể của nước nhà vừa thống nhất sau hơn 30 năm
bị chiến tranh tàn phá, nhằm giải quyết những yêu cầu cấp thiết nhất về kinh tế
và xã hội, phù hợp với khả năng hiện thực và tiềm tàng của đất nước.
Chúng ta thấy chưa hết
những khó khăn, phức tạp về nhiều mặt trong cả thời gian dài phải trải qua để
tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến; thấy
chưa hết quy mô của những đảo lộn về kinh tế, xã hội sau chiến tranh và những hậu
quả nghiêm trọng của chủ nghĩa thực dân mới; dự kiến chưa hết những khó khăn
gây ra bởi chính sách thù địch và hai cuộc chiến tranh xâm lược... ở biên giới
tây nam và biên giới phía bắc nước ta; thấy chưa hết khó khăn, phức tạp trong
việc khắc phục những yếu kém về quản lý kinh tế và xã hội; lường chưa hết những
diễn biến có mặt không thuận lợi trong tình hình thế giới. Đồng thời, chúng ta
cũng thấy chưa hết những khả năng thực tế to lớn có thể phát huy để đáp ứng yêu
cầu của chặng đường đầu tiên trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Từ sự nhận định tình
hình không sát đúng như vậy, một mặt chúng ta chủ quan, nóng vội, đề ra những
nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ
trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến
lãng phí lớn về sức người, sức của; mặt khác chúng ta rất bảo thủ, trì trệ
trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương,
trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước.
Chúng ta kéo dài cơ
chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch hoá gò bó, cứng nhắc, không đề
cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành, và
cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương cần và phải quản lý.
Chúng ta duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở
sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những
người lao động.
Chưa nhạy bén trước
những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện pháp có hiệu quả, đó là thiếu
sót lớn của chúng ta trong công tác quản lý và chỉ đạo thực hiện. Khi nền kinh
tế quốc dân đứng trước những biến động lớn, nếu chúng ta kịp thời điều chỉnh một
cách cơ bản kế hoạch, đề ra những biện pháp đồng bộ và kiên quyết, phối hợp chặt
chẽ hoạt động của các ngành, các cấp nhằm từng bước, từng phần khắc phục những
mất cân đối, thì chắc chắn tình hình đã có chuyển biến và tốt hơn hiện nay.
Kinh tế phát triển chậm
và có những mặt giảm sút đương nhiên tác động không tốt đến các mặt hoạt động
khác; đồng thời, kinh tế cũng chịu ảnh hưởng của những thiếu sót từ các lĩnh vực
ngoài kinh tế.
Công tác tư tưởng,
văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu, chưa làm thấu suốt đường lối của Đảng
trong toàn Đảng, toàn dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa kém hiệu lực, cuộc đấu
tranh chống những hiện tượng tiêu cực, chống tội phạm thiếu kiên quyết và triệt
để. Công tác cán bộ có những thiếu sót trên các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí, đãi ngộ, trong đó có vấn đề sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và
quản lý kinh tế.
Những khuyết điểm và
sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội trong 5 năm qua là rất nghiêm trọng.
Tiếp theo sự tự phê bình nghiêm khắc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng
chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày trong Báo cáo chính trị, tôi xin nhấn mạnh
trách nhiệm trực tiếp về những sai sót kể trên - nhất là trong việc xây dựng và
chỉ đạo thực hiện kế hoạch - trước hết thuộc về Hội đồng Bộ trưởng chúng tôi.
Thưa các đồng chí đại
biểu,
Hiện nay, tình hình
kinh tế và xã hội của nước ta đang có những vấn đề gay gắt: đời sống nhân dân,
nhất là đời sống công nhân, viên chức có nhiều khó khăn; nguồn cung ứng năng lượng
và nguyên liệu, lực lượng giao thông vận tải không bảo đảm phát huy các năng lực
sản xuất sẵn có; xuất khẩu không bù đắp được nhập khẩu; thị trường, giá cả diễn
biến phức tạp; trên một số mặt, trận địa xã hội chủ nghĩa bị những nhân tố tư bản
chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa xâm lấn; cơ chế quản lý và kế hoạch hoá còn
mang nặng tính chất quan liêu, bao cấp; hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh
tế và xã hội kéo dài.
Nước ta đang ở trong
tình thế vừa có hoà bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại
nhiều mặt ..., đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với tình huống địch có
thể gây chiến tranh xâm lược lớn. Tình thế ấy đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh
giác, hết sức chú trọng củng cố quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu cao.
Kinh tế thế giới tư bản
chủ nghĩa trong những năm 80 tiếp tục biến động. Cuộc khủng hoảng năng lượng và
nguyên liệu, đà tăng vọt của giá cả quốc tế, chính sách phá hoại, cấm vận của đế
quốc Mỹ và phản động... làm cho nền kinh tế nước ta thêm những khó khăn mới.
Để khắc phục khó
khăn, đưa nền kinh tế tiến lên, chúng ta có những khả năng và thuận lợi to lớn.
Đó là hàng triệu
hécta đất nông nghiệp có thể khai hoang và đưa vào sản xuất, là khả năng tăng vụ
và thâm canh, tăng năng suất cây trồng, là hàng triệu hécta đất rừng chưa được
bảo vệ và khai thác tốt.
Đó là lực lượng lao động
chưa được huy động hết, là đội ngũ công nhân có nghề, đội ngũ cán bộ khoa học,
kỹ thuật đông đảo chưa được sử dụng hợp lý để đẩy mạnh các hoạt động kinh tế,
phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, mở mang ngành nghề, làm hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội.
Đó là những năng lực
sản xuất hiện có chưa được sử dụng hết, là một số công trình sẽ hoàn thành và
đi vào sản xuất như: các nhà máy ximăng, điện, phân bón, hoá chất, cơ khí động
lực, cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuyền, sợi, giấy, đường, các bến cảng, v.v..
Đó là những tài
nguyên đa dạng về khoáng sản, nguồn nước, dầu và khí đang được thăm dò và sẽ
thai thác.
Đó là những tiến bộ của
chúng ta trong lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội, những hiểu biết sâu
hơn về thực tế của đất nước, sự nhận thức sâu hơn về đường lối của Đảng, những
bài học kinh nghiệm của 5 năm qua.
Đó là sự giúp đỡ to lớn
và có hiệu quả của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Sự hợp tác toàn
diện giữa nước ta với Liên Xô và các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế
là một nhân tố cực kỳ quan trọng, giúp chúng ta khắc phục khó khăn và tiến lên.
Mối quan hệ về nhiều mặt và ngày càng chặt chẽ giữa ba nước Đông Dương mở ra khả
năng mới về hợp tác kinh tế và giúp đỡ lẫn nhau, tạo nguồn bổ sung cho nền kinh
tế của mỗi nước. Trong quan hệ kinh tế với các nước khác, chúng ta có thể sử dụng
nhiều hình thức để mở rộng trao đổi về hợp tác.
Năm 1981, năm đầu của
thời kỳ kế hoạch 5 năm (1981-1985), nhân dân ta đã tạo nên những chuyển biến bước
đầu đáng phấn khởi trong một số lĩnh vực, nhất là trong sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Đáng chú ý là gần đây, để thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương và những chính sách của Đảng
và Nhà nước mới ban hành, một số cơ sở, địa phương và ngành đã có những sáng kiến
về sản xuất, kinh doanh và quản lý. Những nhân tố mới đó cần được nghiên cứu một
cách chu đáo, sâu sắc rút ra những kết luận bổ ích để vận dụng trong thực tiễn.
Trong nông nghiệp,
chúng ta đạt và vượt kế hoạch về sản xuất lương thực và nhiều loại cây công
nghiệp, mặc dầu phân bón, thuốc trừ sâu, năng lượng được cung ứng ít hơn trước.
Nhu cầu lương thực trong nông thôn được bảo đảm tốt hơn, nông dân hăng hái làm
nghĩa vụ đối với Nhà nước, hậu quả nặng nề của thiên tai năm 1980 ở miền Bắc được
khắc phục về cơ bản. Trước mắt, hình thức khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động đang trở thành một động lực thúc đẩy phong trào thi đua phát triển sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp. Hình thức khoán này đang đặt ra
nhiều vấn đề mới về tổ chức và quản lý, về củng cố hợp tác xã, về chuyên canh
và thâm canh, về trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật, mà các cơ quan nhà nước phải
kịp thời giải quyết để chỉ đạo phong trào tiếp tục tiến lên phù hợp với yêu cầu
phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.
Trong công nghiệp
cũng như trong xây dựng cơ bản và giao thông vận tải, việc mở rộng quyền chủ động
sản xuất, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, việc áp dụng các hình thức lương sản phẩm,
lương khoán, tiền thưởng cùng với các chính sách kích thích sản xuất khác đang
thúc đẩy những người lao động ở nhiều cơ sở, nhiều ngành và địa phương phát huy
năng lực sáng tạo, khắc phục khó khăn trong sản xuất và đã đạt những kết quả bước
đầu đáng phấn khởi; sản lượng công nghiệp, nhất là công nghiệp địa phương, tiểu
công nghiệp và thủ công nghiệp, tăng hơn năm 1980; một số công trình xây dựng
cơ bản trọng điểm được thực hiện đúng tiến độ thi công; một phương thức mới:
"Trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm"
đang được mở rộng từng bước.
Những chuyển biến
trong năm 1981 chưa mạnh, chưa đều, nhưng nói lên sức lao động phong phú và tài
năng sáng tạo của nhân dân ta, của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nước ta,
đã được phát huy bước đầu nhờ những cải tiến về cơ chế quản lý thể hiện qua các
chính sách mới đã ban hành, đánh dấu một bước phát triển của quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Quá trình chuẩn
bị Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng là dịp để toàn Đảng, toàn dân nhìn lại
và suy nghĩ về đoạn đường vừa qua, rút ra những bài học bổ ích, thấy sáng hơn
đoạn đường đi tới. Đó là sự trưởng thành của chúng ta, đó cũng là nhân tố mới để
chúng ta tin tưởng: chúng ta đã lớn lên một bước sau những năm 1976 - 1980.
Sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nhân dân ta còn khó khăn lâu dài, những khó khăn cũ chưa khắc
phục xong cùng với những khó khăn mới nảy sinh, đang làm gay gắt thêm một số mặt
mất cân đối của nền kinh tế. Trước mắt, có nhiều vấn đề cấp bách phải khẩn
trương giải quyết như lương thực, thực phẩm, vải mặc, thuốc chữa bệnh, năng lượng,
nguyên liệu, giao thông vận tải, giá cả, tiền lương, tài chính, tiền tệ...
Với những kinh nghiệm
quý báu trong đoạn đường vừa qua, nhân dân ta quyết phát huy truyền thống kiên
cường, đem hết tinh thần và nghị lực, phấn đấu bền bỉ để chiến thắng khó khăn.
Nhân dân ta có đủ khả năng để tạo ra sự chuyển biến cách mạng về kinh tế và xã
hội, đưa đất nước tiếp tục tiến lên trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta.
Phần thứ hai: Phương
hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm
(1981 - 1985) và những năm 80
Thưa các đồng chí đại
biểu,
Báo cáo chính trị đã
trình bày những chủ trương có tính nguyên tắc, chỉ đạo việc xây dựng chiến lược
kinh tế và xã hội cho chặng đường những năm 80 của quá trình công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa nước nhà, nêu lên những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội trong 5
năm (1981 - 1985). Những chủ trương chiến lược đó là sự vận dụng đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đảng
phù hợp với điều kiện cụ thể của chặng đường hiện nay.
Báo cáo nêu lên những
mục tiêu tổng quát về kinh tế và xã hội trong những năm 80 như sau:
1. Đáp ứng những nhu
cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề
lương thực, thực phẩm, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa
bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
2. Tiếp tục xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật
cho các ngành kinh tế khác, và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của
công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
3. Hoàn thành công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong cả nước.
4. Đáp ứng các nhu cầu
của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật
tự.
Từ các mục tiêu tổng
quát ấy, phải cụ thể hoá thành những mục tiêu bộ phận, những mức phấn đấu định
lượng cho từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở. Việc này gắn liền với việc
kiểm kê, tính toán để phát huy khả năng, cân đối giữa yêu cầu và khả năng,
thông qua việc lập các phương án kinh tế - kỹ thuật, xác định các biện pháp thực
hiện về chính sách, tư tưởng, tổ chức. Đó chính là quá trình xây dựng chiến lược
kinh tế, xã hội, xây dựng kế hoạch nhà nước và đổi mới cơ chế quản lý.
Căn cứ kết quả nghiên
cứu đã đạt được cho đến nay, Báo cáo này trình bày phương hướng, nhiệm vụ và những
mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm
80.
Sau Đại hội toàn quốc
lần thứ V của Đảng, thời gian thực tế còn lại cho kế hoạch 5 năm (1981 - 1985)
chỉ là hơn ba năm. Vì vậy, mức độ về mục tiêu, chủ trương và biện pháp cần rất
thiết thực và vững chắc.
Về đời sống, phải bảo
đảm cho được nhu cầu ăn của xã hội với mức cố gắng có đủ lương thực, rau, đậu,
nước chấm, tăng thêm đường, mật, cá và thịt, trứng. Cung ứng ổn định lương thực,
thực phẩm, chất đốt theo định lượng cho công nhân, cán bộ, bộ đội, nhất là ở
các thành phố, khu công nghiệp, biên giới và hải đảo. Giải quyết vải mặc cho
toàn dân ở mức cần thiết và hợp với khả năng. Bảo đảm giấy viết, giấy in sách
giáo khoa, giấy in báo và một phần thích đáng giấy in các loại sách khác. Khẩn
trương giải quyết tình trạng thiếu thuốc, trước hết là những loại thuốc chữa bệnh
thiết yếu. Cung ứng khá hơn các đồ dùng gia đình và đồ dùng cá nhân thông thường.
Tăng thêm phương tiện đi lại. Giảm bớt khó khăn về thiếu nhà ở, tăng thêm nước
sinh hoạt, cung ứng điện hợp lý và bảo đảm vệ sinh các khu dân cư. Trong khi
chăm lo đời sống của nhân dân nói chung, phải coi những người trực tiếp sản xuất,
đặc biệt là công nhân, cùng với cán bộ, bộ đội là đối tượng cần được chú ý trước
hết. Đi đôi với việc phấn đấu ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất,
phải hết sức coi trọng tổ chức tốt đời sống văn hoá trong từng xí nghiệp và hợp
tác xã, tại các xã, phường, trên các địa bàn huyện, quận và tỉnh, thành phố.
Phát huy các nhân tố tích cực, kiên quyết chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng
tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội, xây dựng trật tự xã hội chủ nghĩa, nếp
làm ăn chân chính, những quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, tươi vui.
Về xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật, phải rất coi trọng phát triển chiều sâu, tức là cải tạo, bổ
sung và nâng cao, nhằm khai thác tốt những năng lực sản xuất sẵn có; đồng thời
tiếp tục phát triển chiều rộng, xây dựng mới một cách có trọng điểm, vừa tăng
cường những cơ sở vật chất - kỹ thuật có thể sử dụng ngay trong kế hoạch 5 năm
(1981 - 1985), vừa tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng với quy mô lớn hơn và tốc
độ nhanh hơn trong những kế hoạch sau. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật
theo chiều sâu cũng như theo chiều rộng đều phải tập trung vào việc đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, tăng năng lực sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, tạo
thêm nguồn năng lượng và nguyên liệu, vật liệu, phát triển kết cấu hạ tầng, chủ
yếu là năng lực giao thông vận tải, đồng thời bảo đảm trang bị đủ các loại công
cụ thường, công cụ cải tiến, và tăng thêm một số thiết bị, máy móc vừa và nhỏ
cho các hoạt động kinh tế, trước nhất nhằm thúc đẩy các ngành trọng điểm.
Về cải tạo xã hội chủ
nghĩa, phải tiến hành rất kiên quyết cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, theo
bước đi và hình thức thích hợp. Bất cứ sự do dự và chậm trễ nào, bất cứ hành động
nào làm suy yếu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng là buông lỏng đấu tranh
giữa hai con đường, mang lại hậu quả nguy hiểm về kinh tế và xã hội. Phải xác lập
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho tình hình kinh tế được ổn
định và phát triển trên cơ sở lành mạnh và đúng hướng. Chúng ta chủ trương sử dụng
một cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ
đạo; điều đó có nghĩa là phải đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách đúng đắn.
Trong 5 năm (1981-1985), phải kiên quyết điều chỉnh lại ruộng đất và cơ bản
hoàn thành việc đưa nông dân các tỉnh Nam Bộ vào con đường làm ăn tập thể bằng
hình thức tập đoàn sản xuất là chủ yếu, tiếp tục tổ chức và củng cố vững chắc
các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Trung; đẩy mạnh cải tạo đối với thương nghiệp,
vận tải, ngư nghiệp và công nghiệp ở miền Nam; ráo riết sắp xếp lại và quản lý
thị trường trong cả nước; hoàn thiện thêm một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa.
Về quốc phòng và an
ninh, phải cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng thủ đất nước và giữ
vững an ninh của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với
kinh tế, có kế hoạch chủ động để khi cần thiết chuyển được nhanh chóng nền kinh
tế từ thời bình sang thời chiến. Đáp ứng tốt những nhu cầu kinh tế của công cuộc
củng cố quốc phòng, mặt khác, tổ chức cho các đơn vị bộ đội có điều kiện tiến
hành sản xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, huy động năng lực các xí nghiệp
quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế
thích hợp.
Xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại. Xây dựng quân đội có ý chí quyết thắng,
có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, có trình độ
sẵn sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện. Xây dựng lực lượng công an nhân dân
trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Kết hợp chặt chẽ lực lượng công an, quân đội
với phong trào quần chúng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội,
chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực.
Để thực hiện các mục
tiêu nói trên, chúng ta phải vận dụng đúng đắn đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra và
các chính sách lớn trong chặng đường những năm 80, mà Báo cáo chính trị trước Đại
hội V đã vạch rõ.
Trong khi thực hiện
đường lối và các chính sách ấy, cần đặc biệt chú ý một số điểm rất quan trọng
sau đây:
Trước hết, phải luôn
luôn nắm vững nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong 5 năm
(1981 - 1985) và những năm 80 là: Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng
một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng
tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.
Phải đẩy mạnh mặt trận
nông nghiệp toàn diện, cùng với lâm nghiệp và ngư nghiệp, nhất là đẩy mạnh sản
xuất lương thực và thực phẩm. Gắn liền với nông nghiệp toàn diện, phải tận dụng
mọi lực lượng, từ các cơ sở công nghiệp lớn đến tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp
và từng người thủ công cá thể, để phát triển sản xuất hàng tiêu dùng. Toàn bộ
hoạt động kinh tế quốc dân phải coi trọng và cố gắng vượt bậc về xuất khẩu, sớm
tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị. Qua việc tập trung sức phát
triển nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, phải tạo
thêm công ăn việc làm ở mức cao nhất mà khả năng cho phép, sử dụng đến mức tối
đa lực lượng lao động, mở rộng phân công và phân bố lại lao động xã hội trên địa
bàn cả nước.
Phải tiếp tục xây dựng
kinh tế trung ương thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, nắm vững những vị
trí then chốt, đồng thời hết sức chú ý phát triển kinh tế địa phương, phát huy
tác dụng quan trọng của kinh tế địa phương đối với sản xuất nông nghiệp và sản
xuất hàng tiêu dùng. Tích cực tổ chức các ngành kinh tế - kỹ thuật thành trụ cột
của nền kinh tế, đồng thời ra sức xây dựng kinh tế nông - công nghiệp huyện, và
xây dựng kinh tế trên địa bàn tỉnh theo hướng từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp tỉnh.
Phải phát triển những
quan hệ phân công và hợp tác trong cả nước cũng như trên từng địa bàn, gắn bó
chặt chẽ kinh tế trung ương với kinh tế địa phương thành một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất, thanh toán những sự chồng chéo, vướng mắc hiện nay.
Xác định rõ cơ cấu
kinh tế trung ương và cơ cấu kinh tế từng địa phương, thực hiện phân cấp quản
lý giữa các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương là vấn đề cần phải khẩn
trương giải quyết. Trong tình hình hiện nay, phải mở rộng đúng mức phạm vi kinh
tế địa phương về sản xuất cũng như phân phối, lưu thông, giao thêm quyền hạn,
phương tiện và trách nhiệm cho chính quyền địa phương, đòi hỏi địa phương hoạt
động có hiệu quả hơn; một mặt phải khắc phục những biểu hiện tập trung quan
liêu, mặt khác phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương nhà nước, xoá bỏ hiện tượng
phân tán, cục bộ, bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của trung ương.
Các thành thị, đặc biệt
là các thành phố lớn, có vai trò rất quan trọng và phải phát huy tác dụng ngày
càng lớn của mình về kinh tế, nhất là về công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ
công nghiệp. Trung ương và các địa phương đều có trách nhiệm xây dựng Thủ đô Hà
Nội thành trung tâm chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật và văn hoá, xứng
đáng tiêu biểu cho cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh, với những khả năng phong
phú, phải trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá, một trung tâm giao dịch
quan trọng với nước ngoài.
Các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng có những khả năng rất to lớn và phong phú,
là trọng điểm về lương thực và nông nghiệp toàn diện của đất nước. Các ngành ở
trung ương và các địa phương có liên quan cùng với các tỉnh nói trên, phải làm
hết sức mình để cùng với các tỉnh kể trên phát huy đến mức cao nhất các khả
năng to lớn đó.
Các tỉnh trung du và
miền núi phía bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế và quốc phòng,
có những thế mạnh rất lớn về kinh tế và có nhiều khu công nghiệp quan trọng.
Các tỉnh ở Tây Nguyên cũng có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế và quốc
phòng, có tiềm năng dồi dào về lương thực, nhất là về các loại hoa màu, về chăn
nuôi, về cây công nghiệp dài ngày, về rừng với nhiều loại gỗ quý, và một số
khoáng sản quý. Trung ương và các ngành, các địa phương khác phải tích cực giúp
đỡ và các tỉnh trên đây phải phấn đấu vươn lên, khắc phục các khó khăn trước mắt
về lương thực, lao động, giao thông và thủy lợi, để phát triển kinh tế, cải thiện
đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc, góp phần tích cực vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tỉnh ven biển miền
Trung có những thế mạnh kinh tế nhiều mặt. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ có khả
năng nông nghiệp toàn diện và có những cơ sở công nghiệp quan trọng. Những địa
phương ấy cần ra sức phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu
dùng, từng tỉnh cần chọn đúng và khai thác tốt thế mạnh của mình, tăng thêm
nguyên liệu cho công nghiệp và tăng hàng xuất khẩu.
Phải có quy hoạch và
kế hoạch nhằm từng bước phát huy những tiềm lực đa dạng và quý báu của những
vùng kể trên.
Trong khi nền kinh tế
nước ta còn nhiều thành phần, việc mở rộng trận địa và nêu cao vai trò chủ đạo
của kinh tế xã hội chủ nghĩa là vô cùng quan trọng. Chúng ta phải ra sức củng cố
và kiện toàn các đơn vị kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác. Phải làm cho
kinh tế quốc doanh trở thành những tấm gương về năng suất lao động, về chất lượng
sản phẩm, về hiệu quả sản xuất và kinh doanh, về thi hành chính sách và pháp luật.
Phải khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế gia đình, bảo đảm kinh tế gia
đình thực sự là bộ phận hợp thành của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho
các đơn vị công tư hợp doanh ở miền Nam có thực chất hợp doanh và hoạt động đạt
hiệu quả tốt. Trong khi chưa cải tạo và suốt quá trình cải tạo, phải sử dụng và
hướng dẫn đúng đắn kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh, đồng thời phải ngăn chặn
và khắc phục những mặt tiêu cực của mỗi thành phần kinh tế ấy. Sau khi đã hoàn
thành cải tạo quan hệ sản xuất, trong một số ngành, nghề vẫn tồn tại các hoạt động
kinh tế cá thể thích hợp, hỗ trợ cho kinh tế xã hội chủ nghĩa, có tác dụng cần
thiết đối với nền kinh tế quốc dân; chúng ta cần có những biện pháp có hiệu quả
để hướng các hoạt động ấy phục vụ tốt cho sản xuất và lưu thông. Phải lấy kinh
tế quốc doanh làm nòng cốt, liên kết các thành phần kinh tế khác nhau bằng những
hình thức thích hợp, đưa mọi thành phần kinh tế phát triển theo quỹ đạo xã hội
chủ nghĩa.
Để khắc phục các khó
khăn trước mắt và đưa nền kinh tế tiến lên, chúng ta phải ra sức phát huy những
vốn quý và thế mạnh của bản thân nền kinh tế, của nhân dân ta và đất nước ta. Đồng
thời, phải tranh thủ và sử dụng thật tốt sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước
khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, mở rộng hợp tác toàn diện và giúp đỡ lẫn
nhau với hai nước Lào và Campuchia anh em, coi sự giúp đỡ và sự hợp tác toàn diện
ấy là nhân tố cơ bản có tính quy luật để thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa nước nhà. Đối với các nước khác, chúng ta tranh thủ phát triển quan hệ mậu
dịch và hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật trên nguyên tắc bảo đảm độc lập,
chủ quyền và các bên đều có lợi.
Thể hiện những mục
tiêu và phương hướng trên đây, kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) là kế hoạch phát
triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế quốc dân; ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau nhằm cơ bản ổn định tình
hình kinh tế, xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất về đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân, giảm bớt những mất cân đối nghiêm trọng nhất
của nền kinh tế, khắc phục một bước quan trọng tình trạng không bình thường về
phân phối, lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững
chắc hơn trong những năm sau.
Toàn bộ hoạt động
kinh tế phải luôn luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng suất, giảm tiêu hao vật
chất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng và hiệu quả; ra sức vận dụng ba nhân tố:
đổi mới quản lý, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và triệt để tiết kiệm, chống lãng
phí.
Điều có ý nghĩa cấp
bách và có tầm quan trọng đặc biệt là phải khẩn trương làm tốt việc sắp xếp lại
kinh tế theo những phương hướng sau đây:
Phải chỉnh đốn và cải
tiến cơ cấu sản xuất, xây dựng, lao động, phân phối, lưu thông và tiêu dùng,
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cấp bách, hợp với khả năng thực tế trong những năm
trước mắt, nhất là khả năng về năng lượng, nguyên liệu, giao thông vận tải, đồng
thời hợp với hướng tiến lên lâu dài, làm cho nền kinh tế phát triển ổn định,
đúng hướng và đạt hiệu quả ngày càng cao.
Trong việc sắp xếp lại
các cơ sở sản xuất, phải ưu tiên dành các điều kiện vật chất cho việc đẩy mạnh
sản xuất những sản phẩm phục vụ đời sống, xuất khẩu và củng cố quốc phòng. Theo
tinh thần đó, có những cơ sở cần được bổ sung thiết bị, máy móc và tăng thêm
năng lượng, vật tư; có cơ sở phải điều chỉnh hoặc chuyển hướng sản xuất. Phải tổ
chức lại hệ thống sản xuất, kinh doanh của các ngành, nghề từ trung ương đến địa
phương và cơ sở, tạo ra một cơ cấu sản xuất gồm những bộ phận ăn khớp nhau, có
sức năng động, có thế vươn lên.
Trong việc bố trí lại
xây dựng cơ bản, phải soát xét cơ cấu đầu tư, quy mô và tiến độ xây dựng cơ bản,
khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn đều, không đồng bộ và kém hiệu quả
kinh tế. Kiên quyết không đầu tư xây dựng thêm các công trình mới nếu công suất
của các cơ sở cùng loại chưa được dùng hết. Kiên quyết đình hoặc hoãn khởi công
những công trình không có điều kiện xây dựng, không đủ năng lượng và nguyên liệu
để đi vào hoạt động. Theo hướng đó, phải điều chỉnh lại lực lượng lao động và
thiết bị thi công.
Trong việc bố trí lại
lao động, phải mở rộng phân công và phân bố lại lao động trong từng cơ sở, từng
địa phương, từng ngành và trên địa bàn cả nước, giữa các vùng, giữa thành thị
và nông thôn, nhằm tận dụng mọi khả năng đất đai, rừng, biển và các cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện có. Kiên quyết giảm biên chế hành chính. Rất coi trọng giảm
tỷ lệ tăng dân số. Xác định lại quy mô và phương hướng đào tạo cán bộ và công
nhân hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế trong những năm trước mắt và
các năm tiếp theo; bố trí và sử dụng hợp lý lực lượng cán bộ và công nhân đã được
đào tạo.
Trong việc sắp xếp lại
phân phối, lưu thông, phải thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận rất
phức tạp này, khẩn trương tổ chức và mở rộng thị trường xã hội chủ nghĩa, hạn
chế và quản lý chặt thị trường không có tổ chức, kiên quyết áp dụng nguyên tắc
phân phối theo lao động và thực hiện hạch toán kinh tế, điều tiết cho công bằng
thu nhập của các tầng lớp dân cư, phát huy tác dụng đòn xeo và cầu nối của phân
phối, lưu thông đối với nông nghiệp và công nghiệp, thành thị và nông thôn, để
thúc đẩy sản xuất và phục vụ tiêu dùng.
Trong việc sắp xếp lại
tiêu dùng xã hội, phải hết sức tiết kiệm về đầu tư và sản xuất, về sự nghiệp
văn hoá và xã hội, về chi phí quốc phòng và hành chính, thể hiện chủ trương tiết
kiệm thành những chỉ tiêu cụ thể hằng năm phải phấn đấu đạt cho bằng được. Toàn
xã hội cũng như từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở và từng cá nhân đều phải
triệt để thực hiện nguyên tắc "chỉ tiêu dùng trong giới hạn mà sản xuất
cho phép", sống bằng kết quả lao động của mình và phấn đấu tăng tích luỹ.
Thưa các đồng chí đại
biểu,
Sau đây là phương hướng,
nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của những ngành và lĩnh vực quan trọng:
1. Mặt trận nông nghiệp,
lâm nghiệp, thuỷ sản
Tập trung sức phát
triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
là một chủ trương chiến lược của Đảng ta, có tác dụng cực kỳ to lớn về kinh tế,
chính trị, văn hoá và xã hội. Nhằm thực hiện chủ trương chiến lược đó, trong 5
năm (1981 - 1985), chúng ta phải ra sức làm tốt những công việc chính sau đây:
Nông nghiệp
Lương thực và thực phẩm
là vấn đề bức thiết nhất và rất cơ bản, mà chúng ta phải giải quyết để ổn định
và cải thiện đời sống nhân dân, phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Trước
mắt, phải đáp ứng bằng được nhu cầu về lương thực của toàn xã hội và phải huy động
bằng được số lương thực cần thiết vào tay Nhà nước.
Phấn đấu đạt sản lượng
lương thực bình quân một năm trong 5 năm (1981 - 1985) là 17 triệu tấn quy thóc
(tăng 3,6 triệu tấn so với sản lượng bình quân một năm trong thời kỳ 1976 -
1980), trong đó Nhà nước huy động bình quân một năm là 3,5 triệu tấn.
Để đạt được mục tiêu
quan trọng hàng đầu này, chúng ta cần có kế hoạch giải quyết đồng bộ, từ sản xuất,
thu mua, vận chuyển, bảo quản, chế biến đến tiêu dùng. Phải cân đối mọi điều kiện
để đến năm 1985 có thể đạt tới sản lượng khoảng 19 - 20 triệu tấn lương thực,
trong đó 16 - 16,5 triệu tấn thóc và 3 - 3,5 triệu tấn màu quy thóc.
Các địa phương phải
phát huy thế mạnh của mình, cố gắng tới mức cao nhất để giải quyết lương thực,
thực phẩm tại chỗ (trừ các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, các
vùng chuyên canh cây công nghiệp, các vùng rừng tập trung và vùng có hoàn cảnh
đặc biệt), cố gắng tự cân đối lấy nhu cầu lương thực, thực phẩm, theo cơ cấu sản
xuất và tiêu dùng hợp với điều kiện cụ thể từng nơi, bằng những biện pháp tích
cực, kể cả thông qua trao đổi với địa phương khác và xuất nhập khẩu; phấn đấu
đóng góp ngày càng nhiều cho cả nước.
Tận lực phát triển cả
lúa và màu. Về lúa, đi đôi với khai hoang để mở rộng diện tích, hướng chính là
đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất, hình thành những vùng lúa cao sản,
có khối lượng hàng hoá lớn. Về hoa màu, phát triển mạnh trồng ngô, khoai, sắn
và các loại cây có bột khác. Xác định đúng cơ cấu cây màu ở mỗi tỉnh, mỗi huyện.
Tận dụng đất đai trồng màu trên đất chuyên màu, trên đất một vụ lúa, phát triển
vụ đông trên diện tích hai vụ lúa, trồng xen trên đất trồng cây công nghiệp, vừa
làm tập trung, vừa làm phân tán ở khắp nơi. Coi trọng nâng cao năng suất của
các loại hoa màu. Đưa tỷ trọng màu trong sản lượng lương thực lên 18 - 20%. Đặc
biệt quan tâm tổ chức chế biến, vận tải, bảo quản màu cho tốt và khuyến khích
tiêu thụ màu, đưa màu vào thành phần lương thực chính, cải tiến dần cơ cấu bữa
ăn phù hợp với đặc điểm sản xuất của từng vùng.
Thực hiện hàng loạt
biện pháp đồng bộ để bảo đảm mục tiêu sản xuất và thu mua lương thực. Hoàn chỉnh
các công trình thủy lợi đã có, làm mới những công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ là
chủ yếu, chuẩn bị điều kiện để xây dựng những công trình thuỷ lợi lớn, đặc biệt
phát triển thuỷ lợi hợp lý, có hiệu quả thiết thực ở đồng bằng sông Cửu Long và
tích cực thu hẹp diện tích bị úng ở đồng bằng Bắc Bộ. Hoàn chỉnh sớm hệ thống
giống lúa và màu, cung ứng đầy đủ, kịp thời và phổ biến rộng rãi các loại giống
mới có năng suất cao, chịu sâu bệnh, chịu hạn, chịu úng, chịu chua mặn; sớm chấm
dứt tình trạng thiếu giống, lẫn giống, giống không thích hợp với đồng đất và
mùa vụ. Cố gắng cung ứng phân bón và thuốc trừ sâu, tập trung trước hết vào những
vùng có điều kiện thâm canh cao và những vùng mà Nhà nước thu mua nhiều lương
thực; ngoài số phân bón và thuốc trừ sâu sản xuất trong nước và nhập từ các nước
xã hội chủ nghĩa, cố gắng xuất một số nông sản để nhập thêm phân đạm và thuốc
trừ sâu, đồng thời tăng mạnh phân chuồng, phân xanh, thực hiện luân canh và xen
canh cây họ đậu để bồi dưỡng và cải tạo đất. Xây dựng và thực hiện quy chế thâm
canh cho từng vùng, đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Ban hành các
chính sách khuyến khích sản xuất lương thực, khuyến khích sản xuất, chế biến,
tiêu thụ màu, khuyến khích phát triển các loại phân hữu cơ và phân hoá học.
Hoàn thiện và ổn định chính sách thuế và thu mua; xác định giá cả hợp lý, dành
tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và vật liệu xây dựng để trao đổi lấy nông sản,
khuyến khích nông dân làm tốt nghĩa vụ đóng thuế và bán lương thực cho Nhà nước,
bảo đảm Nhà nước nắm được tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hóa, hạn chế thị
trường tự do, chống đầu cơ tích trữ lương thực, tiến đến Nhà nước làm chủ được
thị trường lương thực xã hội. Xây dựng hệ thống kho tàng, tăng thêm phương tiện
chế biến, bao bì, cân đong, vận tải, làm cho việc thu mua, vận chuyển và bảo quản
lương thực được nhanh gọn, tránh hư hao, mất mát.
Đầu tư thêm lao động
và tiến hành cơ giới hóa một cách thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm để đẩy mạnh
thâm canh, tăng vụ và khai hoang. Trong 5 năm (1981 - 1985), phải củng cố 30 vạn
hécta đã khai hoang, và khai hoang thêm vài chục vạn hécta, ngoài ra vận động
và tổ chức nhân dân khai hoang thêm nữa. Tổng kết kinh nghiệm xây dựng vùng
kinh tế mới, có biện pháp và bước đi đúng, thực hiện chủ trương Nhà nước và
nhân dân cùng làm, đạt hiệu quả cao với vốn đầu tư ít hơn.
Phấn đấu tạo dự trữ
lương thực để chủ động trong mọi tình huống. Tiết kiệm lương thực phải thành kỷ
luật nhà nước.
Chú trọng phát triển
cây thực phẩm, bảo đảm cung ứng đủ rau và đậu các loại. Xây dựng các vùng
chuyên canh rau, đậu xuất khẩu; xây dựng các vành đai thực phẩm quanh các thành
phố và khu công nghiệp.
Đỗ tương cần được
phát triển mạnh mẽ để tăng nguồn đạm cho người, cho gia súc, cho đất đai và trở
thành một loại hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng quan trọng. Có chính sách khuyến
khích phát triển, giải quyết tốt các khâu giống, phân bón, trừ sâu và ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật; xen canh, luân canh, tăng vụ, tận dụng đất đai để trồng đỗ
tương rộng rãi ở khắp nơi, xây dựng một vùng chuyên canh, thâm canh có năng suất
cao. Phấn đấu tăng sản lượng đỗ tương lên ít nhất là 25 - 30 vạn tấn năm 1985.
Phát triển trồng các loại đỗ, như đỗ xanh, đỗ đen ở các vùng thích hợp.
Mở nhanh diện tích
cây có dầu như lạc, vừng, dừa, sở, cọ dầu, v.v. để tăng thực phẩm cho bữa ăn,
tăng nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu.
Mở rộng diện tích cây
công nghiệp và cây ăn quả theo hướng vừa tập trung chuyên canh, vừa vận động
nhân dân tận dụng đất đai để trồng rộng rãi, nhất là những loại cây ngắn ngày
mau cho sản phẩm.
Phát triển mạnh trồng
mía, hình thành các vùng chuyên canh lớn để cung ứng đủ mía cho các nhà máy đường
hiện có và đang xây dựng. Mở rộng trồng mía ở các huyện, xã, xây dựng nhiều cơ
sở chế biến đường theo phương pháp thủ công và nửa cơ giới. Tăng nhanh diện
tích trồng thuốc lá để bảo đảm nhu cầu tiêu dùng và đẩy mạnh xuất khẩu. Phát
triển trồng cây ăn quả rộng rãi trong nhân dân và xây dựng một số vùng chuyên
canh, chú trọng dứa, chuối, cam..., khuyến khích phát triển trồng dừa, nhất là ở
vùng ven biển miền Trung và Nam Bộ. Đẩy mạnh việc trồng và khai thác, chế biến
các loại cây làm thuốc, cây tinh dầu, cây thầu dầu, cây gia vị, v.v..
Dành diện tích ở những
vùng có khí hậu thích hợp để trồng bông. Đẩy mạnh trồng đay, gai, lanh, bông cỏ,
bông gòn, dứa dại, đặc biệt là phát triển rộng rãi phong trào trồng dâu nuôi tằm
để góp phần giải quyết nhu cầu về mặc. Phát triển trồng cói để bảo đảm đủ chiếu
dùng trong nước và xuất khẩu.
Chăm sóc và thu hoạch
tốt các vườn cây công nghiệp dài ngày hiện có. Trồng mới nhiều cao su, cà phê,
chủ yếu ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, chè ở trung du, miền núi Bắc Bộ, Tây
Nguyên để tăng nguồn xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 1985, có diện tích 15 - 16 vạn
hécta cao su, 3 - 4 vạn hécta cà phê, 6 - 7 vạn hécta chè.
Đi đôi với trồng trọt,
phải tích cực phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm để tăng nguồn thực phẩm và
thêm phân bón cho cây trồng. Chú trọng phát triển gia súc có sừng và những loại
ít ăn lương thực.
Phải có kế hoạch cân
đối giữa trồng trọt và chăn nuôi trong từng hợp tác xã, từng huyện, từng tỉnh để
bảo đảm nhu cầu tại chỗ và bán sản phẩm chăn nuôi ngày càng nhiều cho Nhà nước.
Dành một tỷ lệ hợp lý đất đai phù hợp với cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi ở từng
địa phương, để trồng cây thức ăn cho gia súc, gia cầm. Cung ứng đủ thức ăn gia
súc cho các cơ sở chăn nuôi lợn, gà công nghiệp ở các vành đai thực phẩm quanh
các thành phố và khu công nghiệp.
Củng cố và phát triển
hệ thống giống trâu, bò, lợn, gà; làm tốt công tác thú y, phòng bệnh, phòng dịch
cho gia súc, gia cầm. áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất chăn nuôi.
Kết hợp tốt và phát
triển cả ba hình thức chăn nuôi: hợp tác, quốc doanh và gia đình, khuyến khích
phát triển rộng rãi chăn nuôi của gia đình xã viên. Cơ quan, bộ đội và công
nhân, viên chức ở những nơi có điều kiện cũng phải phát triển chăn nuôi để cải
thiện đời sống. Nhà nước cần có chính sách và kế hoạch cung ứng giống, thuốc
thú y và hướng dẫn phát triển chăn nuôi gia đình.
Phát triển mạnh chăn
nuôi lợn ở những vùng trồng nhiều hoa màu; chú trọng chăn nuôi trâu bò để giải
quyết sức kéo, phân bón và thịt, sữa; phát triển nuôi gà, vịt, dê, thỏ và nuôi
ong. Phấn đấu đến năm 1985 có đàn lợn khoảng 13 triệu con, đàn trâu, bò khoảng
4,7 - 5 triệu con, đàn gia cầm khoảng 100 triệu con.
Lâm nghiệp
Sớm hoàn thành quy hoạch
lâm nghiệp theo hướng lâm - nông - công nghiệp kết hợp, sử dụng tổng hợp tài
nguyên, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các tỉnh, huyện miền núi. Phân bố lại lao động
trong cả nước, tăng cường đầu tư và áp dụng các biện pháp kỹ thuật để từng bước
xây dựng và sử dụng hợp lý 15 triệu hécta đất rừng.
Coi phương thức kinh
doanh lâm - nông nghiệp kết hợp là hướng quan trọng trong việc phát triển nghề
rừng; kết hợp chặt chẽ việc trồng rừng, bảo vệ rừng với khai thác, chế biến gỗ
và các lâm sản khác, đẩy mạnh sản xuất lương thực và chăn nuôi.
Kiên quyết áp dụng
các biện pháp có hiệu quả để bảo vệ, khôi phục rừng, nhất thiết chặn đứng tình
trạng phá rừng, cháy rừng, xây dựng và phát triển vốn rừng, trước hết quản lý
cho được vốn rừng tự nhiên và rừng trồng hiện có; đẩy mạnh phong trào trồng
cây, gây rừng theo hướng chuyên canh, thâm canh; từ đó vươn lên đáp ứng ngày
càng tốt nhu cầu về gỗ, củi, lâm sản và đặc sản rừng cho nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Bảo đảm phòng hộ môi trường, góp phần giữ vững cân bằng sinh thái
trong cả nước và ở từng khu vực. Từng bước tạo những khu rừng tập trung có năng
suất cao để phục vụ công nghiệp. Gắn liền công tác định canh, định cư với việc
xây dựng vốn rừng và việc phát triển nông, lâm nghiệp ở miền núi.
Trong 5 năm (1981 -
1985), cần quản lý, tu bổ và khai thác tốt số rừng hiện có, trồng mới khoảng 30
vạn hécta rừng và phát triển rộng khắp phong trào trồng cây của nhân dân. Ban
hành các chính sách khuyến khích trồng cây gây rừng và bảo vệ rừng, huy động mọi
tầng lớp lao động, nông dân, công nhân, học sinh các trường học, cán bộ, bộ đội...
tham gia trồng rừng, nhanh chóng phủ xanh đồi trọc và trả lại màu mỡ cho những
diện tích bị cằn cỗi. Vùng ven biển phải chú ý trồng cây chắn gió, chắn cát; miền
núi phải bảo vệ và đẩy mạnh trồng cây đầu nguồn.
Coi trọng các biện
pháp tái sinh rừng; trồng mới các loại cây làm nguyên liệu cho giấy, sợi, gỗ
xây dựng, gỗ trụ mỏ, gỗ đóng tàu, thuyền và gỗ xuất khẩu. Tổ chức việc trồng rừng
lấy củi và than củi để giải quyết tại chỗ chất đốt cho công nghiệp chế biến,
cho việc sơ chế nông sản, cho các khu dân cư.
Đẩy mạnh khai thác và
chế biến gỗ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nâng cao tỷ lệ sử dụng gỗ, tận
dụng gỗ nhỏ và cành ngọn để tiêu dùng ở địa phương; trong 5 năm khai thác khoảng
8 triệu m3 gỗ. Phải có biện pháp giải quyết đồng bộ các khâu chặt hạ, vận chuyển,
chế biến, bảo quản để bảo đảm cung ứng gỗ kịp thời và đúng chất lượng cho các
nhu cầu.
Tích cực trồng, chăm
sóc, bảo vệ và khai thác các lâm sản quý như cánh kiến, hồi, quế, tre, mây,
song và các loại cây có dầu, cây dược liệu; đặc biệt chú ý việc trồng thông và
khai thác nhựa thông.
Đi đôi với việc củng
cố và phát triển lâm trường quốc doanh, cần lấy huyện làm địa bàn chính để phát
triển lâm nghiệp. Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh
doanh theo quy hoạch và kế hoạch nhà nước.
Để hoàn thành những
nhiệm vụ trên đây về nghề rừng, cần nắm vững phương châm: "lấy rừng nuôi rừng,
trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân cùng làm", tích luỹ ngày
càng nhiều cho Nhà nước và cải thiện đời sống của nhân dân.
Thuỷ sản
Tổ chức lại và phát
triển nghề đánh, bắt hải sản; tận dụng mọi diện tích mặt nước để phát triển rộng
rãi nghề nuôi cá, nuôi tôm và các thuỷ sản khác, đưa sản lượng đánh, bắt cá biển
và cá nuôi năm 1985 lên khoảng 70 vạn tấn (trong đó 47 - 50 vạn tấn cá biển).
Tăng thêm sản lượng cá khô, cá chế biến và nước mắm.
Tập trung đầu tư cho
những vùng có nhiều khả năng về nghề cá biển, phát triển lực lượng đánh cá thủ
công và nửa cơ giới, mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm bảo đảm xăng dầu,
phụ tùng, ngư cụ cho lực lượng đánh cá cơ giới.
Tổ chức hợp lý dây
chuyền sản xuất, kết hợp tốt các khâu thu mua, vận chuyển, bảo quản, chế biến
và tiêu thụ thuỷ sản. Thông qua đầu tư có trọng điểm và các chính sách khuyến
khích sản xuất, ra sức củng cố và phát triển các cơ sở quốc doanh và hợp tác
xã, khôi phục và phát triển lực lượng đánh cá của nhân dân, nâng cao hiệu quả
và năng suất trong các khâu đánh, bắt, chế biến; tổ chức ngư dân các tỉnh miền
Nam và hợp tác xã nghề cá và các hình thức thích hợp khác; lấy huyện vùng biển
làm địa bàn chính để tổ chức lại sản xuất, thiết lập quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước với ngư dân, khai thác vùng biển theo hướng ngư - nông - công nghiệp kết hợp.
Ban hành các chính
sách khuyến khích và giúp đỡ các hợp tác xã và nhân dân tận dụng diện tích
sông, ao, hồ, ruộng để nuôi cá, tôm. Tổ chức những cơ sở nuôi cá để bảo đảm
cung ứng cá tươi cho các thành phố, khu công nghiệp. Các nông trường, lâm trường,
cơ quan, đơn vị bộ đội đóng ở những nơi có điều kiện phải tổ chức nuôi cá để cải
thiện đời sống.
2. Sản xuất hàng tiêu
dùng
Đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và
văn hóa của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn hàng để mở rộng thị trường
trong nước và tăng cường xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, mở rộng phân
công lao động, tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, góp phần tích luỹ cho
nền kinh tế.
Đây cũng là công việc
vô cùng cấp bách, để ổn định đời sống nhân dân, góp phần to lớn vào việc cân đối
tiền - hàng, ổn định thị trường, giá cả.
Phải có hàng loạt
chính sách và biện pháp đồng bộ để phát huy mọi năng lực sản xuất hiện có và khả
năng tiềm tàng của công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, kể cả công nghiệp
trung ương và công nghiệp địa phương; tích cực mở mang các ngành, nghề tiểu thủ
công nghiệp và thủ công nghiệp ở thành thị và nông thôn, sử dụng tốt thợ thủ
công cá thể. Thực hiện sự liên kết giữa quốc doanh, hợp tác xã và cá thể để đẩy
mạnh sản xuất các mặt hàng. Tận dụng năng lực sản xuất của các xí nghiệp quốc
phòng để làm hàng tiêu dùng. Đặc biệt, phải khai thác thế mạnh về sản xuất hàng
tiêu dùng của các thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng...
Sớm ban hành các
chính sách về đầu tư, về tín dụng, về cung ứng nguyên liệu, phế liệu, về tiêu
thụ sản phẩm, về giá cả. Tăng cường trang bị kỹ thuật, bảo đảm cung ứng vật tư,
tạo thêm nguồn nguyên liệu trong nước, mở rộng kinh doanh xuất, nhập khẩu và hợp
tác sản xuất với nước ngoài; phân công và hiệp tác sản xuất hợp lý trong từng
ngành, từng địa phương và trong cả nước, vận dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến
khích đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là phát triển rộng rãi tiểu
công nghiệp, thủ công nghiệp, từ những ngành, nghề cổ truyền đến những ngành,
nghề mới.
Khai thác tốt các cơ
sở kéo sợi và dệt vải hiện có, hoàn thành xây dựng các nhà máy kéo sợi mới, để
năm 1985 đạt sản lượng khoảng 380 - 400 triệu mét vải. Tăng xuất khẩu nông sản
để nhập thêm bông, sợi, phụ tùng, hoá chất và thuốc nhuộm cho ngành dệt.
Đưa sản lượng đường mật
các loại lên 35 - 40 vạn tấn năm 1985. Sử dụng hết công suất các nhà máy đường
hiện có. Phát triển các lò đường thủ công. Tiếp tục xây dựng Nhà máy đường La
Ngà và Lam Sơn. Chế tạo thiết bị để xây dựng những cơ sở sản xuất đường loại vừa
và nhỏ ở các địa phương.
Cung ứng đủ nguyên liệu
và phát huy hết công suất hiện có, đưa sản lượng thuốc lá điếu năm 1985 lên
trên một tỷ bao, dành phần quan trọng cho xuất khẩu. Nâng cao kỹ thuật chế biến
để tăng thêm thuốc lá lá xuất khẩu.
Cung ứng đủ nguyên liệu
cho các nhà máy giấy, khuyến khích việc sản xuất giấy thủ công ở các địa
phương, để năm 1985 sản xuất được 9 - 10 vạn tấn giấy các loại, trong đó bảo đảm
nhu cầu giấy viết, giấy in sách giáo khoa và in báo, tăng giấy bao bì ximăng.
Thâm canh và mở rộng
sản xuất muối, nhất là ở miền Bắc, để bảo đảm muối ăn và muối cho công nghiệp.
Tăng sản xuất xe đạp
và nhất là phụ tùng, săm lốp. Bảo đảm nhu cầu tối thiểu của nhân dân về xà
phòng, bột giặt, thuốc chữa bệnh. Phát triển sản xuất, mở rộng mặt hàng, nâng
cao chất lượng các loại đồ gỗ, đồ gốm, sành sứ, thủy tinh, hàng mây tre, đay,
cói, dụng cụ gia đình, đồ dùng học sinh, dụng cụ y tế, văn hóa, dụng cụ bảo hộ
lao động.
Hết sức chú ý tăng số
lượng và chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, làm ra những mặt hàng ngày càng
tinh xảo, đặc biệt là hàng sứ, may mặc, thêu đan, dệt thảm, hàng mỹ nghệ, kim
khí tiêu dùng.
3. Công nghiệp nặng
Sắp xếp lại, cải tạo,
bổ sung, nâng cao các cơ sở sản xuất hiện có và tạo thêm nguồn cung ứng năng lượng,
nguyên liệu để tận dụng công suất, thiết thực phát huy tác dụng rất quan trọng
của công nghiệp nặng đối với nông nghiệp, đối với các ngành sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu; tiếp tục xây dựng có trọng điểm một số cơ sở mới nhằm
đáp ứng nhu cầu cấp bách trước mắt và chuẩn bị cho những năm tiếp theo. Đồng thời,
ra sức đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, lập các luận chứng và phương án kinh
tế - kỹ thuật, tiến hành thiết kế, đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và
công nhân, từng bước tăng cường kết cấu kinh tế hạ tầng, ráo riết chuẩn bị cho
bước phát triển mạnh mẽ và sâu rộng hơn của các ngành công nghiệp nặng trong
các kế hoạch sau. Chúng ta luôn luôn nhớ rằng nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ
quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí hoá. Điều quyết định để tạo ra
năng suất lao động cao là trang bị kỹ thuật mới, chẳng những cho nông nghiệp,
mà cho cả các ngành khác của nền kinh tế quốc dân. Coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu và đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng trong chặng đường hiện nay là nhằm
đáp ứng nhu cầu cấp bách của đời sống, tạo ra tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế,
cũng chính là góp phần thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,
tăng cường cơ sở cho sự phát triển trước mắt và về sau của các ngành công nghiệp
nặng.
Điện
Xây dựng quy hoạch tổng
thể phát triển điện lực trong cả nước khoảng 15 - 20 năm và vạch kế hoạch cụ thể
thực hiện quy hoạch đó trong 5 năm (1981 - 1985) theo hướng kết hợp thủy điện với
nhiệt điện, đẩy mạnh phát triển thuỷ điện, kết hợp quy mô lớn, vừa và nhỏ. Bảo
đảm cân đối giữa phát triển sản xuất điện với mạng lưới tải điện và các công
trình phục vụ cho ngành điện, giữa nguồn phát điện với các cơ sở tiêu thụ điện,
để khai thác năng lượng có hiệu quả nhất.
Phấn đấu đưa sản lượng
điện đến cuối năm 1985 đạt 5,5 đến 6 tỷ kwh.
Phát huy hết năng lực
sản xuất của các nhà máy nhiệt điện và thủy điện hiện có, sử dụng hợp lý nguồn
điện chạy bằng dầu. Giảm mạnh lượng điện hao hụt và mất mát, điện tự dùng, và
giảm tiêu hao nhiên liệu trong sản xuất.
Khẩn trương xây dựng
Nhà máy nhiệt điện Phả Lại và các công trình đồng bộ, đưa tổ máy đầu tiên vào
phát điện đầu năm 1983, hoàn thành ba tổ máy trong năm 1985. Bảo đảm tiến độ
xây dựng thủy điện Hoà Bình để sớm đưa tổ máy đầu tiên vào phát điện. Tìm mọi
cách tăng thêm nguồn điện cho các tỉnh miền Nam. Khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi
công xây dựng thuỷ điện Trị An. Xây dựng các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ ở
miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía bắc; tận dụng nguồn khí để
phát điện. Xúc tiến nghiên cứu và khai thác các nguồn điện khác.
Triệt để tiết kiệm điện
trong sản xuất và sinh hoạt. Phân phối điện phải ưu tiên cho các mục tiêu sản
xuất chủ yếu, các cơ sở trọng điểm.
Than
Phấn đấu đưa sản lượng
than năm 1985 lên 8 - 9 triệu tấn và tạo thêm gần 5 triệu tấn công suất gối đầu
cho kế hoạch 1986 - 1990.
Tăng nhanh sản lượng
và chất lượng than ở các mỏ Hà Tu, Đèo Nai, Cọc 6, Vàng Danh, Mạo Khê và các mỏ
phụ; tiếp tục xây dựng và mở rộng các mỏ Cao Sơn, Na Dương, núi Béo, núi Hồng,
Nông Sơn; hoàn thành xây dựng các mỏ Mông Dương, Khe Chàm, Hà Lầm, Thống Nhất.
Hoàn thành cải tạo mỏ than mỡ Phấn Mễ, đẩy mạnh xây dựng mỏ than mỡ Làng Cẩm. Tận
lực khai thác các mỏ than đá, than mỡ, than bùn tại các địa phương.
Cải tiến tổ chức và
quản lý ngành than. Tăng cường công tác địa chất. Nâng cao năng suất sử dụng
xe, máy. Đẩy mạnh sửa chữa thiết bị và cung ứng phụ tùng, đồng bộ hoá các khâu
khai thác, vận chuyển, bốc rót, mở rộng việc vận chuyển bằng băng tải và bằng
các phương tiện khác. Cải thiện điều kiện làm việc và đời sống, có chính sách động
viên nhiệt tình lao động và nâng cao năng suất của công nhân mỏ.
Quản lý chặt chẽ việc
vận chuyển và phân phối, nâng cao hiệu quả sử dụng, thực hành nghiêm ngặt chế độ
tiết kiệm than. Tận thu các loại than rơi vãi ở vùng mỏ, thu hồi và sử dụng tốt
số than qua lửa của các nhà máy điện. Giải quyết việc chế biến than để đun nấu
thay cho dầu lửa.
Dầu và khí
Dầu và khí là ngành
kinh tế - kỹ thuật ngày càng có tác dụng quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển
của nền kinh tế nước ta. Trước mắt, cần tập trung sức thực hiện tốt việc hợp
tác với Liên Xô nhằm đẩy mạnh thăm dò và tiến tới khai thác dầu, khí ở thềm lục
địa phía nam. Phấn đấu để có sản lượng dầu thô trong kế hoạch 5 năm này. Xây dựng
cơ sở hậu cần và dịch vụ dầu, khí ở Vũng Tàu. Đẩy mạnh thăm dò và khai thác khí
đốt ở đồng bằng Bắc Bộ.
Cơ khí
Quy hoạch và sắp xếp
lại ngành cơ khí trong cả nước theo hướng chuyên môn hoá và hiệp tác, chú trọng
đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực hiện có kết hợp với xây dựng một số công
trình mới. Phấn đấu tăng chất lượng, giảm tiêu hao vật tư và năng lượng; thông
qua kinh doanh tổng hợp và xuất, nhập khẩu tạo thêm nguyên liệu cho sản xuất cơ
khí để tận dụng tốt các năng lực sản xuất. Trong 5 năm (1981 - 1985), chủ yếu
là bảo đảm sửa chữa máy móc, thiết bị và sản xuất phụ tùng cho các ngành, nhất
là phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, than, điện, giao thông vận
tải, vật liệu xây dựng... Sản xuất đủ các loại công cụ thông thường và công cụ
cải tiến, một số máy móc, thiết bị cỡ nhỏ và vừa cho nông nghiệp, sà lan, toa
xe, thiết bị mỏ, động cơ điện, thiết bị thuỷ điện nhỏ, thiết bị sản xuất đường,
giấy, chế biến màu... Nâng cao chất lượng chế tạo để tăng xuất khẩu một số sản
phẩm cơ khí như xe đạp, máy công cụ, quạt điện, dụng cụ đồ nghề, v.v..
Chú trọng phát triển
công nghiệp điện tử theo bước đi thích hợp với hoàn cảnh nước ta. Khai thác hết
năng lực lắp ráp và chế tạo hiện có, xây dựng thêm một số cơ sở lắp ráp và dây
chuyền sản xuất mới, để đáp ứng khá hơn nhu cầu của nền kinh tế về thiết bị điện
tử, tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm điện tử lắp ráp để xuất khẩu.
Hoàn thành xây dựng
Nhà máy sản xuất động cơ điêden Gò Đầm, Nhà máy sửa chữa và đóng tàu Hạ Long,
Phà Rừng, Nhà máy xe lửa Gia Lâm. Mở rộng Nhà máy cơ khí Cẩm Phả, Nhà máy sửa
chữa thiết bị điện Đông Anh; khởi công xây dựng nhà máy sản xuất phụ tùng ôtô
6.000 tấn/năm, v.v.. Tích cực chuẩn bị để xây dựng một số công trình cơ khí nặng
trong kế hoạch sau.
Luyện kim
Ra sức huy động năng
lực luyện thép, cán thép hiện có ở Thái Nguyên và miền Nam; cung ứng than mỡ, cực
điện và thu thập sắt vụn để tăng sản lượng thép cán năm 1985 lên gấp đôi so với
năm 1981. Mở rộng thí nghiệm phương pháp hoàn nguyên trực tiếp trong luyện kim.
Nghiên cứu sản xuất thép hợp kim. Tích cực chuẩn bị xây dựng công trình luyện
thép lớn trong các kế hoạch sau.
Xây dựng hoàn chỉnh
Nhà máy thiếc Tĩnh Túc, Sơn Dương; khởi công xây dựng Xí nghiệp liên hiệp thiếc
Quỳ Hợp. Hoàn thành xây dựng nhà máy sản xuất chì và kẽm. Mở rộng khai thác quặng
crômmít. Đi đôi với xây dựng nhà máy, cần tổ chức sản xuất thiếc, chì, kẽm,
crômmít bằng phương pháp nửa cơ giới và thủ công.
Hợp tác với Liên Xô
và các nước thành viên khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế nghiên cứu khai
thác bốcxít. Phát triển khai thác kim loại quý và đá quý.
Phân bón và hoá chất
Đẩy mạnh sản xuất
phân bón (đạm, lân) và thuốc trừ sâu phục vụ nông nghiệp. Khai thác và sử dụng
các nguyên liệu trong nước, tổ chức sản xuất theo quy mô vừa và nhỏ các loại
hóa chất cần thiết để kịp thời thay thế hoá chất nhập khẩu.
Khôi phục và mở rộng
mỏ apatít Lào Cai, chuẩn bị xây dựng nhà máy làm giàu quặng apatít, mở rộng Nhà
máy supe phốtphát Lâm Thao; khai thác và nhập thêm quặng pirít, phát triển phân
lân nung chảy để tăng sản lượng phân lân các loại lên 35 - 40 vạn tấn/năm 1985.
Khai thác khả năng của
Nhà máy phân đạm Hà Bắc, chuẩn bị xây dựng nhà máy phân đạm mới trong kế hoạch
sau.
Tăng sản xuất săm lốp
ôtô, săm lốp xe đạp, sản phẩm cao su kỹ thuật, thuốc trừ sâu, sơn, đất đèn,
xút, sôđa, phèn, bột nhẹ...
Vật liệu xây dựng
Hoàn thành xây dựng
các Nhà máy ximăng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, củng cố Nhà máy ximăng Hải
Phòng, sắp xếp lại các cơ sở sản xuất ximăng nhỏ. Cung ứng đủ điện, than và thạch
cao, bao giấy, dầu đốt cho các nhà máy, đưa sản lượng ximăng năm 1985 lên ít nhất
là 2 triệu tấn.
Chú trọng sản xuất gạch,
ngói, tấm lợp, các loại vật liệu gốm, sứ, vật liệu chịu lửa... Mở rộng sản xuất
các loại vật liệu thông dụng từ nguyên liệu địa phương, nhất là vật liệu không
nung. Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng vật liệu xuất khẩu.
Điều tra, thăm dò địa
chất
Xúc tiến có trọng điểm
việc điều tra, thăm dò địa chất, đặc biệt chú ý công tác địa chất trực tiếp phục
vụ việc tăng cường khai thác các tài nguyên ngay trong kế hoạch 5 năm (1981 -
1985), đồng thời tiếp tục điều tra các loại tài nguyên của đất nước. Chú trọng
phát hiện các mỏ mới về khoáng sản có giá trị cao như thiếc, vônphram,
môlípđen..., khẩn trương tìm kiếm phục vụ việc khai thác than mỡ, pirít,
mangan...; thăm dò các mỏ nhỏ về than bùn, phốtphát, vật liệu xây dựng, nước ngầm...
phục vụ công nghiệp địa phương.
4. Giao thông, vận tải
và thông tin bưu điện
Gấp rút chấn chỉnh tổ
chức, sắp xếp lại lực lượng, nâng cao năng lực quản lý, tăng năng suất và hiệu
quả, đi đôi với trang bị thêm phương tiện vật chất để khắc phục một bước sự yếu
kém và mất cân đối nghiêm trọng giữa giao thông vận tải với yêu cầu phát triển
kinh tế và củng cố quốc phòng.
Khối lượng vận tải
trong nước tăng bình quân hằng năm 10 - 12 %, trong đó vận tải hàng xuất khẩu
và vận tải Bắc - Nam tăng gấp ba lần.
Xây dựng quy hoạch
phát triển mạng lưới giao thông vận tải hợp lý trong cả nước, ưu tiên phát triển
vận tải đường biển, đường sông; củng cố và phát huy năng lực vận tải đường sắt;
tổ chức lại vận tải ôtô hợp với khả năng xăng dầu, phụ tùng, săm lốp; tiếp tục
xây dựng hàng không dân dụng. Phát triển rộng rãi vận tải thô sơ. Phát triển
giao thông vận tải ở nông thôn và đặc biệt là ở miền núi gắn liền với phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp và củng cố quốc phòng.
Tập trung xây dựng hệ
thống cảng biển, cảng sông và nạo vét lòng sông, hoàn thành khu vực cảng Hải
Phòng, xây dựng cảng Cửa Lò. Tăng cường các cảng ở miền Trung và miền Nam. Củng
cố và nâng cao năng lực các tuyến đường sắt hiện có, chủ yếu là tuyến đường sắt
Bắc - Nam, xây dựng mới một số tuyến đường sắt đến các khu công nghiệp. Mở mang
một số trục chính và đầu mối giao thông đường bộ.
Kịp thời sửa chữa và
tăng thêm phương tiện, nhất là sà lan và tàu vận tải sông, biển, đầu máy và toa
xe lửa, tăng cường bốc dỡ, rút ngắn thời gian quay vòng phương tiện, tăng tốc độ,
bảo đảm an toàn, giải phóng nhanh hàng ở các cảng, ga, bến, và khu đầu mối.
Tập trung sức giải
quyết việc tiếp nhận hàng nhập khẩu, bảo đảm hàng xuất khẩu và vận tải Bắc -
Nam; ưu tiên vận tải than, lương thực, vận tải phục vụ nông nghiệp, vận tải cho
các công trường và xí nghiệp trọng điểm, vận tải cho biên giới, vận tải cho hai
nước anh em Lào và Campuchia.
Phân công, phân cấp vận
tải đúng đắn giữa các ngành, giữa trung ương và địa phương. Trong bố trí kinh tế,
phải bảo đảm tính hợp lý về vận tải, tính toán kỹ khả năng vận tải.
Củng cố, cải tạo và
khai thác tiềm năng của các mạng lưới thông tin hiện có, xây dựng thêm cơ sở vật
chất - kỹ thuật, tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng thông tin, bưu điện.
Phối hợp chặt chẽ hệ
thống thông tin quốc gia với hệ thống thông tin chuyên dùng của các ngành để phục
vụ tốt cho kinh tế và quốc phòng.
5. Xây dựng cơ bản
Khả năng vật tư, tiền
vốn của ta có hạn, lại phải ưu tiên giải quyết những yêu cầu cấp bách của đời sống
và xuất khẩu, do đó phải bố trí hợp lý tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản, sử dụng
vốn đầu tư đúng hướng và có hiệu quả cao. Theo tinh thần ấy, phải tập trung vốn
cho các công trình trọng điểm, các ngành then chốt, các sản phẩm quan trọng nhất;
kiên quyết khắc phục tình trạng phân tán, dàn đều trong xây dựng. Thực hiện đầu
tư đồng bộ, nhằm trước hết phát huy năng lực sản xuất hiện có. Hết sức chú trọng
đầu tư theo chiều sâu, kết hợp đúng đắn đầu tư theo chiều sâu với đầu tư theo
chiều rộng. Tích cực thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân, trung
ương và địa phương cùng làm".
Củng cố và nâng cao
trình độ nghề nghiệp cho các lực lượng xây lắp, tổ chức hợp lý các lực lượng
xây dựng chuyên ngành. Căn cứ phương hướng sắp xếp lại các công trình xây dựng
cơ bản để tổ chức lại lực lượng lao động nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng
trong xây dựng.
Tổng mức vốn đầu tư
xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước trong 5 năm (1981 - 1985) dự kiến khoảng
16 -18 tỷ đồng (theo giá cũ). Ngoài ra, các ngành, các địa phương phải huy động
nguồn vốn tự có, nguồn vốn của các hợp tác xã và nhân dân, để cải tạo và mở rộng
các cơ sở sản xuất, các công trình phúc lợi và văn hoá, giáo dục, y tế.
Soát xét lại từng
công trình, giảm bớt các hạng mục chưa thật sự bức thiết, nhất là nhà hành
chính, hội trường; thay đổi một số thiết kế và vật liệu, tận dụng những cơ sở sẵn
có để lắp thiết bị, chỉ xây dựng mới khi thật cần thiết. Triệt để tiết kiệm để
giảm cho được 10 - 15% số vốn xây lắp.
Đẩy nhanh tiến bộ xây
dựng các công trình trọng điểm thuộc các ngành nông nghiệp, điện, than, dầu và
khí, cơ khí, giấy, sợi, đường, giao thông vận tải, xuất khẩu. Tích cực chuẩn bị
xây dựng các công trình lớn về luyện kim, cơ khí, hoá chất, vật liệu xây dựng
trong các kế hoạch sau. Bảo đảm quy trình kỹ thuật, bảo đảm chất lượng công
trình.
6. Lao động và dân số
Khẩn trương nghiên cứu
và ban hành Luật Lao động. Giải quyết việc làm cho lao động xã hội theo hướng
chủ yếu là phân công lao động tại chỗ để tham gia sản xuất nông nghiệp; mở mang
ngành, nghề ở nông thôn, ở các thị xã, thành phố, nhất là tiểu công nghiệp và
thủ công nghiệp; khai thác lâm nghiệp, ngư nghiệp; mở mang dịch vụ ở thành phố,
v.v..
Từng tỉnh, từng huyện
phải có kế hoạch sắp xếp lao động. Chú trọng giải quyết việc làm cho bộ đội xuất
ngũ, cho học sinh đã ra trường, nhất là học sinh Thủ đô Hà Nội, các thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và các thành phố, thị xã khác. Các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long cần có kế hoạch và biện pháp đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, mở rộng
diện tích, mở mang ngành, nghề để nâng mức sử dụng lao động.
Tổ chức đưa một triệu
người, bao gồm lao động và nhân khẩu, đi xây dựng các vùng kinh tế mới, theo ba
hướng: trong địa phương, trong vùng và từ Bắc vào Nam. Sử dụng cả hai hình thức:
nhân dân tự đi với sự giúp đỡ của Nhà nước để mở thêm diện tích lương thực và
cây công nghiệp; Nhà nước đầu tư và đưa dân đi để xây dựng những vùng chuyên
canh lớn. Giải quyết tốt các vấn đề về chính sách và tổ chức để tạo cho được
phong trào cách mạng của quần chúng đi khai hoang xây dựng các vùng kinh tế mới,
theo những kế hoạch được tính toán chặt chẽ, những phương án kinh tế - kỹ thuật
đúng đắn và có hiệu quả vững chắc. Giảm bớt lao động và dân số phi nông nghiệp
hiện quá lớn để tăng lao động cho nông nghiệp và lâm nghiệp. Có chính sách và
biện pháp khuyến khích, động viên, tổ chức và giúp đỡ nhân dân thành phố, thị
xã, thị trấn (kể cả người trong biên chế nhà nước) mở mang các ngành, nghề sản
xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, và phát triển nông nghiệp. Điều
động thêm lực lượng cán bộ kỹ thuật và quản lý kinh tế cho huyện và các hợp tác
xã nông nghiệp.
Rút gọn bộ máy hành
chính, kiên quyết giảm biên chế nhà nước. Thay đổi cơ cấu lao động, tăng chất
lượng bộ máy nhà nước, chỉ tuyển mới vào biên chế những người đã qua đào tạo.
Đẩy mạnh giáo dục, vận
động và kiên quyết áp dụng một số biện pháp hành chính - kinh tế, đồng thời tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện phong trào sinh đẻ có kế hoạch,
để giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả nước từ 2,4% hằng năm xuống 1,7%
vào năm 1985.
7. Mặt trận phân phối,
lưu thông
Phải sớm thiết lập trật
tự mới, xã hội chủ nghĩa, trên mặt trận phân phối, lưu thông để góp phần ổn định
đời sống, đẩy mạnh sản xuất, chuyển tốt tình hình kinh tế, xã hội. Nhà nước phải
nắm hàng, nắm tiền, phân phối hợp lý thu nhập quốc dân, điều tiết cho được những
thu nhập không hợp lý, không chính đáng, tăng cường quản lý thị trường, đấu
tranh chống đầu cơ, làm ăn phi pháp.
Muốn vậy cần thực hiện
những chủ trương và biện pháp lớn như sau:
Tăng cường và củng cố
tài chính nhà nước, khẩn trương xây dựng chính sách tài chính quốc gia tích cực,
thích hợp cho chặng đường hiện nay.
Động viên cao độ mọi
nguồn vốn vào tay Nhà nước, kể cả hiện vật và tài chính, bằng thu quốc doanh,
trích nộp lãi và các loại thuế, bảo đảm thu đủ thuế nông nghiệp và thuế công
thương nghiệp. Các ngành, các cấp, các đơn vị phải xem việc động viên tài chính
cho Nhà nước là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng.
Mở rộng hợp tác quốc
tế, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa, hết sức tranh thủ khai thác thật
tốt và sử dụng hợp lý các nguồn vốn từ ngoài nước để bổ sung cho nguồn vốn
trong nước.
Quản lý chặt chẽ và sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tiết kiệm nghiêm ngặt về mọi mặt. Thực hiện khẩu
hiệu: "Với nguồn vốn bằng hoặc ít hơn trước, làm ra của cải nhiều hơn và tốt
hơn trước". Cắt giảm đáng kể các chi tiêu hành chính. Chấp hành đúng các
quy định chung của Nhà nước về chi tiêu. Phân phối vật tư, lao động, tiền vốn
cho sản xuất phải bảo đảm đạt hiệu quả cao, phân phối cho tiêu dùng phải gắn với
số lượng và chất lượng lao động. Giảm đến mức thấp nhất các khoản bù lỗ của
ngân sách, nhất là bù lỗ cho tiêu dùng.
Cải tiến và mở rộng
hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với mở rộng các hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Cải tiến cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ
bản thông qua ngân hàng. Đẩy mạnh quản lý và huy động vốn, huy động tiền tiết
kiệm. Tăng cường quản lý tiền tệ, tăng nhanh vòng quay đồng tiền qua ngân hàng.
Bằng nhiều biện pháp tích cực, phấn đấu giảm dần bội chi tiền mặt trên cơ sở
cân đối ngân sách và cân đối tín dụng, bảo đảm hiệu quả kinh tế của vốn tín dụng;
cung ứng vốn tín dụng và tiền mặt cho các nhu cầu hợp lý và cần thiết của sản
xuất và đời sống.
Thông qua hoạt động
tài chính, tín dụng, thanh toán để tăng cường sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước
về sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội.
Đời sống đang là vấn
đề rất cấp bách. Điều quan trọng hàng đầu là làm cho những người lao động trong
xã hội có việc làm và làm việc có năng suất, đó là cơ sở để tăng thu nhập và có
đời sống ngày càng được cải thiện. Mỗi người có thu nhập xứng đáng với cống hiến
của mình.
Tổ chức tốt việc phân
phối hàng hoá theo giá ổn định, nhất là những hàng tiêu dùng thiết yếu thuộc
các nhu cầu bức thiết nhất về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh. Chú ý cải
thiện việc cung ứng lương thực, thực phẩm cho các thành phố lớn, các khu công
nghiệp; dành lực lượng thích đáng hàng công nghiệp cho nông thôn, các vùng biên
giới và vùng cao.
Cố gắng cải thiện đời
sống của công nhân, viên chức, cán bộ khoa học, kỹ thuật, giáo viên, cán bộ y tế;
giữ vững tiền lương thực tế, bảo đảm cung ứng theo định lượng những mặt hàng đã
quy định. Mở rộng diện lương sản phẩm, lương khoán theo các định mức tiến bộ.
Tiếp tục cải tiến tiền lương. Khẩn trương nghiên cứu phương án và tạo điều kiện
để cải cách chế độ tiền lương.
Giá cả là vấn đề rất
phức tạp. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về điều chỉnh giá, bao gồm cả giá thu
mua, giá bán buôn, giá bán lẻ và giá dịch vụ, là cần thiết và đúng đắn. Vừa
qua, trong tổ chức thực hiện, đã có những sai lầm: tính toán sai về một số mức
giá, công bố và thi hành giá mới thiếu chuẩn bị, chưa phối hợp ăn khớp giữa kế
hoạch, tài chính, giá và thương nghiệp; đồng thời, có sự tuỳ tiện của một số
ngành và địa phương trong việc chấp hành chính sách giá.
Vấn đề cấp bách trước
mắt là tiếp tục thực hiện chủ trương của Trung ương về điều chỉnh giá, khắc phục
những hậu quả của thiếu sót, sai lầm vừa qua, sửa ngay giá một số mặt hàng đã
thấy rõ là bất hợp lý, làm cản trở đến sản xuất và đời sống nhân dân, phấn đấu ổn
định từng bước giá cả trên cơ sở phát triển sản xuất và khắc phục dần những mất
cân đối về sản xuất, tài chính, tiền tệ và ngoại tệ.
Đặc biệt coi trọng quản
lý giá thành và phí lưu thông. Hạ giá thành và phí lưu thông là một tiềm năng rất
lớn, vừa tạo cơ sở cho việc xây dựng giá hợp lý, ổn định giá, vừa tăng tích luỹ
xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào việc cân đối tài chính nhà nước.
Xúc tiến nghiên cứu
và chuẩn bị các điều kiện để thông qua các bước thích hợp về điều chỉnh giá, tiến
tới cải cách hệ thống giá, đi đôi với cải cách chế độ tiền lương.
Giá phải luôn luôn kết
hợp chặt chẽ với kế hoạch, tài chính, tiền tệ, thương nghiệp, quản lý thị trường.
Tăng cường quản lý giá theo hướng kế hoạch hoá là chính, đề cao kỷ luật nhà nước
về giá, chấm dứt tình trạng nâng giá tuỳ tiện, chạy theo giá thị trường tự do.
Gấp rút ban hành các
quy chế về quản lý giá, thực hiện việc thống nhất quản lý giá một cách nghiêm
ngặt.
Công tác thương nghiệp
phải tập trung được nguồn vật tư, hàng hoá vào tay Nhà nước, kể cả nông sản,
lâm sản, hải sản và hàng công nghiệp, hàng trong nước cũng như hàng nhập khẩu,
quản lý chặt chẽ và phân phối công bằng, đáp ứng tốt lợi ích của Nhà nước, của
tập thể và của người lao động. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán
phải được củng cố vững mạnh để nắm vai trò chủ đạo trong thị trường xã hội. Các
cơ sở sản xuất quốc doanh và cơ sở có quan hệ kinh tế với Nhà nước phải thi
hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ thương
nghiệp phải vươn lên mạnh mẽ, học tập buôn bán, sử dụng linh hoạt các phương thức
kinh doanh xã hội chủ nghĩa để làm chủ thị trường, phân phối hàng đúng đối tượng,
kiên quyết chống tham ô, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong kinh
doanh.
Cải tiến cung ứng vật
tư hợp với việc đổi mới quản lý và kế hoạch hoá, cung ứng đồng bộ, kịp thời cho
sản xuất, tập trung ưu tiên cho những nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm vật tư được
sử dụng với hiệu quả cao, khuyến khích tiết kiệm vật tư.
Củng cố và mở rộng trận
địa thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, nắm đại bộ phận bán buôn, chi phối bán lẻ,
về cơ bản làm chủ thị trường xã hội, hạn chế và quản chặt thị trường không có tổ
chức, bài trừ triệt để nạn đầu cơ, buôn lậu, ăn cắp vật tư, hàng hoá của Nhà nước.
Tổ chức và sử dụng đầy đủ công tác hải quan và thuế quan để chống buôn lậu qua
biên giới. Trong quản lý thị trường, phải kết hợp thật tốt các biện pháp kinh tế,
hành chính, giáo dục, kết hợp giữa các ngành, các cấp, trước hết là các ngành
có liên quan trực tiếp như thương nghiệp, tài chính, công an, hải quan dưới sự
chỉ đạo của cấp uỷ đảng và các cấp chính quyền. Đây là một mặt của cuộc đấu
tranh cách mạng rất quyết liệt trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội,
cuộc đấu tranh "ai thắng ai" rất gay gắt mà chúng ta phải là người thắng
cuộc, thiết lập bằng được trật tự xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực phân phối, lưu
thông, trong đời sống kinh tế và xã hội.
8. Quan hệ kinh tế với
nước ngoài, xuất nhập khẩu
Nước ta ở vùng nhiệt
đới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú, có sức lao động dồi dào và giàu tài
năng, có điều kiện rất thuận lợi để phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Ưu tiên mở rộng sự hợp
tác toàn diện giữa nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ
kinh tế, về chiều rộng cũng như chiều sâu. Chúng ta phải làm hết sức mình để
tranh thủ đến mức cao nhất sự giúp đỡ quý báu của Liên Xô và các nước anh em
khác, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ đó, đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ của
chúng ta, trên nguyên tắc có đi, có lại, không được tùy tiện, ỷ lại. Theo tinh
thần đó, phù hợp với những điều kiện và khả năng thực tế, nước ta cần tích cực
tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hiệp tác
quốc tế trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế trên những lĩnh vực thích hợp.
Sự liên minh giữa ba
nước Đông Dương là sự liên minh đặc biệt của những người đồng chí, người anh
em, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi
nước. Chúng ta cần cùng với hai nước Lào và Campuchia xây dựng quy hoạch và kế
hoạch mở rộng hợp tác kinh tế và giúp đỡ lẫn nhau về nhiều mặt, phát huy tốt tiềm
năng và tạo nguồn bổ sung mới cho nền kinh tế của mỗi nước.
Mở rộng quan hệ chính
trị và kinh tế, văn hoá với các nước trong phong trào Không liên kết, phát huy
vị trí và tác dụng của Việt Nam trong phong trào và trong cuộc đấu tranh cho một
trật tự kinh tế thế giới mới. Tranh thủ quan hệ với các nước khác, sử dụng nhiều
hình thức để mở rộng trao đổi và hợp tác, làm thất bại những thủ đoạn phá hoại
kinh tế của địch.
Xuất khẩu là nhiệm vụ
có tầm chiến lược cực kỳ quan trọng, là nghĩa vụ lớn của mọi ngành, mọi cấp. Phải
ra sức đẩy mạnh xuất khẩu để bảo đảm nhập khẩu các loại thiết bị, vật tư kỹ thuật
cần thiết cho những hoạt động bình thường của nền kinh tế quốc dân, cho sự nghiệp
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và để từng bước cân bằng xuất - nhập, cân bằng
thanh toán quốc tế. Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm tiêu dùng để tăng
nguồn hàng xuất khẩu, phải tích cực mở mang dịch vụ, du lịch và các hoạt động
kinh doanh khác để tăng thu ngoại tệ. Trong 5 năm (1981 - 1985), phấn đấu tăng
kim ngạch xuất khẩu lên gấp hai lần so với mức 5 năm (1976 - 1980).
ưu tiên đầu tư để
tăng năng lực xuất khẩu, phấn đấu xây dựng nguồn hàng xuất khẩu chủ lực có hiệu
quả kinh tế và có vị trí ổn định trên thị trường thế giới, chú trọng các nguồn
xuất khẩu về nông sản, lâm sản, thuỷ sản, khoáng sản, hàng tiêu dùng, cơ khí,
v.v..
Các ngành, các địa
phương đều có nghĩa vụ đóng góp đến mức cao nhất vào kế hoạch xuất khẩu của cả
nước, phấn đấu tăng xuất khẩu để tự cân đối lấy nhu cầu nhập khẩu của mình và
góp phần tăng kim ngạch cho Nhà nước ta. Ban hành các chính sách khuyến khích
các ngành, các địa phương đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia kinh
doanh xuất khẩu, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý ngoại
thương, ngoại hối.
Gấp rút kiện toàn các
tổ chức ngoại thương, giải quyết những vướng mắc về cơ chế quản lý, về kế hoạch
hoá, về các chính sách đang làm trở ngại công tác xuất khẩu.
Hết sức chặt chẽ
trong nhập khẩu. Tận dụng những thiết bị hiện có trong nước (máy công cụ, ôtô,
máy kéo...), kiên quyết điều chỉnh nơi thừa sang nơi thiếu; chỉ nhập những thiết
bị, vật tư hết sức thiết yếu mà trong nước không sản xuất được. Sử dụng hàng nhập
tiết kiệm, có hiệu quả và luôn luôn tính đến khả năng thanh toán.
Mở rộng kinh doanh du
lịch, làm cho du lịch dần dần trở thành một ngành kinh tế quan trọng, xứng đáng
với tiềm năng của nước ta về lĩnh vực này.
9. Công tác khoa học
và kỹ thuật
Nghị quyết của Bộ
Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và những
phương hướng cơ bản phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm phục vụ những mục tiêu
kinh tế và xã hội trước mắt và lâu dài.
Nghị quyết ấy đã cụ
thể hoá đường lối của Đảng về cách mạng khoa học - kỹ thuật; các cấp, các ngành
cần quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thật tốt nghị quyết ấy.
Yêu cầu cấp bách hiện
nay là triển khai có hiệu quả các chương trình khoa học và kỹ thuật trọng điểm,
đặc biệt coi trọng việc nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật
vào sản xuất và đời sống. Khoa học, kỹ thuật phải là một trong những nhân tố
hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, tiết kiệm, đạt hiệu quả
cao, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
Trước hết khoa học và
kỹ thuật phải phục vụ tốt nhất cho việc đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Phải ứng dụng rộng
rãi thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, đặc biệt chú ý những thành tựu
về sinh học (trước hết về giống) nhằm thúc đẩy nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp và công nghiệp chế biến phát triển. Đồng thời, phải hướng khoa học và kỹ
thuật phục vụ các ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, dầu khí, cơ khí,
luyện kim, hoá chất... và phục vụ giao thông vận tải... Trước mắt, tích cực
nghiên cứu các phương án kinh tế - kỹ thuật chủ yếu, góp phần xây dựng kế hoạch
5 năm (1981 - 1985), nhằm giải quyết các khó khăn về năng lượng, nguyên liệu và
phụ tùng. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về tổ chức và quản lý.
Xúc tiến có trọng điểm
công tác điều tra cơ bản và công tác dự báo, chuẩn bị cơ sở khoa học cho việc
phân tích, đánh giá tài nguyên, việc phân vùng, quy hoạch và xây dựng chiến lược
kinh tế và xã hội.
Kết hợp chặt chẽ khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội, phát huy sức mạnh sáng tạo
của các ngành khoa học và kỹ thuật kết hợp với tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất của nhân dân lao động.
Phát huy cao độ tinh
thần chủ động, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và kỹ thuật với
các nước trên thế giới, trước hết với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương
trợ kinh tế, đặc biệt coi trọng hợp tác với hai nước Lào và Campuchia anh em.
Phát triển và sử dụng
có hiệu quả tiềm lực khoa học và kỹ thuật hiện có và sẽ có. Xây dựng và củng cố
hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai hệ thống giáo dục và đào tạo.
Tăng cường hệ thống các cơ quan quản lý khoa học và kỹ thuật. Đầu tư thích đáng
và bảo đảm tốt cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động khoa học và kỹ thuật. Có
chính sách bồi dưỡng, sử dụng và tạo điều kiện làm việc nhằm phát huy khả năng
của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật. Tổ chức tốt quy trình phân công và hợp
tác trong nghiên cứu, triển khai và ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nâng
cao hiệu quả của hoạt động khoa học, kỹ thuật trong đời sống kinh tế và xã hội.
Hết sức coi trọng công tác thông tin kinh tế và khoa học, kỹ thuật.
Phấn đấu xây dựng từng
bước nền khoa học và kỹ thuật tiên tiến của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có cơ cấu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội, có khả
năng giải quyết những yêu cầu trước mắt và những mục tiêu lâu dài của sản xuất,
đời sống và quốc phòng, đón trước và mở ra cho nền kinh tế và xã hội những
phương hướng phát triển mới, chú trọng phát triển những ngành khoa học và kỹ
thuật gắn liền với thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, điều kiện nhiệt đới và
con người Việt Nam.
10. Công tác giáo dục,
đào tạo và văn hoá, y tế, xã hội
Thực hiện cải cách
giáo dục một cách tích cực và vững chắc, phù hợp với khả năng kinh tế, chú trọng
đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ở vùng núi và vùng đồng bằng sông Cửu Long từng bước
theo kịp các vùng khác. Củng cố và phát triển giáo dục mầm non; từng bước phổ cập
giáo dục phổ thông cơ sở bằng nhiều hình thức học tập. Có chính sách thoả đáng
để xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cải tiến công tác quản lý giáo dục.
Hết sức coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Gắn chặt hơn nữa giáo
dục với nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, với sản xuất và đời sống. Đẩy mạnh giáo
dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, chú trọng giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Tổ chức tốt việc nhà trường tham gia
lao động sản xuất. Ra sức phát triển phong trào bổ túc văn hoá. Nắm vững phương
châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trong sự nghiệp phát triển giáo
dục, kết hợp chặt chẽ nhà trường, gia đình với xã hội để thực hiện thắng lợi cải
cách giáo dục.
Tiếp tục đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý
kinh tế, cân đối và đồng bộ, hợp với yêu cầu cách mạng trong chặng đường hiện
nay và sắp tới. Sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp, kết hợp tốt giữa đào tạo và lao động sản xuất. Xác định quy mô
đào tạo hợp lý, mở rộng công tác đào tạo tại chức, đào tạo cán bộ cho khu vực
kinh tế tập thể. Bồi dưỡng cán bộ chuyên môn đã tốt nghiệp các cấp, nhất là đào
tạo trên và sau đại học. Có biện pháp thích hợp để đào tạo, bồi dưỡng công nhân
và cán bộ dân tộc ít người. Kiểm kê và bố trí lại đội ngũ cán bộ chuyên môn hiện
có, để sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn.
Sắp xếp lại các trường,
lớp dạy nghề của các bộ, các địa phương và các cơ sở, cải tiến công tác tuyển
sinh, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Xác định quy mô đào tạo công
nhân hợp với yêu cầu phát triển sản xuất, rất chú trọng việc đào tạo công nhân
kỹ thuật có tay nghề cao.
Ra sức phát triển và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao. Ngoài
số đầu tư của Nhà nước, cần động viên khả năng của nhân dân, của các cơ sở, các
đoàn thể và sử dụng tốt quỹ phúc lợi xí nghiệp để phát triển sự nghiệp văn hoá,
thông tin, thể dục, thể thao, nhất là phong trào văn hoá quần chúng, phong trào
rèn luyện thân thể. Chú trọng phục vụ cơ sở, như các công trường, nông trường,
lâm trường và đơn vị vũ trang..., nhất là ở các tỉnh biên giới, các vùng kinh tế
mới.
Đấu tranh ráo riết và
liên tục để quét sạch các loại văn hoá nô dịch, phản động, lạc hậu, đồi truỵ.
Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội.
Tăng cường bảo vệ sức
khoẻ nhân dân, xây dựng nền y học dân tộc Việt Nam trên cơ sở kết hợp y học hiện
đại với y học cổ truyền. Làm tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh, chữa bệnh và vệ
sinh môi trường. Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác y tế, hộ sinh, chăm
sóc sức khoẻ nhân dân bằng cách sử dụng ngân sách nhà nước, quỹ phúc lợi công cộng
và động viên sự đóng góp của nhân dân.
Khai thác nguồn dược
liệu trong nước, chế biến các loại thuốc thông thường, tích cực khắc phục tình
trạng thiếu thuốc. Mỗi xã, mỗi huyện đều phải dành đất đai và lao động để trồng
cây thuốc. Đẩy mạnh xuất khẩu, hợp tác trồng cây thuốc và gia công sản xuất thuốc
chữa bệnh cho nước ngoài để đổi lấy nguyên liệu hoá dược và tân dược. Tích cực
chuẩn bị điều kiện, tiến tới tự sản xuất thuốc kháng sinh.
Cải tiến chính sách,
chế độ và tận tình chăm sóc, giúp đỡ các gia đình có công với cách mạng, anh chị
em thương binh, gia đình liệt sĩ. Củng cố các trại nuôi dưỡng thương binh, các
cơ sở chỉnh hình, để phục hồi chức năng lao động và mở rộng việc dạy nghề cho
thương binh. Tổ chức tốt việc nuôi dạy các trẻ mồ côi, giúp đỡ những người già
yếu, tàn tật.
Đảng và Nhà nước cần
chăm sóc chu đáo những người đã về hưu, đặc biệt chú ý trên tinh thần trân trọng
và thương yêu đối với các đồng chí lão thành.
*
* *
Những phương hướng,
nhiệm vụ và các mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trình bày trên đây là dự
thảo chỉ thị của Đại hội lần thứ V của Đảng để hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch
5 năm (1981 - 1985). Căn cứ chỉ thị của Đại hội, các cấp, các ngành, các cơ sở
phải cùng nhau làm việc rất khẩn trương, để hoàn chỉnh các phương án kinh tế -
kỹ thuật, vạch ra các chính sách và biện pháp cụ thể, xác định các mục tiêu,
xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch 5 năm (1981 - 1985).
Theo những phương hướng,
nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu được nêu trong báo cáo này, dự kiến trong 5 năm
(1981-1985), hằng năm sản xuất nông nghiệp tăng bình quân khoảng 6-7%, sản xuất
công nghiệp tăng bình quân khoảng 4 - 5%, thu nhập quốc dân sản xuất tăng bình
quân khoảng 4,5 - 5%.
Đến năm 1985, so với
năm 1980, sản lượng lương thực tăng 32%, lợn 30%, cá tăng 25%, đường mật các loại
tăng 100%, vải lụa tăng 119%, giấy tăng 87%, điện tăng 51%, than tăng 54%,
ximăng tăng 184%, phân bón hoá học tăng 23%, gỗ tròn tăng 14%.
Như vậy, tình hình
kinh tế và xã hội có những chuyển biến tốt, nhất là về mặt ổn định và cải thiện
một bước đời sống của nhân dân. Song, những mất cân đối lớn khác của nền kinh tế
vẫn tồn tại, tuy mức độ bớt gay gắt hơn. Từ một nền sản xuất nhỏ sau 30 năm chiến
tranh ác liệt đi lên, chúng ta nhất thiết phải trải qua những chặng đường phấn
đấu gian khổ, từng bước đưa nền kinh tế quốc dân vào thế phát triển theo trật tự
xã hội chủ nghĩa, tiếp tục tiến lên trong sự nghiệp tất thắng của chúng ta.
Phần thứ ba: Đổi mới
quản lý kinh tế, phát động phong trào quần chúng tạo ra chuyển biến cách mạng
Thưa các đồng chí đại
biểu,
Đổi mới cơ chế quản
lý, nâng cao hiệu lực điều hành của các cấp, và phát động phong trào quần
chúng, tạo ra chuyển biến cách mạng là hai loại biện pháp tổng hợp có tính chất
quyết định để xây dựng và hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước.
Nền kinh tế nước ta
hiện nay gồm nhiều thành phần, nhiều trình độ kỹ thuật, nhiều quy mô hoạt động,
nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, và đang có nhiều mất cân đối gay gắt.
Thích ứng với nền kinh tế ấy, phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả năng
xoá bỏ tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng
đắn nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế quản lý mới mà chúng ta áp dụng phải mở
rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành, đồng thời bảo đảm cho trung
ương nắm chắc những việc, những khâu cần quản lý. Cơ chế quản lý mới lấy kế hoạch
nhà nước làm trung tâm, không ngừng nâng cao vị trí của kế hoạch, rất coi trọng
các đòn bẩy kinh tế, vận dụng các quan hệ thị trường, chủ yếu là thị trường có
tổ chức, kiên quyết chống xu hướng chạy theo thị trường tự do. Cơ chế quản lý mới
khuyến khích sáng kiến và tài năng, đòi hỏi cao về kỷ luật và trách nhiệm, khắc
phục các hiện tượng tiêu cực, thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa.
Trong việc xây dựng
cơ chế quản lý mới, điều quan trọng nhất là phải đổi mới kế hoạch hoá, làm cho
kế hoạch nhà nước thật sự là cương lĩnh thứ hai của Đảng, là công cụ trung tâm
của hệ thống quản lý.
Mỗi cấp kế hoạch, từ
trung ương đến cơ sở, phải thực sự làm chủ kế hoạch, nghĩa là chủ động xây dựng,
cân đối, bảo vệ và thực hiện kế hoạch của mình theo phương hướng kế hoạch chung
của cả nước.
ở trung ương, kế hoạch
nhà nước nắm các cân đối lớn, các chỉ tiêu chủ yếu, các công trình xây dựng
then chốt và các sản phẩm quan trọng, nắm phần lớn số vốn tập trung qua ngân
sách, từ đó mà quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế quốc
dân.
ở cơ sở, kế hoạch thể
hiện sự sáng tạo và tính chủ động trên nguyên tắc tự chủ tài chính, đạt hiệu quả
kinh tế, xã hội cao, kinh doanh có lãi và phân phối lợi nhuận đáp ứng thoả đáng
cả ba loại lợi ích. Phải hết sức coi trọng kế hoạch cơ sở, vì chất lượng kế hoạch
cơ sở có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ hệ thống kế hoạch nhà nước.
Phải khẩn trương rút
kinh nghiệm những mặt tốt và chưa tốt trong công tác khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm và người lao động, từng bước bổ sung các quy định để hoàn chỉnh chủ trương
khoán thành một cơ chế kế hoạch hoá và quản lý toàn diện đối với các đơn vị sản
xuất tập thể trong nông nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp.
Đối với các cơ sở
kinh tế quốc doanh, Nhà nước khuyến khích xí nghiệp tận dụng mọi khả năng, kể cả
việc tìm thêm nguồn nguyên liệu và huy động vật tư tồn kho để đặt kế hoạch sản
xuất mặt hàng chính cao hơn mức kế hoạch nhà nước giao, ngoài ra, tận dụng phế
liệu, phế phẩm làm thêm các mặt hàng phụ. Trong các chính sách về lợi ích như
tiền lương, tiền thưởng, mức trích lợi nhuận cho các quỹ xí nghiệp, phải mạnh dạn
khuyến khích những kết quả tốt do làm vượt chỉ tiêu kế hoạch. Song, quan trọng
nhất là phải nâng cao phần khuyến khích các cơ sở trong việc hoàn thành kế hoạch
nhà nước. Theo tinh thần nói trên, phải sớm bổ sung, nâng cao và hoàn chỉnh các
quy định đã có, hình thành cơ chế kế hoạch hoá và quản lý thích hợp cho các cơ
sở kinh tế quốc doanh.
Đối với các cơ sở
kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân, Nhà nước dùng các chính sách kinh tế và biện
pháp hành chính kết hợp với sự kiểm tra của quần chúng để hướng dẫn, điều khiển
hoạt động của các cơ sở ấy theo quỹ đạo kế hoạch nhà nước.
Mỗi tỉnh, mỗi huyện cần
nắm chắc lao động, đất đai, ngành, nghề, cơ sở vật chất của địa phương mình, khả
năng hợp tác với các đơn vị khác và xuất nhập khẩu, vật tư và hàng hoá nhận của
Nhà nước hằng năm. Trên cơ sở ấy, mỗi địa phương đặt kế hoạch tái sản xuất mở rộng,
bảo đảm đời sống cho nhân dân địa phương, bảo đảm giao nộp sản phẩm và nguồn
thu tài chính cho Nhà nước tương xứng với khả năng địa phương và với vật tư,
nguồn vốn do Nhà nước cung ứng. Kế hoạch của mỗi địa phương phải là kế hoạch đẩy
mạnh chuyên môn hoá và hiệp tác sản xuất phù hợp với thế mạnh của mình, mở rộng
trao đổi với các ngành và các địa phương khác, tăng cường xuất nhập khẩu.
Các bộ quản lý ngành
có nhiệm vụ kế hoạch hoá toàn ngành kinh tế, kỹ thuật phù hợp với các đặc điểm
của từng ngành. Kế hoạch của từng ngành phải được xây dựng theo tinh thần phấn
đấu cho bản thân ngành ngày càng lớn mạnh và đóng góp ngày càng nhiều cho nền
kinh tế cả nước. Kế hoạch của các công ty và liên hiệp sản xuất phải được xây dựng
trên nguyên tắc tự chủ tài chính, kinh doanh có lãi.
Cơ chế kế hoạch hoá
trên đây gắn liền kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đòi hỏi phát huy các đòn bẩy kinh tế, tăng cường căn cứ khoa học của kế
hoạch, cải tiến phương pháp và trình tự làm kế hoạch, gắn liền xây dựng với điều
hành thực hiện kế hoạch.
Về đòn bẩy kinh tế, cần
nhanh chóng sửa đổi những chính sách không còn thích hợp, xây dựng mới các
chính sách đồng bộ, gắn liền với chế độ kế hoạch hoá thành một cơ chế quản lý
kinh tế thống nhất, tăng cường vị trí của kế hoạch nhà nước đồng thời mở rộng
quyền chủ động cho các ngành, các địa phương, các cơ sở. Các chính sách đòn bẩy
kinh tế, mà phần lớn đã được trình bày ở phần thứ hai của báo cáo này, đều phải
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể và lợi ích của người lao động.
Nâng cao vai trò hợp đồng kinh tế trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch,
tăng cường trách nhiệm của các đơn vị kinh tế và người quản lý đối với các hợp
đồng đã ký, phát huy hiệu lực của công tác trọng tài kinh tế. Tích cực tạo điều
kiện và thực hiện hạch toán kinh tế một cách thích hợp cho các loại xí nghiệp,
thống nhất kế hoạch sản xuất và kế hoạch tài chính của xí nghiệp.
Về căn cứ khoa học của
kế hoạch, cần tiếp tục làm tốt các công tác điều tra cơ bản, dự đoán kinh tế,
xã hội và dự đoán khoa học, kỹ thuật, xây dựng chiến lược kinh tế và xã hội, lập
tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất, xây dựng kế hoạch dài hạn trên cơ sở
phương án kinh tế, kỹ thuật cho từng sản phẩm. Từng bước hoàn chỉnh hệ thống
tiêu chuẩn và định mức, đơn giá, phục vụ cho tính toán và đánh giá hoàn thành kế
hoạch. Gắn chặt kế hoạch kinh tế với kế hoạch khoa học, kỹ thuật.
Về phương pháp và
trình tự kế hoạch hoá, Nhà nước cần sớm đưa con số kiểm tra, với hệ thống chỉ
tiêu thu gọn hơn hiện nay, tập trung vào bốn điểm: sản lượng, sản phẩm giao cho
Nhà nước, lợi nhuận và thuế nộp Nhà nước, phương tiện do Nhà nước cung ứng. Hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh giao cho cơ sở, ngành và địa phương cần được quy định
một cách thích hợp và gọn. ở tất cả các cấp, phải coi trọng làm tốt hơn các bảng
cân đối của kế hoạch, phải tôn trọng các định mức và tiêu chuẩn kinh tế - kỹ
thuật. Để nâng cao tính pháp lệnh của kế hoạch, cần hoàn chỉnh từng bước hệ thống
luật lệ kinh tế, tăng cường kỷ luật kế hoạch, kỷ luật hợp đồng, kỷ luật tài
chính đối với các đơn vị và cá nhân, xử phạt nghiêm minh những sự vi phạm và
khen thưởng thích đáng những việc làm tốt.
Để tạo ra tiền đề thuận
lợi cho cơ chế kế hoạch hoá mới, phải tổ chức lại sản xuất, phấn đấu khẩn
trương để sớm hình thành hệ thống sản xuất, kinh doanh thông suốt và hợp lý.
Trước mắt, củng cố và kiện toàn các cơ sở của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể là việc rất quan trọng và có tác dụng thiết thực. Kiên quyết khắc phục tình
trạng làm ăn thua lỗ.
Phù hợp với trình độ
phát triển và đặc điểm cụ thể của từng ngành, cần từng bước tổ chức liên hiệp sản
xuất trong từng khu vực hoặc trong cả nước theo những hình thức thích hợp, như
liên hiệp xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp, công ty, nhóm sản phẩm... Củng cố các
liên hiệp sản xuất hiện có để thực sự chuyên môn hoá và hiệp tác sản xuất, đạt
hiệu quả kinh tế và xã hội cao hơn. Chuẩn bị vững chắc và thành lập một số liên
hiệp mới, nhằm vào những ngành và những địa bàn trọng điểm.
Ra sức xây dựng huyện,
gắn liền với củng cố hợp tác xã, theo những mô hình thích hợp cho từng loại huyện.
Về đại thể, kinh tế trên địa bàn huyện bao gồm: các hợp tác xã, các tập đoàn sản
xuất nông nghiệp, một số xí nghiệp sản xuất và chế biến, các cơ sở tiểu công
nghiệp và thủ công nghiệp, một số trạm, trại kỹ thuật nông nghiệp, một số cửa
hàng cung ứng vật tư, thu mua nông sản và bán lẻ hàng tiêu dùng... gắn bó với
nhau bằng các quan hệ kinh tế, theo kế hoạch, qua hợp đồng, hoặc bằng liên
doanh. Tập trung lực lượng xây dựng thật tốt những huyện quan trọng, có tỷ suất
hàng hoá cao.
Coi trọng quá trình
xây dựng kinh tế tỉnh, đẩy mạnh hoạt động điều hoà, phối hợp của chính quyền tỉnh
nhằm liên kết kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trên địa bàn tỉnh, tăng
cường sự hợp tác và trao đổi kinh tế giữa các huyện trong tỉnh và giữa các tỉnh
với nhau.
Tổ chức và quản lý tốt
các thành phố, thị xã, xác định rõ vị trí và nội dung quản lý của quận và phường.
Phù hợp với yêu cầu đổi
mới cơ chế kế hoạch hoá, phát huy các đòn bẩy kinh tế và tổ chức lại sản xuất,
phải chấn chỉnh bộ máy quản lý, cải tiến công tác cán bộ và cải tiến chế độ làm
việc.
Nêu cao chức năng và
tăng cường hiệu lực của Hội đồng Bộ trưởng và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng
trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội; nắm vững kế hoạch nhà nước; quyết định
các chính sách kinh tế; chỉ đạo công việc của các ngành, các cấp; kiểm tra,
giám sát các hoạt động kinh tế và xã hội.
Về các bộ, cần nhấn mạnh
rằng các bộ tổng hợp cũng như các bộ quản lý ngành đều có vai trò quan trọng,
theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng bộ. Các bộ tổng hợp như Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Uỷ ban Vật giá Nhà nước, Bộ Lao động,
Bộ Vật tư... phải làm tốt chức năng quản lý tổng hợp và tham mưu, vừa phục vụ,
vừa kiểm tra các ngành, các địa phương, các cơ sở. Các bộ phụ trách ngành phải
thực sự quản lý ngành trong cả nước, thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước
về hành chính - kinh tế - kỹ thuật đồng thời chỉ đạo các đơn vị trực thuộc
trong quản lý sản xuất, kinh doanh.
Hợp lý hoá sự phân
công giữa các bộ, xác định nội dung quản lý và cách tổ chức của từng bộ. Thực
hiện một cách gắt gao việc tinh giản bộ máy, giảm bớt các tổ chức trung gian, ấn
định biên chế hành chính hợp lý của các bộ.
Khẩn trương giải quyết
việc phân cấp giữa trung ương và địa phương; mạnh dạn mở rộng quyền hạn và
trách nhiệm cho cấp tỉnh, thành phố, cấp huyện và cơ sở, đi đôi với tăng cường
thích đáng việc quản lý tập trung thống nhất hợp lý của trung ương.
Thực hiện kiên quyết
và đầy đủ nghị quyết của Trung ương và của Bộ Chính trị về công tác cán bộ nhằm
đạt bằng được một chuyển biến về thực chất trong công tác cán bộ.
Bố trí đúng đội ngũ
cán bộ chủ chốt, sử dụng tốt để phát huy tiềm lực của đội ngũ cán bộ nói chung.
Sắp xếp lại số cán bộ quản lý các cơ sở, các liên hiệp xí nghiệp và công ty,
làm cho mỗi đơn vị có một kíp cán bộ cốt cán và một người phụ trách có đủ phẩm
chất và năng lực để thực hiện tốt chức năng được giao.
Kiện toàn những cơ
quan trung ương mà cán bộ còn yếu. Tăng cường cán bộ quản lý, cán bộ khoa học,
kỹ thuật cho các địa phương, đặc biệt là cho huyện và cơ sở.
Gấp rút mở rộng và
nâng cao chất lượng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý ở các cấp để đáp ứng yêu
cầu công tác trong thời gian tới.
Về chế độ và phong
cách làm việc, trước nhất, mọi cơ quan, mọi cán bộ, viên chức nhà nước phải
nghiêm chỉnh chấp hành bốn chế độ đã ban hành: chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật
lao động, chế độ bảo vệ của công, chế độ phục vụ nhân dân, cụ thể hóa các chế độ
đó thành các nội quy công tác.
Xác định nội dung các
việc mà từng chức danh cán bộ nhà nước phải đảm nhận, tạo điều kiện thi hành chế
độ một người phụ trách, nâng cao trách nhiệm và kỷ cương nhà nước. Kiên quyết
loại trừ tệ quan liêu, lạm dụng quyền hành, sách nhiễu và gây phiền hà cho nhân
dân.
Sớm cụ thể hoá và ráo
riết thi hành chế độ ra quyết định và thực hiện quyết định; đặc biệt chú ý nâng
cao chất lượng chuẩn bị các quyết định bằng cách huy động sự đóng góp của những
tổ chức có liên quan và những người am hiểu về từng vấn đề; nâng cao hiệu quả
chấp hành các quyết định bằng cách cải tiến chỉ đạo và tăng cường kỷ luật.
Một điều rất quan trọng
cần nhấn mạnh là phải ra sức nâng cao năng lực điều hành của các cơ quan quản
lý các cấp, từ Hội đồng Bộ trưởng đến cơ sở. Công tác điều hành của chúng ta mấy
năm nay tuy có tiến bộ về một số mặt, song vẫn chưa ngang tầm của tình hình và
nhiệm vụ. Công tác điều hành phải đòi hỏi mọi cơ quan, mọi người làm việc có kỷ
luật, có trách nhiệm, có hiệu quả; phải phối hợp được các lực lượng một cách ăn
khớp, kiểm tra sát sao việc thi hành kế hoạch và chính sách, phát hiện và có những
quyết định kịp thời để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, tổng kết
và phổ biến những kinh nghiệm tốt. Đây là một quá trình phấn đấu khắc phục bệnh
quan liêu, bảo thủ, trì trệ và những sự yếu, kém về trình độ hiểu biết, về năng
lực thực hành, về chế độ làm việc. Để nâng cao hiệu lực điều hành, chúng ta phải
coi trọng việc chấn chỉnh hệ thống thông tin kinh tế, xã hội, bảo đảm nhanh
chóng truyền đạt chủ trương, kế hoạch từ trung ương đến cơ sở và quần chúng, đồng
thời phản ánh trung thực, kịp thời ý kiến và nguyện vọng của cơ sở, của quần
chúng lên các cấp trên, cho đến cấp trung ương, góp phần thiết thực vào việc thực
hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Cơ chế quản lý mới cần
được xây dựng một cách đồng bộ. Trước mắt, phải tập trung sức làm cho được một
số việc cấp bách sau đây: đổi mới cách làm kế hoạch, thể hiện ngay trong việc
xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) và kế hoạch năm 1983; giải quyết vấn đề
phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương; hoàn thiện chủ trương khoán đến
nhóm và người lao động trong nông nghiệp và chủ trương mở rộng quyền chủ động sản
xuất, kinh doanh cho các cơ sở kinh tế quốc doanh; ban hành và thực hiện một số
chính sách đòn bẩy mới, nhằm khuyến khích nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng
và xuất khẩu; sắp xếp lại một bước các cơ sở sản xuất và công trình xây dựng cơ
bản; đẩy mạnh cải tạo và quản lý thị trường, giải quyết một bước vấn đề giá cả,
tiền lương và điều tiết những thu nhập không hợp lý; cải tiến bộ máy nhà nước,
sửa đổi chế độ làm việc; phát động phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới quản lý kinh
tế là nhiệm vụ trực tiếp có tầm quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta, với tư
cách là công cụ sắc bén nhất của Đảng và của nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động
và đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực nền tảng là hoạt động kinh tế. Trong tình
hình hiện nay, Nhà nước ta phải tỏ rõ một cách mạnh mẽ thực chất chuyên chính
vô sản, pháp chế hoá và thể hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động.
Phải vừa thực hiện tốt
quyền quản lý hành chính nhà nước, vừa thực hiện tốt các phương thức quản lý
kinh doanh xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, và quản lý sự nghiệp trong
lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, kỹ thuật. Toàn bộ hoạt động quản lý
đó phải dựa trên cơ sở pháp luật. Do đó, Nhà nước phải rất coi trọng việc xây dựng
từng bước hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Phải xác định bằng
pháp luật vai trò rất quan trọng của các đoàn thể quần chúng, cùng phối hợp
hành động và tạo điều kiện thuận lợi cho Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Phụ nữ, và các đoàn thể quần chúng khác. Đó là trường học về chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của các tầng lớp nhân dân, là những người cộng
tác đắc lực của Nhà nước, là những dây chuyền nối liền Đảng với quần chúng.
Để làm tốt tất cả
công tác quản lý phức tạp này, điều mấu chốt là thể chế hoá và phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, trực tiếp ở cơ sở: xí nghiệp, hợp tác
xã, thông qua các đoàn thể quần chúng, và thông qua hệ thống cơ quan quyền lực:
các cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, cho đến Quốc hội, Hội đồng Nhà nước
và Hội đồng Bộ trưởng.
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại
biểu,
Tình hình của đất nước
và sự nghiệp cách mạng của chúng ta đòi hỏi một sự chuyển biến cách mạng rộng lớn
và sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống, trong mọi hoạt động của nhân dân
ta, của mọi người chúng ta, trước hết là chuyển biến trong tư tưởng, đưa đến
chuyển biến trong việc làm, chuyển biến trong Đảng, trong bộ máy nhà nước,
trong tổ chức quần chúng, trong các lực lượng vũ trang và trong các tầng lớp
nhân dân.
Từ một nước sản xuất
nhỏ, nghèo nàn, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa là một quá trình đấu tranh cách mạng gian khổ, phức tạp, trong
một thời gian lịch sử hàng mấy chục năm. Đó là cuộc đấu tranh cách mạng sâu rộng
nhất, triệt để nhất, đưa đến những biến đổi cơ bản và toàn diện về mọi lĩnh vực
của xã hội, của đời sống, của con người. Đối với nước ta trong tình hình hiện
nay, đó là một cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ, dưới nhiều hình thức, bằng
nhiều biện pháp, chống mọi cái cũ, cái lỗi thời, cái hư hỏng đang cản trở bước
tiến của chúng ta, đồng thời đấu tranh quyết liệt chống cuộc chiến tranh phá hoại
về nhiều mặt của kẻ thù.
Mọi người chúng ta phải
vũ trang cho mình những tư tưởng lớn của đường lối chung và đường lối xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV vạch ra, được vận dụng và cụ thể hóa
trong các chủ trương, chính sách về mọi mặt nêu lên ở Đại hội V này, từ đó mà tạo
ra sự chuyển biến cách mạng sâu rộng và mạnh mẽ.
Trong sự chuyển biến
cách mạng này, chúng ta cần sáng tạo, bản thân sự chuyển biến là sáng tạo, và
chuyển biến cốt để phát huy mạnh mẽ hơn những nhân tố sáng tạo trong sự nghiệp
cách mạng của chúng ta.
Tình hình trước mắt
đòi hỏi chúng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và thanh toán
các hiện tượng tiêu cực trong các hoạt động kinh tế, văn hóa và trong đời sống
xã hội. Đây là một cuộc đấu tranh tổng hợp mà chúng ta phải nhận thấy đầy đủ tầm
quan trọng và tính chất phức tạp. Chúng ta tỉnh táo nhận rõ những hành động phá
hoại về kinh tế, gieo rắc nọc độc về văn hóa và lối sống, tiến hành chiến tranh
tâm lý, đó là những hoạt động của địch mà chúng ta phải kịp thời phát hiện và
trấn áp. Đối với những hành vi phạm pháp của bọn đầu cơ, buôn lậu, của một số kẻ
bóc lột mới, của những phần tử xấu, chúng ta phải vạch trần và kiên quyết trừng
trị. Đối với những cách làm ăn không chính đáng, trái với pháp luật nhà nước, của
những người hiện đang sản xuất và buôn bán cá thể, chúng ta phải kịp thời phê
phán, uốn nắn, kiên trì cố gắng đưa họ vào con đường làm ăn chính đáng, ích nước
lợi nhà. Còn phải thấy những việc làm sai trái đáng chê trách của một số người
trong các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền, đoàn thể quần chúng, như lợi dụng
chức quyền, chây lười, vô kỷ luật, phát ngôn vô trách nhiệm, ăn cắp, móc ngoặc.
Chúng ta phải kiên quyết lên án những việc làm sai trái ấy và xét xử nghiêm
minh đối với những người có sai lầm nghiêm trọng. Kết quả của cuộc đấu tranh chống
những hiện tượng tiêu cực kể trên được quyết định bởi vai trò lãnh đạo của Đảng,
vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, và vai trò chủ động của quần chúng, bởi
sự hiệp đồng của các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp, bởi sự kết hợp chặt
chẽ ba loại biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục. Kinh nghiệm cho thấy chỉ
có thể khắc phục các hiện tượng tiêu cực có kết quả khi phát huy được các nhân
tố tích cực, nghĩa là xây và chống quyện chặt với nhau, trong đó xây là cơ bản,
và cách chống tốt nhất là xây tốt. Khi nhân tố tích cực được khơi dậy và trở
thành xu thế áp đảo, thì hiện tượng tiêu cực chắc chắn bị đẩy lùi. Vấn đề ở đây
là cơ quan nhà nước phải kịp thời đề ra và thực hiện những cơ chế thích hợp cho
cả nước, cho từng ngành, từng cấp, từng loại đơn vị cơ sở, từ đó làm cho nhân
dân lao động phấn khởi, tin tưởng, hăng hái lao động sản xuất và hăng hái tham
gia cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực.
Hồ Chủ tịch đã nói:
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa".
Đó là con người chiến đấu kiên cường và bền bỉ vượt qua mọi khó khăn, chống mọi
lực lượng thù địch, chống mọi hiện tượng tiêu cực, quyết giành thắng lợi cho trật
tự xã hội chủ nghĩa, cho sự ổn định kinh tế và đời sống, từ đó đưa sự nghiệp vĩ
đại của chúng ta hướng về phía trước vững bước tiến lên. Lúc này hơn lúc nào hết,
chúng ta phải ôn lại truyền thống vẻ vang của Đảng ta và dân tộc ta, suốt mấy
thập kỷ vừa qua, đã đánh thắng những kẻ thù vô cùng hung bạo, giải phóng và bảo
vệ Tổ quốc ta, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Hơn lúc nào hết, mọi người chúng ta hãy vươn lên, phát huy vốn quý mà quá trình
cách mạng đã hun đúc cho cả dân tộc và cho mỗi người chúng ta. Con người xã hội
chủ nghĩa là con người có những đạo đức cao quý, những tình cảm đẹp đẽ, một
lòng, một dạ sống vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì nhân dân, làm việc tự giác và
có kỷ luật. Ai nấy đều phải ra sức làm việc, lao động sản xuất, làm ra những sản
phẩm vật chất và văn hóa ngày càng có giá trị. Đất nước còn nghèo, đời sống còn
thiếu thốn thì mọi người càng phải làm việc với tất cả năng lực và lương tâm của
mình, và mọi người phải hiểu chỉ có thể sống với cái mình làm ra.
Đảng ta là đảng tiên
phong của giai cấp công nhân, mỗi đảng viên là một chiến sĩ cách mạng đi đầu
trong mọi cuộc đấu tranh, đặc biệt là ở những lúc và những nơi gian khổ nhất.
Hiện nay, đó là tiêu chuẩn nổi bật của đảng viên mà chúng ta phải quán triệt và
thực hiện bằng việc làm. ở nước ta, đời sống đã chứng minh một chân lý phổ biến:
đảng viên đi trước, làng nước đi theo. Đó là bí quyết để tạo ra chuyển biến
cách mạng của tình hình kinh tế và xã hội.
Nhân dân lao động nước
ta là những người có tinh thần cách mạng kiên cường, giàu lòng yêu nước, tinh
thần dũng cảm, trí thông minh và tài năng sáng tạo.
Sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước và công tác tổ chức, giáo dục, động viên của các đoàn
thể quần chúng phải phát động cho được lực lượng vô cùng to lớn của nhân dân
trong một phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa sôi nổi, rộng khắp và bền bỉ.
Kinh nghiệm của tất cả những đơn vị xuất sắc của chúng ta đều chứng minh rằng:
nhân dân lao động nước ta chẳng những là những người sản xuất giỏi, làm ra mọi
của cải vật chất và văn hóa, mà còn là những người quản lý thông minh, có những
sáng kiến có giá trị về quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Bằng một loạt biện
pháp đồng bộ, bao gồm việc vạch ra mục tiêu thi đua cụ thể, tạo điều kiện cho
các hoạt động kinh tế diễn ra đều đặn, thi hành các chính sách khuyến khích lợi
ích vật chất, nêu cao kỷ luật lao động và pháp luật nhà nước, chúng ta phải
phát động cho được một phong trào cách mạng của nhân dân lao động ở thành thị
và nông thôn, nhằm xây dựng và thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1982,
năm 1983 và kế hoạch nhà nước 5 năm (1981 - 1985).
Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng. Thực hiện quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của mình, nhân
dân ta chắc chắn sẽ làm nên sự nghiệp lớn: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toàn Đảng, toàn dân
ta hãy phấn khởi tiến lên, đoàn kết và tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, thực
hiện bằng được những điều căn dặn của Bác Hồ vĩ đại:
"Còn non, còn nước,
còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ
xây dựng hơn mười ngày nay".
Tất cả vì Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân!
Sự nghiệp vĩ đại xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nhất định thành công!
Đảng Cộng sản Việt
Nam:
Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1982, t. II,
tr. 5 - 90
=============
Biên tập lại từ : https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-v/phuong-huong-nhiem-vu-va-nhung-muc-tieu-chu-yeu-ve-kinh-te-va-xa-hoi-trong-5-nam-1981-1985-va-nhung-nam-1503
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét