TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO-TỔNG CỤC ĐỊA CHÍNH-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG HOÀ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số:
02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC |
Hà Nội , ngày
28 tháng 7 năm 1997 |
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc
giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo Quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật
Đất đai năm 1993
Hiện nay, các tranh chấp về quyền sử dụng đất hết sức đa dạng và phức
tạp. Luật Đất đai năm 1993 có quy định thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước
trong việc giải quyết các tranh chấp này. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành,
nhiều địa phương vẫn chưa xác định rõ thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc
thụ lý giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất. Để xác định đúng thẩm quyền
của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo
quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính thống nhất hướng dẫn như
sau:
I- VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 quy định: "Các tranh chấp về
quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó
thì do Toà án giải quyết". Như vậy, theo quy định này, thì Toà án nhân dân
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất trong các trường
hợp sau đây:
1. Người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cấp.
Theo quy định tại Điều 36 Luật Đất đai năm 1993, thì Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phải là giấy do Cơ quan quản lý đất đai ở trung ương (cụ thể
là Tổng cục Địa chính) phát hành theo Luật Đất đai năm 1993 (thường gọi là bìa
đỏ) và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất. Như vậy,
không phân biệt đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản,
đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở...,
nếu có tranh chấp quyền sử dụng đất, mà đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án thụ lý để
giải quyết theo thẩm quyền.
2. Người sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), nhưng có tranh chấp tài sản (nhà ở,
vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm) gắn liền với việc sử dụng đất đó.
Khi giải quyết loại tranh chấp này, cần phải phân biệt các trường hợp
sau:
a) Trong trường hợp đương sự đã có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ),
thì Toà án giải quyết cả tranh chấp về tài sản và quyền sử dụng đất.
b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp
có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ
ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm
quy hoạch và thuộc trường hợp có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất
theo Nghị định số 45/CP ngày 3-8-1996 của Chính phủ "Về việc bổ sung Điều
10 của Nghị định số 60/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất tại đô thị hoặc theo tinh thần Công văn số 1427 CV/ĐC ngày
13-10-1995 của Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn xử lý một số vấn đề đất đai
để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất"..., thì Toà án giải quyết tranh
chấp về tài sản, đồng thời phân định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó
cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao
quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai và theo
quyết định của Toà án,
c- Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho
biết rõ, việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, tài sản không được phép tồn tại
trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về tài sản.
II- VỀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA TOÀ ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ UỶ
BAN NHÂN DÂN
1. Khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cần có sự phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân và cơ
quan Địa chính để giải quyết theo đúng các quy định của Luật Đất đai, của Bộ
luật dân sự và các quy định khác của pháp luật.
2- Trong trường hợp Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có văn bản
yêu cầu, thì trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Uỷ
ban nhân dân, cơ quan Địa chính có trách nhiệm cung cấp cho Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân các tài liệu địa chính, các tài liệu có liên quan hoặc
xác nhận việc sử dụng đất của đương sự. Trong văn bản xác nhận việc sử dụng đất
của đương sự, Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cần cho biết rõ là việc sử dụng
đất của đương sự thuộc trường hợp nào trong các trường hợp đã được nêu tại các
điểm a, b, c khoản 2 phần I Thông tư này. Ngoài ra, cơ quan Địa chính có trách
nhiệm giúp Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân xác minh các tình tiết có
liên quan đến quyền sử dụng đất, đo lại diện tích đất khi cần thiết...
3. Khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, nếu phát hiện các
hành vi vi phạm Luật Đất đai, thì Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có
quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định tại các
điều 85, 86 Luật Đất đai nhằm giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt
chức năng quản lý Nhà nước về đất đai.
4. Trong trường hợp nhận thấy bản án, quyết định của Toà án không phù
hợp với các quy định của pháp luật về đất đai, thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm
quyền, cơ quan Địa chính có quyền kiến nghị với Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân để xem xét theo pháp luật.
III- HƯỚNG DẪN VỀ HIỆU LỰC CỦA THÔNG TƯ
1. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15-8-1997.
3. Đối với những vụ án mà Toà án đã thụ lý đúng thẩm quyền, nhưng chưa
giải quyết hoặc đã được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,
nhưng bản án, quyết định đã bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày thông tư này có
hiệu lực thi hành và chưa giải quyết xong, thì áp dụng thông tư này để giải
quyết.
4. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành và vụ án đã được giải quyết đúng
theo các hướng dẫn trước đây, thì không áp dụng Thông tư này để kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình thực hiện Thông tư này nếu có gì vướng mắc thì cần báo
cáo cho Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa
chính để có hướng dẫn kịp thời.
Chu Văn Thỉnh (Đã ký) |
Trịnh Hồng Dương (Đã ký) |
Nguyễn Thị Tuyết (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét