|
|
Số: 03/TTLN |
Hà Nội , ngày 10 tháng 8
năm 1996 |
THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH
Hướng dẫn áp dụng pháp luật theo
nghị quyết của quốc hội
về việc thi hành bộ luật dân sự
Bộ luật
dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp
thứ tám, thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1996.
Đây là văn bản pháp luật lớn điều chỉnh các quan hệ dân sự trong phạm vi rộng.
Kể từ ngày 1/7/1996 Bộ luật dân sự thay thế các văn bản pháp luật về dân sự đã
được ban hành và có hiệu lực từ trước đến nay; ngoài ra có một số lĩnh vực hay
một số quan hệ dân sự mà từ trước đến nay chưa có văn bản pháp luật nào điều
chỉnh, nay Bộ luật dân sự đã có quy định bảo đảm một hệ thống các quy phạm pháp
luật dân sự thống nhất, là cơ sở thuận lợi cho việc thi hành và áp dụng pháp
luật.
Thực hiện
Nghị quyết đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ tám, thông qua ngày 28/10/1995
về việc thi hành Bộ luật dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị quyết), Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn áp dụng các
quy định của pháp luật dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự như
sau:
I. VỀ HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP DÂN SỰ
1. Theo
quy định tại khoản 1 Nghị quyết thì Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có hiệu lực từ ngày
1/7/1996.
Như vậy,
kể từ ngày 1/7/1996 các quan hệ dân sự đều phải tuân theo các quy định của Bộ
luật dân sự, do đó, đối với các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự
xác lập từ ngày 1/7/1996 phải áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải
quyết.
2. Theo
Nghị quyết thì các quy định của Bộ luật dân sự cũng được áp dụng để giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ một số loại giao dịch dân sự xác lập trước ngày
1/7/1996, cụ thể là:
a) Điểm a
khoản 3 Nghị quyết quy định là đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực hiện vẫn đang được thực hiện mà có nội dung và
hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, thì áp dụng các quy định của
Bộ luật dân sự; do đó, nếu có tranh chấp phát sinh từ những giao dịch dân sự
loại này, phải áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.
Ví dụ:
Ngày 5/9/1995 A vay B 2.000.000 đồng với thời hạn vay là 1 năm, lãi suất là
1,2% một tháng. Khi vay, A cầm cố với B chiếc máy khâu của mình trị giá
4.500.000 đồng và việc cầm cố này được ghi rõ trong hợp đồng vay nợ, có xác
nhận của Công chứng nhà nước. Ngày 10/5/1996 A lại vay B thêm 1.000.000 đồng
với thời hạn vay là 1 năm, lãi suất 1,2% một tháng và cũng trên cơ sở cầm cố
máy khâu theo lần vay thứ nhất. Hợp đồng vay nợ và cầm cố máy khâu lần này cũng
có xác nhận của Công chứng nhà nước. Từ tháng 5/1996 A không trả lãi cho B như
đã thoả thuận trong hai hợp đồng vay nợ nói trên. Giả sử, đến ngày 5/9/1996 là
hạn trả khoản nợ 2.000.000 đồng mà A không trả được nợ, nên B khởi kiện ra Toà
án yêu cầu A phải trả nợ, nếu không trả được khoản nợ 2.000.000 đồng thì phải
phát mại máy khâu đã cầm cố để B thu hồi cả hai khoản nợ là 3.000.0000 đồng và
số tiền lãi của 3.000.000 đồng từ tháng 5 năm 1996 là 3.000.000 đồng x 1,2% x 4
= 144.000 đồng. Tổng cộng số tiền mà B yêu cầu A phải trả là 3.144.000 đồng.
Nội dung và hình thức của hai hợp đồng vay nợ có cầm cố tài sản giữa A và B đều
phù hợp với nội dung hợp đồng vay nợ được quy định tại các Điều từ 467 đến 475
và cầm cố tài sản được quy định tại các Điều từ 329 đến 343 Bộ luật dân sự; do
đó, khi giải quyết tranh chấp này phải áp dụng các quy định tương ứng được quy
định tại các điều nói trên của Bộ luật dân sự, chứ không áp dụng các quy định
của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (văn bản pháp luật có hiệu lực vào thời điểm A và
B xác lập hợp đồng vay nợ).
Để áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự trong các trường hợp tương tự, cần chú ý xác
định là giao dịch dân sự đó phải có nội dung và hình thức hoàn toàn phù hợp với
các quy định của Bộ luật dân sự; nếu không hoàn toàn phù hợp thì không áp dụng.
b) Điểm c
khoản 3 Nghị quyết quy định là đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực và phù hợp với quy định của pháp luật tại thời
điểm xác lập mà nay vi phạm điều cấm hoặc trái với đạo đức xã hội theo quy định
của Bộ luật dân sự, thì các bên phải tự huỷ bỏ giao dịch dân sự đó; nếu các bên
không tự huỷ bỏ thì bị coi là vô hiệu. Như vậy, khi giải quyết các tranh chấp
dân sự nói chung, cần chú ý xem các giao dịch dân sự đó có vi phạm điều cấm
hoặc trái với đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự hay không? Nếu có
vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì
tuyên bố huỷ bỏ giao dịch đó.
Ví dụ: Anh
K là người mắc bệnh tâm thần không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
(mất năng lực hành vi dân sự). Chị D là vợ của anh K có đủ năng lực hành vi dân
sự và điều kiện làm người giám hộ, song do tư tưởng phong kiến, lạc hậu, gia
đình anh K không để chị D làm người giám hộ cho anh K mà cử anh M (anh ruột của
anh K) làm người giám hộ từ tháng 6-1995. Do pháp luật có hiệu lực trước ngày
1/7/1996 không quy định về người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực
hành vi dân sự, do đó, việc gia đình anh K cử anh M làm người giám hộ cho anh K
là phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm cử giám hộ (tháng 6/1995).
Tháng 5/1996 có tranh chấp thừa kế giữa anh em của anh K tại Toà án, Toà án đã
thụ lý vụ án để giải quyết vẫn để anh M đại diện cho anh K tham gia tố tụng, vì
cho rằng quyền lợi của anh K và anh M không mâu thuẫn với nhau. Giả sử vụ án
chia thừa kế chưa được giải quyết xong, thì từ ngày 1/7/1996 Toà án phải căn cứ
vào Điều 71 Bộ luật dân sự để huỷ việc cử anh M là người giám hộ của anh K và
yêu cầu chị D làm người giám hộ của anh K nếu chị D có đủ điều kiện và chị D
phải đại diện cho anh K tham gia tố tụng trong vụ án chia thừa kế đó.
Khi tuyên
bố huỷ các giao dịch loại này cần lưu ý rằng Toà án không giải quyết lại những
phần giao dịch đã thực hiện xong trước ngày 1/7/1996. Trong trường hợp có tranh
chấp về nghĩa vụ phát sinh từ việc thực hiện giao dịch đó trước ngày 1/7/1996
thì áp dụng quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày 1/7/1996 để giải
quyết, đối với phần giao dịch chưa thực hiện hoặc thực hiện từ ngày 1/7/1996
thì áp dụng quy định tại Điều 146 Bộ luật dân sự để giải quyết hậu quả của giao
dịch dân sự vô hiệu.
c) Theo
quy định tại khoản 5 Nghị quyết thì những quy định của Bộ luật dân sự về chuyển
quyền sử dụng đất có hiệu lực áp dụng kể từ ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu
lực. Luật đất đai này có hiệu lực từ này 15/10/1993. Như vậy, khi có tranh chấp
phát sinh từ việc chuyển quyền sử dụng đất, thì cần xác định thời điểm xác lập
việc chuyển quyền sử dụng đất đó, nếu việc chuyển quyền sử dụng đất được xác
lập từ ngày 15/10/1993, thì áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải
quyết.
Khi giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp quyền sử dụng đất xác lập trong giai đoạn từ 15/10/1993 đến hết 30/6/1996
cần chú ý là thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp này là ba năm kể từ
ngày có vi phạm theo quy định tại Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự.
Ví dụ:
Ngày 25/12/1993 A thuê đất của B. Ngày 20/2/1994 A vi phạm hợp đồng do không
trả tiền thuê đất. Vì hai bên lập hợp đồng thuê đất theo quy định của Pháp lệnh
Hợp đồng dân sự, do đó, B có quyền kiện A trong thời hạn là 3 năm (từ ngày
20/2/1994 đến ngày 20/2/1997) và sau ngày 20/2/1997 B không còn quyền kiện A
nữa.
II. ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA CÁC VĂN BẢN CÓ HIỆU LỰC TRƯỚC
NGÀY 1/7/1996 ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP DÂN SỰ
Theo quy
định tại khoản 2 Nghị quyết thì Pháp lệnh Hợp đồng dân sự ngày 29/4/1991, Pháp
lệnh nhà ở ngày 26/3/1991, Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990, Pháp lệnh bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp ngày 28/1/1989, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả ngày
2/12/1994, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ngày
2/12/1994 hết hiệu lực kể từ ngày 1/7/1996. Nghị quyết cũng quy định là trong
những trường hợp cụ thể, quy định của các Pháp lệnh nói trên được áp dụng để
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những giao dịch dân sự được xác lập
trước ngày 1/7/1996.
1. Điểm b
khoản 3 Nghị quyết quy định là đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà nội dung và hình thức khác với quy định của
Bộ luật dân sự, nhưng không vi phạm điều cấm hoặc không trái đạo đức xã hội
theo quy định của Bộ luật dân sự, thì được thực hiện theo quy định của pháp
luật khi giao dịch dân sự đó được xác lập. Như vậy, đối với tranh chấp phát
sinh từ những giao dịch dân sự này cũng được áp dụng pháp luật có hiệu lực
trước ngày 1/7/1996 để giải quyết.
Ví dụ: A
vay B một khoản tiền và có thế chấp căn nhà ở thuộc sở hữu của A, thời hạn thế
chấp là 1 năm kể từ ngày 5/10/1995 (trước ngày 1/7/1996), hợp đồng thế chấp
được cơ quan nhà nước chứng thực. Giả sử ngày 5/7/1996 có xảy ra tranh chấp về
việc A vi phạm hợp đồng vay nợ và thế chấp tài sản, B kiện A ra trước Toà án,
yêu cầu huỷ hợp đồng vay nợ và xử lý tài sản thế chấp. Tuy về nội dung và hình
thức hợp đồng vay nợ và thế chấp tài sản giữa A với B đều không vi phạm điều
cấm hoặc không trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự, nhưng
ngoài việc xác nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân
cấp có thẩm quyền vào hợp đồng thế chấp, Bộ luật dân sự còn quy định "Việc
thế chấp phải được đăng ký, nếu bất động sản có đăng ký quyền sở hữu"
(khoản 2 Điều 347). Do Pháp lệnh Hợp đồng dân sự không có quy định này, nên A
và B đã không đăng ký việc thế chấp nhà ở của A. Như vậy, hợp đồng vay nợ có
thế chấp nhà ở giữa A và B về hình thức không hoàn toàn phù hợp với quy định
của Bộ luật dân sự; do đó, không áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để
giải quyết tranh chấp như đã hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Phần I Thông tư này,
mà phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự để giải quyết tranh
chấp.
2. Điểm d
khoản 3 Nghị quyết quy định là đối với các giao dịch dân sự được xác lập và
thực hiện xong trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà có tranh chấp xảy ra,
thì áp dụng quy định của pháp luật có hiệu lực trước đây để giải quyết. Quy
định này có nghĩa là áp dụng các quy định của pháp luật có hiệu lực vào thời
điểm giao dịch dân sự được xác lập để giải quyết tranh chấp, mặc dù vào thời
điểm xét xử, các quy định đó không còn hiệu lực pháp luật.
Ví dụ:
Khoản 5 Điều 25 Pháp lệnh Nhà ở về quyền và nghĩa vụ của bên thuê nhà ở có quy
định là bên thuê nhà ở được công nhận quyền sở hữu đối với phần diện tích nhà ở
đã tự làm thêm nếu được sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê và được Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy phép. Quy định này chỉ có hiệu lực đến ngày
30/6/1996 vì từ ngày 1/7/1996 Pháp lệnh Nhà ở hết hiệu lực, còn Bộ luật dân sự
thì không quy định quyền này. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền này và
sau ngày 1/7/1996 đương sự nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết, cần xem xét một
thực tế là việc xây dựng thêm của người thuê nhà được thực hiện xong vào năm
1995 có đầy đủ các yếu tố quy định tại khoản 5 Điều 25 Pháp lệnh Nhà ở, nên cần
áp dụng khoản 5 Điều 25 Pháp lệnh Nhà ở để công nhận quyền sở hữu của người
thuê đối với diện tích nhà ở đã làm thêm đó, mặc dù vào thời điểm xét xử quy
định này không còn hiệu lực pháp luật.
3. Theo
quy định tại khoản 4 Nghị quyết, thì:
a) Đối với
giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập từ ngày 1/7/1991 đến ngày Bộ luật dân sự
có hiệu lực, thì thực hiện theo Pháp lệnh Nhà ở và các văn bản pháp luật khác
có liên quan. Như vậy, đối với các tranh chấp phát sinh từ những giao dịch dân
sự loại này cần áp dụng Pháp lệnh Nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh Nhà ở có liên quan để giải quyết như đã giải quyết từ trước đến nay, kể cả
trường hợp giao dịch thuê nhà ở có trước 1/7/1991, nhưng các bên đã ký kết lại
hợp đồng thuê nhà (theo thoả thuận mới của các bên hoặc theo quyết định của Toà
án hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền) trong giai đoạn từ 1/7/1991 đến hết ngày
30/6/1996.
b) Đối với
giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 thì sẽ được thực
hiện theo quy định của Quốc hội. Mục đích chủ yếu của quy định này là bảo đảm
cho việc giải quyết một số tồn đọng liên quan tới việc thực hiện chính sách cải
tạo nhà cửa và chính sách quản lý nhà cho thuê trước ngày 1/7/1991; do đó, kể
từ ngày 1/7/1996 Toà án các cấp tạm thời không thụ lý các tranh chấp nhà cửa có
liên quan tới việc thực hiện chính sách cải tạo nhà cửa của Nhà nước trước đây,
kể cả trường hợp nhà do cơ quan, tổ chức mượn của tư nhân, tổ chức, đoàn, hội
tôn giáo... làm trụ sở, cơ sở phục vụ lợi ích công cộng hay bố trí chỗ ở cho
cán bộ, nhân viên... và các tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở xác lập trước ngày
1/7/1991 (trừ trường hợp hai bên đã ký lại hợp đồng thuê nhà ở sau ngày
30/6/1991). Đối với những vụ án về những loại tranh chấp nói trên đã được thụ
lý mà chưa giải quyết xong (cụ thể là: Toà án cấp sơ thẩm chưa ra bản án, quyết
định giải quyết tranh chấp; bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị, nhưng Toà án cấp phúc thẩm chưa ra bản án, quyết định giải quyết tranh
chấp; bản án, quyết định dã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo trình tự
giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chưa ra bản
án, quyết định giải quyết tranh chấp), thì Toà án đang giải quyết vụ án căn cứ
vào khoản 4 Nghị quyết ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án và giải
thích cho đương sự rõ là khi có quy định của Quốc hội về vấn đề này, Toà án sẽ
giải quyết theo các quy định đó. Đối với các loại tranh chấp khác phát sinh từ
các giao dịch khác về nhà ở như mua bán nhà ở, ở nhờ, đòi bồi thường thiệt hại
về nhà ở... được xác lập trước ngày 1/7/1991, nhưng không có liên quan tới việc
thực hiện chính sách cải tạo nhà cửa hoặc cho thuê nhà, thì Toà án vẫn thụ lý
để giải quyết theo các quy định của pháp luật có hiệu lực tại thời điểm xác lập
giao dịch dân sự đó.
4. Đối với
các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất xác lập trước ngày 15/10/1993
thì theo tinh thần quy định của Hiến pháp năm 1980 (đất đai thuộc sở hữu toàn
dân), áp dụng các quy định của Luật đất đai năm 1987 và Thông tư liên ngành số
04/TTLN ngày 3/5/1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng cục quản lý ruộng đất (nay là Tổng cục địa chính) "Hướng dẫn
giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất" để giải quyết.
Khi thụ lý các tranh chấp này cần chú ý là hết ngày 15/10/1996 các đương sự
không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết các tranh chấp phát sinh
trước ngày 15/10/1993 nữa.
III. VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI
HIỆU
1. Tại
điểm a khoản 6 Nghị quyết có quy định là đối với các giáo dục dân sự được xác
lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà các văn bản pháp luật trước đây có
quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và
thời hiệu khởi kiện, thì áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp
luật đó. Như vậy cần chú ý các điểm sau đây:
a) Theo
quy định tại Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự thì: "Trong thời hạn ba
năm, kể từ thời điểm xảy ra vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền khởi kiện
trước Toà án, nếu pháp luật không có quy định khác. Quá thời hạn này, bên bị vi
phạm mất quyền khởi kiện". Bộ luật dân sự không có quy định về thời hiệu
khởi kiện đối với vi phạm hợp đồng dân sự, do đó, các hợp đồng dân sự được xác
lập từ ngày 1/7/1996 mà có vi phạm, thì bên bị vi phạm không bị hạn chế thời
gian khởi kiện trước Toà án, nếu pháp luật không có quy định khác.
b) Theo
quy định tại khoản 2 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kề thì trong thời hạn ba năm kể từ
thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán từ
các khoản chi từ di sản. Quy định này chỉ áp dụng đối với trường hợp thừa kế mở
trước ngày 1/7/1996. Đối với các trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì
người có quyền nói trên không bị hạn chế thời gian khởi kiện trước Toà án, vì
Bộ luật dân sự không có quy định, do đó, họ có quyền khởi kiện bất cứ lúc nào
sau thời điểm mở thừa kế, kể cả trường hợp di sản đã được chia, nếu pháp luật
không có quy định khác.
c) Theo
quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế, đối với các việc thừa kế đã mở
trước ngày ban hành Pháp lệnh này, thì thời hạn mười năm để người thừa kế thực
hiện quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác, được tính từ ngày công bố Pháp lệnh
Thừa kế (ngày 10/9/1990). Như vậy, các việc thừa kế đã mở trước ngày 30/8/1990
người thừa kế có quyền khởi kiện đến hết ngày 9/9/2000. Sau ngày 9/9/2000 đương
sự không có quyền khởi kiện đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày
30/8/1990.
2. Điểm b
khoản 6 Nghị quyết quy định là đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà các văn bản pháp luật trước đây không quy
định về thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trữ nghĩa vụ dân sự và
thời hiệu khởi kiện, thì áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu
và thời điểm bắt đầu thời hiệu được tính từ ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực.
Ví dụ 1:
Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật dân sự thì thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 140),
do bị nhầm lẫn (Điều 141), do bị lừa dối, đe doạ (Điều 142), do người xác lập
không nhận thức được hành vi của mình (Điều 143) là một năm, kể từ ngày giao
dịch đó được xác lập. Vì Pháp lệnh Hợp đồng dân sự không quy định thời hiệu một
năm này, do đó, đối với các giao dịch dân sự tương ứng xác lập trước ngày
1/7/1996 cũng áp dụng thời hiệu một năm này, nghĩa là thời hiệu yêu cầu Toà án
tuyên bố các giao dịch đó là vô hiệu là một năm và được tính từ ngày 1/7/1996
đến hết ngày 30/6/1997. Đối với các loại giao dịch dân sự vô hiệu do những
nguyên nhân khác thì không áp dụng thời hiệu một năm theo quy định tại khoản 1
Điều 145 Bộ luật dân sự.
Ví dụ 2:
Khoản 1 Điều 255 Bộ luật dân sự quy định: "Người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong
thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản, thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này" (nghĩa là trừ tài sản thuộc sở hữu toàn
dân). Vì trước ngày 1/7/1996 không có văn bản pháp luật nào quy định về thời
hiệu này, do đó, người đã chiếm hữu, được lợi về tài sản trong các trường hợp
này trước ngày 1/7/1996 không được tính thời hiệu từ ngày họ chiếm hữu, mà phải
tính từ ngày 1/7/1996, nghĩa là họ chỉ được trở thành chủ sở hữu tài sản đó sau
ngày 30/6/2006 (đối với động sản) hoặc sau ngày 30/6/2026 (đối với bất động
sản), nếu sau này pháp luật không có quy định khác.
Trên đây
là những vấn đề cơ bản trong việc áp dụng pháp luật khi Bộ luật dân sự có hiệu
lực pháp luật từ ngày 1/7/1996. Các vấn đề về áp dụng các quy định cụ thể của
Bộ luật dân sự sẽ được nghiên cứu và hướng dẫn tiếp trong quá trình thi hành Bộ
luật dân sự. Trong quá trình áp dụng Bộ luật dân sự cũng như Thông tư này, nếu
gặp khó khăn, vướng mắc gì, các Toà án, Việm kiểm sát các cấp có thể làm công
văn trao đổi để các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương phối hợp nghiên cứu và
hướng dẫn.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Nguyễn Thị Tuyết (Đã ký) |
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI
CAO Trịnh Hồng Dương (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét