BỘ CÔNG AN - BỘ TƯ PHÁP -
Số: 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC |
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm
2012 |
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn
thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và
Luật Thi hành
án hình sự về truy nã
Để thực hiện đúng và thống nhất các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về truy nã trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự về truy nã,
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự về truy nã trong giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Điều 2. Đối tượng bị truy nã
1. Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu.
2. Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn.
3. Người bị kết án phạt tù bỏ trốn.
4. Người bị kết án tử hình bỏ trốn.
5. Người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt
tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn.
Điều 3. Nguyên tắc truy nã
1. Việc truy nã phải nhanh chóng, kịp thời và phải đúng người, đúng hành vi
phạm tội, bảo đảm tôn trọng quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định của
pháp luật.
2. Nghiêm cấm ra quyết định truy nã trái với quy định của pháp luật và hướng
dẫn của Thông tư này.
Điều 4. Ra quyết định truy nã
1. Cơ quan có thẩm quyền chỉ được ra quyết định truy nã khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Có đủ căn cứ xác định đối tượng quy định tại Điều 2 của Thông tư này đã bỏ
trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy
bắt nhưng không có kết quả;
b) Đã xác định chính xác lý lịch, các đặc điểm để nhận dạng đối tượng bỏ trốn.
2. Khi có đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu
mà trước đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đã ra lệnh bắt bị
can, bị cáo để tạm giam mà không bắt được thì Cơ quan điều tra tự mình hoặc
theo yêu cầu của Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định truy nã; trường hợp chưa có lệnh bắt bị
can; bị cáo để tạm giam thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án không ra lệnh bắt bị
can, bị cáo để tạm giam mà Cơ quan điều tra tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát,
Tòa án ra ngay quyết định truy nã.
Điều 5. Nội dung quyết định truy nã
1. Quyết định truy nã phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã;
b) Tên cơ quan; họ tên, chức vụ người ra quyết định truy nã;
c) Họ và tên khai sinh, tên gọi khác (nếu có), ngày, tháng, năm sinh, nơi đăng ký thường trú, nơi tạm trú hoặc nơi ở khác
(nếu có) của đối tượng bị truy nã;
d) Đặc điểm nhận dạng và ảnh kèm theo (nếu có);
đ) Tội danh bị khởi tố, truy tố hoặc bị kết án, mức hình
phạt mà Tòa án đã tuyên đối với người bị truy nã (nếu có);
e) Địa chỉ, số điện thoại liên hệ của cơ quan đã ra quyết định truy nã.
2. Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm nhiều tội thì quyết định truy nã phải
ghi đầy đủ các tội danh của bị can, bị cáo.
Điều 6. Gửi, thông báo quyết định truy nã
1. Quyết định truy nã phải được gửi đến:
a) Công an xã, phường, thị trấn, Công an cấp huyện nơi đăng ký thường trú, tạm
trú, nơi ở và quê quán của người bị truy nã;
b) Công an cấp tỉnh nơi người bị truy nã có khả năng lẩn trốn hoặc gửi đến tất cả
Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
c) Cục Cảnh sát truy nã tội phạm Bộ Công an; Phòng Cảnh sát truy nã tội phạm
Công an cấp tỉnh (nơi ra quyết định truy nã);
d) Cơ quan hồ sơ nghiệp vụ (nơi đăng ký hồ sơ nghiệp vụ);
e) Viện kiểm sát nhân dân có yêu cầu ra quyết định truy nã; Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp với Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã; Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh nơi có trại giam, trại tạm giam, Cơ quan thi hành án hình sự
ra quyết định truy nã;
f) Tòa án nhân dân có yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã.
2. Quyết định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng
để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân biết, phát hiện, bắt giữ
đối tượng bị truy nã.
Chương II
TRUY NÃ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ,
THI HÀNH ÁN
Điều 7. Truy nã trong giai đoạn điều tra
1. Trong giai đoạn điều tra nếu xác định có bị can bỏ trốn hoặc không biết bị
can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án phải ra quyết định
truy nã và phối hợp với lực lượng Cảnh sát truy nã tội phạm để tổ chức
truy bắt.
2. Trường hợp người đang bị tạm giữ hoặc đang bị tạm giam trốn nhà tạm giữ thì
Trưởng nhà tạm giữ báo cáo ngay với Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp huyện nơi đối tượng bỏ trốn để Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra chỉ đạo, tổ chức
lực lượng truy bắt đồng thời ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can về “Tội trốn khỏi
nơi giam, giữ” theo quy định tại Điều 311 Bộ luật Hình sự và ra quyết định
truy nã bị can (trong quyết định truy nã ghi rõ các tội
danh khác mà người đó đã bị khởi tố).
3. Trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam trốn trại tạm giam thì Giám thị
trại tạm giam phải tổ chức ngay lực lượng truy bắt đồng thời
thông báo ngay cho Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án đó để ra quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can về “Tội trốn khỏi nơi giam, giữ” theo quy định tại
Điều 311 Bộ luật Hình sự và ra quyết định truy nã bị can (trong
quyết định truy nã ghi rõ các tội danh khác mà người đó đã bị khởi tố).
Điều 8. Truy nã trong giai đoạn truy tố
1. Trong giai đoạn truy tố nếu xác định có bị can bỏ trốn thì Viện kiểm sát
đang thụ lý hồ sơ có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra đã thụ lý vụ án ra quyết
định truy nã bị can.
2. Nếu hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự mà
việc truy nã đối với bị can chưa có kết quả thì Cơ quan ra lệnh truy nã phải thông báo kết quả
truy nã cho Viện kiểm sát đang thụ lý vụ án biết để có căn
cứ giải quyết theo thẩm quyền. Nếu vẫn chưa bắt được bị can bị truy nã thì vụ án được giải quyết như sau:
a) Trường hợp bị can bỏ trốn không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn
diện của vụ án thì Viện kiểm sát tách vụ án và ra quyết định
tạm đình chỉ vụ án đối với bị can bỏ trốn, các bị can khác trong vụ án vẫn tiến
hành truy tố theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp bị can bỏ trốn mà ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn
diện của vụ án thì Viện kiểm sát phải tạm đình chỉ toàn bộ vụ án.
Điều 9. Truy nã trong giai đoạn xét xử
1. Trường hợp Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố bị can và đã giao bản cáo
trạng cho bị can nhưng chưa chuyển hồ sơ vụ
án cho Tòa án mà nhận được thông tin về việc bị can bỏ trốn, thì Viện kiểm sát
vẫn chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án để thụ lý, xét xử và thông báo cho Tòa án biết
việc bị can đã bỏ trốn để Tòa án yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
2. Trong trường hợp nhận được thông báo của Viện kiểm sát về việc bị can bỏ
trốn sau khi đã được giao bản cáo trạng (không phân biệt hồ sơ vụ án đã
được chuyển giao cho Tòa án hay chưa) cũng
như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu bị can bỏ trốn thì Tòa án yêu
cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can và vẫn tiến hành các công việc theo thủ tục
chung.
Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 Bộ
luật Tố tụng hình sự mà việc truy nã bị can vẫn chưa có kết quả, thì Tòa án áp
dụng Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Trường hợp đã mở phiên tòa mà bị cáo bỏ trốn, thì
Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự
ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
3. Đối với các trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này mà trong vụ án
có nhiều bị can, bị cáo, trong đó có bị can, bị cáo bỏ trốn, có bị can, bị cáo
không bỏ trốn, thì Tòa án vẫn ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với
tất cả các bị can, bị cáo. Đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam không bỏ
trốn, mà thời hạn tạm giam đã hết và nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn
thành việc xét xử thì Tòa án áp dụng Điều 177 Bộ luật Tố tụng hình sự ra
lệnh tạm giam.
Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà việc truy nã vẫn chưa
có kết quả, thì Tòa
án phải ra ngay quyết định đưa vụ án ra xét xử và Tòa án xét
xử vắng mặt bị cáo bỏ trốn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố
tụng hình sự.
4. Khi nhận được văn bản của Tòa án yêu cầu truy nã bị can, bị cáo, Cơ quan điều
tra ra ngay quyết định truy nã và gửi thông báo quyết định truy nã theo đúng
quy định tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư
liên tịch này.
Nếu hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có công văn yêu cầu
mà việc truy nã vẫn chưa có kết quả thì Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã
phải thông báo cho Tòa án biết để Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt người bị truy nã theo điểm a khoản 2 Điều 187 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
5. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, bị cáo thì
khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, Tòa án không phải yêu cầu Cơ quan
điều tra tiếp tục ra quyết định truy nã mới.
Điều 10. Truy nã trong giai đoạn thi hành án
1. Người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, khi có quyết định thi hành án
nhưng bỏ trốn thì Tòa án đã ra quyết định thi hành án có văn bản
yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt
tù được tại ngoại ra quyết định truy nã.
2. Người đã hết thời hạn được hoãn chấp hành án phạt tù, sau khi Tòa án ra
quyết định thi hành án nhưng người này bỏ trốn thì Tòa án có
văn bản yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người được hoãn chấp hành
án phạt tù cư trú ra quyết định truy nã.
3. Người đã hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, sau khi Tòa án ra
quyết định thi hành án nhưng người này bỏ trốn thì Tòa án có
văn bản yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người được tạm
đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú ra quyết định truy nã.
4. Người đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, trại tạm giam bỏ trốn thì
Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam tổ chức ngay lực
lượng truy bắt. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi phát hiện người
đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn mà việc truy bắt không có kết quả thì Giám
thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Thủ trưởng Cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh (nếu trốn trại
tạm giam Công an cấp tỉnh) ra
quyết định truy nã và phối hợp tổ chức truy bắt.
5. Người bị kết án tử hình trong khi chờ quyết định thi hành án mà trốn trại
tạm giam thì Giám thị trại tạm giam tổ chức ngay lực lượng truy bắt. Trong thời
hạn 24 giờ kể từ khi phát hiện người bị kết án tử hình bỏ trốn mà việc truy bắt không có
kết quả thì Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Thủ trưởng Cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh (nếu trốn trại tạm giam Công an
cấp tỉnh) ra quyết định truy nã và phối hợp tổ chức truy bắt.
6. Người đang chấp hành án phạt tù tại nhà tạm giữ bỏ trốn, thì Cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp huyện tổ chức ngay lực
lượng truy bắt. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi phát hiện người đang
chấp hành án phạt tù bỏ trốn mà việc truy bắt không có kết quả thì Thủ trưởng
Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản đề nghị Thủ trưởng Cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra quyết định truy nã.
7. Trường hợp người bị kết án trục xuất, người chấp hành án trục xuất bỏ trốn thì sau
khi nhận được thông báo của cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú chỉ định, Cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh phải tổ chức truy bắt ngay; trường hợp
truy bắt không có kết quả thì trong thời hạn 07 ngày phải ra quyết định truy
nã.
Điều 11. Trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn phạm tội mới
hoặc quá trình điều tra còn phát hiện hành vi phạm tội khác của bị can, bị cáo
1. Trường hợp người đang bị truy nã trong quá trình bỏ trốn phạm tội mới và bị
bắt giữ thì Cơ quan điều tra thụ lý vụ án mới thông báo bằng văn bản cho Cơ
quan điều tra đã ra quyết định truy nã trước đó biết để ra quyết định đình nã và
phối hợp điều tra theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp người đang bị truy nã trong quá trình bỏ trốn phạm tội mới và
tiếp tục bỏ trốn thì Cơ quan điều tra thụ lý vụ án mới ra quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can và ra quyết định truy nã bị can về tội danh mới và thông báo
bằng văn bản cho Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã trước đó để phối hợp
truy bắt.
3. Trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn và đã có quyết định truy nã nhưng sau đó cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định ngoài tội danh bị truy nã bị can, bị
cáo còn phạm tội khác nữa, trong trường hợp này Cơ quan điều tra phải làm các
thủ tục để ra quyết định truy nã tiếp về tội danh mới phát hiện đó.
Điều 12. Tách, tạm đình chỉ, phục hồi điều tra vụ án
trong trường hợp có bị can bị truy nã
1. Đối với vụ án có nhiều bị can, trong đó có bị can bị truy nã thì trước khi
kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra quyết định tách vụ án hình sự phần có
liên quan đến hành vi của bị can bỏ trốn (nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án), khi đã hết thời hạn điều tra thì ra quyết định tạm đình chỉ điều tra
vụ án phần có liên quan đến hành vi của bị can bỏ trốn và ra quyết định tạm
đình chỉ điều tra đối với bị can đang bị truy nã. Các bị can khác trong vụ
án vẫn được kết luận điều tra, đề nghị truy tố theo quy định.
2. Khi bắt được bị can bỏ trốn theo quyết định truy nã, Cơ quan điều tra đã ra
quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã và ra quyết định phục hồi điều
tra vụ án, phục hồi điều tra bị can theo quy định tại Điều 165 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Chương III
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN THỰC HIỆN KHI BẮT HOẶC TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ TRUY NÃ
Điều 13. Xử lý khi bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt theo
quyết định truy nã
1. Sau khi bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt theo quyết định truy nã (kể cả
trường hợp người bị truy nã ra đầu thú), Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp nhận
người bị truy nã phải lấy lời khai người bị bắt (lập danh bản, chỉ bản, chụp
ảnh người bị bắt) và gửi ngay thông báo (kèm danh bản, chỉ bản, ảnh người bị
bắt) cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết để đến nhận người bị bắt.
2. Trường hợp xét thấy cơ quan ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay
người bị bắt thì Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt ra quyết
định tạm giữ và gửi ngay quyết định tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu cơ
quan đã ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận người bị bắt thì chậm nhất
trước khi hết thời hạn tạm giữ 12 giờ, Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp nhận người bị
bắt phải chuyển hồ sơ kèm theo Công văn đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp gia hạn tạm giữ
đối với người bị bắt. Thời hạn gia hạn tạm giữ và việc xét phê chuẩn việc gia
hạn tạm giữ được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 87 của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
3. Sau khi nhận được thông báo kèm theo danh bản, chỉ bản, ảnh người bị bắt,
cơ quan đã ra quyết định truy nã phải kiểm tra ngay để xác định đúng là người
đang bị truy nã hay không; nếu xác định đúng thì phải đến nhận ngay người bị
bắt; nếu không đúng phải thông báo lại ngay để Cơ quan điều tra đang giữ người
bị bắt biết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thể đến
nhận ngay người bị bắt thì cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt
để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam kèm theo quyết định
truy nã cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn.
Trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi nhận được đề
nghị phê chuẩn, Viện kiểm sát có trách nhiệm xét phê chuẩn lệnh tạm giam đối với
các trường hợp bắt theo quyết định truy nã để cơ quan ra quyết định truy nã kịp thời gửi
lệnh tạm giam kèm theo quyết định phê chuẩn cho Cơ quan điều tra đã bắt hoặc
tiếp nhận người bị bắt. Khi nhận được lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát
phê chuẩn, Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt theo quyết định
truy nã phải gửi ngay lệnh tạm giam kèm theo quyết định phê chuẩn của
Viện kiểm sát cho trại tạm giam, nhà tạm giữ nơi đang tạm giữ người bị bắt.
4. Trường hợp người bị bắt theo quyết định truy nã của Cơ quan thi hành án hình sự hoặc
của các trại giam, trại tạm giam trước khi hết thời hạn tạm giữ 12 giờ mà cơ
quan đã ra quyết định truy nã vẫn không thể đến nhận người bị bắt thì phải gửi
ngay bản án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định thi hành án phạt tù,
quyết định thi hành án phạt trục xuất cho Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp
nhận người bị bắt (nếu ở xa thì Fax các văn bản trên sau đó gửi ngay bản
chính) để làm căn cứ giam, giữ hoặc đưa vào cơ sở lưu trú (đối với trường hợp thi
hành án phạt trục xuất).
5. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã theo yêu cầu của
Viện kiểm sát hoặc Tòa
án thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được thông
báo bằng văn bản về việc đã bắt được người bị truy nã, Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã
yêu cầu truy nã phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi cho Cơ quan điều tra đã
bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt (nếu ở xa thì Fax lệnh tạm giam trước, sau
đó gửi ngay bản chính), đồng thời thông báo cho
cơ quan đã ra quyết định truy nã biết về việc đã gửi lệnh tạm giam.
6. Trước khi hết thời hạn tạm giữ 24 giờ (kể cả
thời hạn gia hạn tạm giữ) mà trại tạm giam, nhà tạm giữ
vẫn không nhận được lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã
hoặc lệnh tạm giam của Viện kiểm sát, Tòa án nơi đã yêu cầu truy nã thì
trại tạm giam, nhà tạm giữ thông báo ngay cho Cơ quan điều tra nơi đã bắt hoặc
tiếp nhận người bị truy nã. Ngay sau khi nhận được thông báo của trại tạm giam,
nhà tạm giữ, Cơ quan điều tra nơi đã bắt hoặc tiếp nhận người bị truy nã có văn
bản yêu cầu cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận ngay người bị bắt.
7. Trong trường hợp một người có nhiều quyết định truy nã, khi bắt giữ theo
quyết định truy nã của cơ quan nào thì Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp
nhận người bị truy nã thông báo cho cơ quan đó đến nhận người bị bắt. Cơ quan
đến nhận người bị bắt phải thông báo cho các cơ quan đã ra quyết định truy nã
biết để ra quyết định đình nã và phối hợp điều tra theo quy định của pháp luật.
8. Khi giao người bị bắt theo quyết định truy nã cho cơ quan đã ra quyết định
truy nã, Cơ quan điều tra đã bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt phải bàn giao kèm theo hồ
sơ gồm: Biên bản bắt người theo quyết định truy nã, biên bản ghi lời khai người
bị bắt, quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết
định phê chuẩn lệnh tạm giam, danh bản, chỉ bản và các tài liệu khác có liên quan (nếu
có). Khi bàn giao phải lập biên bản theo quy định.
9. Khi dẫn giải đối tượng truy nã nếu cần thiết phải nghỉ qua đêm thì cán bộ
dẫn giải xuất trình giấy tờ và đề xuất gửi đối tượng truy nã tại nhà tạm giữ,
trại tạm giam nơi gần nhất. Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm kiểm tra
hồ sơ liên quan đến đối tượng truy nã, đồng thời làm thủ tục nhận gửi đối tượng
truy nã.
Điều 14. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn và thủ tục giải
quyết khi bắt người bị truy nã về tội ít nghiêm trọng
Khi bắt hoặc tiếp nhận bị can, bị cáo bị truy nã về tội
ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù từ 2 năm trở xuống, Cơ
quan điều tra đã bắt hoặc tiếp nhận người bị bắt ra quyết định tạm giữ. Khi hết
thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra thụ lý vụ án phải áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 15. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi bắt người
chưa thành niên bị truy nã
1. Người bị truy nã từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi có thể bị tạm giữ, tạm giam nếu có đủ các căn cứ quy định tại các điều 82, 86, 88,
120 và 303 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trường hợp khi ra quyết định truy nã người chưa thành niên phạm tội, nhưng
khi bắt được thì họ đã là người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) thì có thể
áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
như đối với người đã thành niên.
Điều 16. Giải quyết trường hợp người bị truy nã ra đầu thú
1. Khi có người bị truy nã đến đầu thú thì các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội báo ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất biết để cử người đến tiếp nhận và
lập biên bản về việc người bị truy nã ra đầu thú. Trường hợp người bị truy nã
ra đầu thú tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban
nhân dân các cấp thì các cơ quan này phải lập biên bản về việc người bị truy nã
ra đầu thú và giải ngay người đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Khi tiếp nhận người bị truy nã ra đầu thú, Cơ quan điều tra phải lập biên
bản về việc người bị truy nã ra đầu thú (nếu cơ quan bàn giao chưa lập biên
bản) và lấy lời khai về hành vi phạm tội, quá trình trốn, lý do đầu thú và
những vấn đề khác có liên quan.
3. Người phạm tội bị truy nã ra đầu thú thì được xem xét là một tình tiết giảm
nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
4. Người có quyết định thi hành án phạt tù bỏ trốn bị truy nã ra đầu thú nhưng
đang bị bệnh hiểm nghèo (có kết luận của Hội đồng y khoa Bệnh viện cấp tỉnh
trở lên), phụ nữ có thai (có xác nhận của Bệnh viện đa
khoa cấp huyện trở lên), người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người
lao động duy nhất trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương) nếu phải chấp hành án phạt tù thì gia đình sẽ lâm vào
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thì Tòa án có thể cho tạm hoãn chấp hành án phạt
tù theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Hình sự.
Chương IV
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 17. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 12 năm 2012.
Các văn bản của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự về truy nã trái
với các quy định của Thông tư này đều bãi bỏ.
Điều 18. Tổ chức thực hiện
Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm phổ biến, hướng dẫn, theo dõi và kiểm
tra việc thực hiện Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, các đơn vị,
địa phương báo cáo về Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời./.
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP |
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN |
KT. VIỆN TRƯỞNG |
KT. CHÁNH ÁN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét