|
|
Số:
77-TTLB/TC/NV |
Hà
Nội , ngày 30 tháng 10 năm 1995 |
THÔNG
TƯ LIÊN BỘ
Của Bộ Tài chính-Nội vụ số 77-TTLB/TC-NV ngày 30
tháng 10 năm 1995 Hướng dẫn bổ sung việc thu và sử dụng tiền phạt đối với các
hành vi
vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự an
toàn giao thông đường bộ
và trật tự an toàn giao thông đô thị
Căn cứ vào ý kiến chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ nêu tại Công điện số 5395/LC ngày 26/9/1995 của Văn
phòng Chính phủ, để thực hiện tốt Nghị định số 36/CP ngày 29 tháng 5 năm 1995
của Chính phủ về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn
giao thông đô thị, Liên Bộ Tài chính - Nội vụ hướng dẫn sửa đổi, bổ sung một số
điều về thu và sử dụng tiền thu phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực này như sau:
1/ Sửa lại nội dung của
điểm 4 - phần I Thông tư Liên bộ số 56 - TTLB/TC-NV ngày 17/7/1995
như sau:
Toàn bộ tiền thu về xử
phạt đối với các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự
an toàn giao thông đô thị do các lực lượng Trung ương và địa phương xử phạt,
đều phải được tập trung vào Ngân sách Nhà nước thông qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước để bổ sung kinh phí cho công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường
bộ và đô thị. Trong đó:
- 30% tập trung vào Ngân
sách Trung ương để chi bổ sung kinh phí (chi tập trung ở Trung ương) cho các
Bộ, ngành Trung ương như: Bộ Nội vụ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính (Kho
bạc Nhà nước Việt Nam, Tổng cục thuế).
- 70% được điều tiết cho
Ngân sách địa phương để chi cho các hoạt động giữ gìn trật tự an toàn giao
thông và đô thị tại địa bàn tỉnh, thành phố (bao gồm cả các khoản chi trực tiếp
cho các lực lượng Trung ương trực tiếp tham gia công tác đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ và đô thị trên địa bàn, như cơ quan nội vụ, giao thông, Kho
bạc Nhà nước...).
2/ Khoản thu từ tiền
phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự an toàn giao
thông đường bộ và đô thị được sử dụng để chi bổ sung cho việc duy trì và đảm
bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và đô thị. Cụ thể như sau:
a/ Đối với phần kinh phí
tập trung ở Trung ương:
- Chi cho việc mua sắm
trang, thiết bị cần thiết bổ sung phục vụ trực tiếp cho công tác giữ gìn trật
tự an toàn giao thông và thu tiền phạt.
- Chi bổ sung cho việc
in ấn quyết định, biên bản xử phạt, biên lai thu tiền phạt và các chứng từ khác
có liên quan, chi cho công tác tuyên truyền, in ấn tài liệu...
- Các khoản chi khác
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện Nghị định 36/CP...
b/ Đối với phần kinh phí
để lại cho địa phương:
- Bổ sung kinh phí cho
việc sắp xếp lại các chợ trên hè đường vào đúng nơi quy định.
- Bổ sung cho việc xây
dựng hệ thống tín hiệu giao thông (đèn báo, hệ thống các biển báo, biển chỉ
dẫn...).
- Làm thêm và sửa chữa
các hàng rào phân cách luồng đường ở các trục đường cần thiết, làm mới lại các
vạch phân chia luồng đường giành cho xe cơ giới, cho người đi bộ, vỉa hè, nơi
đỗ xe.
- Hỗ trợ kinh phí trong
việc tháo dỡ các lều quán, công trình xây dựng trái phép trên các hè phố, đường
giao thông (ngoài phần chi phí cưỡng chế do cá nhân đơn vị vi phạm phải chịu
theo quy định của Pháp lệnh xử phạt hành chính).
- Các chi phí liên quan
tới việc bảo quản, tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính... (bao gồm cả việc
thuê kho bãi - nếu có).
- Chi bồi dưỡng cho các
lực lượng trực tiếp tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ và đô
thị trên địa bàn tỉnh, thành phố theo kế hoạch của Bộ Nội vụ, Bộ Giao thông, Bộ
Tài chính và UBND tỉnh, thành phố (bao gồm cả lực lượng công an, giao thông,
Kho bạc Nhà nước trực tiếp tham gia trên địa bàn tỉnh, thành phố, lực lượng
thanh niên, tổ dân phố được huy động vào việc đảm bảo trật tự an toàn giao
thông bộ và đô thị).
- Chi cho các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến về tăng cường công tác trật tự an toàn giao thông.
- Các chi phí khác liên
quan trực tiếp tới việc thực hiện công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ và đô thị...
c/ Các khoản chi bồi
dưỡng cho lực lượng tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ và đô
thị được thực hiện theo chế độ hiện hành quy định về làm đêm, làm thêm giờ
(theo Thông tư số 10/LĐTBXH - TL ngày 19/4/1995 của Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội), công tác phí (theo Thông tư số 09/TC-HCVX ngày
17/2/1994 của Bộ Tài chính), vv... nhưng tối đa không quá 200.000đ/người-tháng.
Các khoản chi khác thực
hiện theo dự toán được duyệt, đảm bảo tuân thủ các quy định chung về quản lý
tài chính hiện hành.
3/ Căn cứ vào các nội
dung quy định tại điểm 2 nêu trên, các bộ ngành, các đơn vị được giao nhiệm vụ
trên địa bàn tỉnh, thành phố lập dự toán chi gửi Bộ Tài chính, Sở Tài chính xét
duyệt và cấp phát kinh phí bổ sung cho đơn vị.
4/ Sở Tài chính Vật giá
căn cứ vào số thu được về tiền phạt và nhiệm vụ đã giao cho các đơn vị trên địa
bàn tỉnh, thành phố để thực hiện việc xét duyệt, phân bổ và cấp phát kinh phí
cho các đơn vị. Khi xét duyệt và cấp phát bổ sung kinh phí từ nguồn thu phạt về
vi phạm điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ và đô thị phải xem xét đảm
bảo không chi trùng lắp với kế hoạch đã được duyệt hàng năm, đảm bảo chi đúng
mục đích và có hiệu quả nhằm thúc đẩy việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ và đô thị.
5/ Kinh phí chi cho công
tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và đô thị được quản lý theo quy
định về quản lý Ngân sách Nhà nước hiện hành. Cuối năm Sở Tài chính các địa
phương thực hiện quyết toán nguồn kinh phí này theo đúng chế độ quyết toán Ngân
sách quy định, trong đó có thuyết minh riêng phần thu tiền phạt và chi bổ sung
cho công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh, thành phố.
Các Bộ, Kho bạc Nhà nước thực hiện việc quyết toán kinh phí này cùng với quyết
toán kinh phí NSNN hàng năm.
6/ Sửa lại điểm 3 - phần
II Thông tư Liên bộ số 56/TT-LB như sau:
Để bảo đảm việc thi hành
quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt có quyền tạm giữ giấy phép lưu
hành phương tiện, giấy phép lái xe, giấy tờ cần thiết khác có liên quan hoặc
tang vật, phương tiện vi phạm cho đến khi cá nhân, tổ chức vi phạm được ghi vào
biên bản hoặc quyết định xử phạt. Trường hợp tạm giữ phương tiện, tang vật phải
lập biên bản riêng.
7/ Bổ sung nội dung quy
định về địa điểm thu tiền phạt:
Người có thẩm quyền xử
phạt có trách nhiệm hướng dẫn người bị xử phạt đến nộp phạt tại các địa điểm
thu tiền phạt thuận lợi nhất. Trong một số trường hợp đặc biệt, người bị xử
phạt không thể nộp phạt tại các địa điểm thu tiền trên địa bàn tỉnh, thành phố,
người bị xử phạt có thể đề nghị được nộp phạt tại bất kỳ điểm thu phạt nào của
Kho bạc Nhà nước (hoặc do KBNN uỷ quyền) trong phạm vi cả nước, nhưng phải đảm
bảo đúng quy định trong thời gian tối đa không quá 5 ngày. Kho bạc Nhà nước
Trung ương có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra và tổ chức hướng dẫn việc thu tiền
phạt.
8/ Bổ sung nội dung quy
định về việc thu tiền phạt như sau:
Cơ quan Kho bạc Nhà nước
thực hiện thu tiền phạt theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt. Trường
hợp có khiếu nại và được cơ quan có thẩm quyền xử phạt giải quyết thì căn cứ
vào quyết định giải quyết khiếu nại, cơ quan Kho bạc Nhà nước thu thêm tiền
(nếu quyết định giải quyết khiếu nại thay đổi mức tiền phạt cao hơn quyết định xử
phạt trươc); phối hợp với cơ quan tài chính trả lại số tiền chênh lệch (nếu
quyết định giải quyết khiếu nại thay đổi mức tiền phạt thấp hơn hoặc huỷ bỏ
quyết định xử phạt cũ).
9/ Kho bạc Nhà nước có
thể thực hiện việc uỷ quyền thu tiền phạt cho một số đơn vị như bưu điện, thuế,
ngân hàng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc nộp kịp thời số thu về tiền phạt vào
KBNN. Biên lai thu tiền thực hiện thống nhất như quy định tại thông tư Liên bộ
số 56 - TTLB/TC - NV ngày 17/7/1995. Tiền thanh toán phí uỷ nhiệm thu được
trích từ tổng số thu tiền phạt và nằm trong dự toán của KBNN tỉnh, thành phố
được Sở Tài chính duyệt.
10/ Thông tư này có hiệu
lực thi hành từ ngày ký, riêng việc quản lý và sử dụng tiền phạt quy định tại
các điểm 1, 2, 3, 4, 5 của Thông tư này áp dụng từ 1/8/1995. Một số nội dung
quy định tại Thông tư 56- TTLB/TC-NV ngày 17/7/1995 của Liên BộTài chính - Nội
vụ không còn phù hợp với Thông tư này đều được bãi bỏ.
Lê Thế Tiệm (Đã ký) |
Lê Thị Băng Tâm (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét