BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM-BỘ TÀI
CHÍNH-TỔNG CỤC QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 92/TTLB |
Hà Nội , ngày 10 tháng 11
năm 1993 |
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH, BỘ NÔNG
NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM, TỔNG CỤC QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT SỐ 92-TT/LB NGÀY 10
-11 -1993 HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 73/CP NGÀY 25/10/1993 CỦA CHÍNH PHỦ
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VIỆC PHÂN HẠNG ĐẤT TÍNH THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Căn
cứ Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; căn cứ Nghị định số 73/CP ngày 25 tháng
10 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc phân hạng đất tính thuế sử
dụng đất nông nghiệp; Liên bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Tài chính
và Tổng cục quản lý ruộng đất hướng dẫn như sau:
I.
XÁC ĐỊNH TIÊU CHUẨN CÁC YẾU TỐ CỦA TỪNG HẠNG ĐẤT TÍNH THUẾ
1.
Yếu tố chất đất: Chất đất là độ phì của đất (loại đất, độ dày canh tác hoặc độ
dày tầng đất, hàm lượng mùn...) thích hợp với từng loại cây trồng; đối với đất
có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn bao gồm độ muối và nguồn dinh dưỡng của
nước. Yếu tố chất đất của các cây trồng chính cụ thể như sau:
a.
Đối với đất trồng lúa:
-
Đất có độ phì cao (10 điểm) gồm đất phù sa thuộc hệ thống sông Hồng, hệ thống
sông Cửu Long, hệ thống sông Thái Bình, hạ lưu sông Thu Bồn, hạ lưu sông Ba
-
Đất có độ phì trung bình (7 điểm) gồm đất phù sa của các sông khác; đất phèn ít
và trung bình, đất mặn ít và trung bình của đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long.
-
Đất có độ phì thấp (5 điểm) gồm đất phù sa bị úng nước, đất xám, đất dốc tụ,
đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước, đất phèn ít và phèn trung bình, đất mặn
ít và mặn trung bình không thuộc đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long.
-
Đất có độ phì quá thấp (2 điểm) gồm đất phèn nhiều, đất mặn nhiều, đất trũng
lầy, đất cát biển, đất bạc màu... các loại đất này phải cải tạo mới sản xuất
được.
b.
Đối với đất có mặt nước mặn lợ nuôi trồng thuỷ sản:
-
Đất có độ phì cao (10 điểm) gồm đất phù sa, đất cát bùn giàu nguồn dinh dưỡng.
-
Đất có độ phì trung bình (7 điểm) là đất phèn ít, có hàm lượng dinh dưỡng thấp.
-
Đất có độ phì thấp (5 điểm) là đất có độ phèn trung bình phải cải tạo mới nuôi
trồng được.
-
Đất có độ phì quá thấp (2 điểm) gồm đất phèn nhiều, đất lầy, đất cát rất nghèo
dinh dưỡng phải cải tạo lâu mới nuôi trồng được.
c.
Đối với đất trồng cây công nghiệp lâu năm và đất trồng cây ăn quả lâu năm:
-
Đất có độ phì cao (10 điểm) là các loại đất phù hợp với từng loại cây trồng ở
từng địa phương, có tầng dày trên 100 cm, có hàm lượng mùn trên 2,5%.
-
Đất có độ phì trung bình (8 điểm) là các loại đất tương đối phù hợp với từng
loại cây trồng ở từng địa phương, có tầng dầy từ 70 cm đến 100cm, có hàm lượng
mùn từ 1% đến 2,5%.
-
Đất có độ phì quá thấp (6 điểm) là đất có tầng dầy dưới 70cm có lẫn cát, đá sỏi
nhiều, có hàm lượng mùn dưới 1%, muốn trồng cây lâu năm phải đầu tư cải tạo
nhiều mới sản xuất được.
2.
Yếu tố vị trí:
a.
Đối với đất trồng cây hàng năm, đất trồng cỏ, đất rừng trồng: Yếu tố vị trí
được xác định từ nơi sản xuất tới nơi cư trú của hộ sử dụng đất. Nơi cư trú của
hộ sử dụng đất được xác định là trung tâm của thôn (xóm), ấp, bản nơi có đất,
có thang điểm: 7, 5, 3, 1.
b.
Đối với đất trồng cây lâu năm (trừ đất rừng trồng) và đất có mặt nước nuôi
trồng thuỷ sản: Yếu tố vị trí được xác định từ trung tâm thôn (xóm), ấp, bản
nơi có đất tới thị xã, thành phố gần nhất. Riêng đối với các doanh nghiệp được
tính từ trụ sở doanh nghiệp tới xã, thành phố gần nhất, có thang điểm: 6, 4, 2
đối với đất trồng cây lâu năm và thang điểm: 7, 5, 3, 1 đối với đất có mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản.
3.
Yếu tố địa hình: theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 73/CP
ngày 25 tháng 10 năm 1993 và chi tiết tại bảng tiêu chuẩn từng yếu tố để phân
hạng đất tính thuế của các cây trồng chính ban hành kèm theo.
Đối
với đất trồng cây hàng năm và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có thang điểm: 8, 6,
4, 2.
Đối
với đất trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả lâu năm có thang điểm: 8, 6,
4.
4.
Yếu tố điều kiện khí hậu, thời tiết: bao gồm các điều kiện nhiệt độ trung bình
hàng năm; lượng mưa trung bình hàng năm; lượng gió, bão, lũ trong năm; số tháng
khô hạn, số tháng nóng (gió Lào); lượng sương muối. Những yếu tố này được đánh
giá ở hai mức độ hạn chế hoặc không hạn chế đến việc sinh trưởng của cây trồng.
Mỗi yếu tố được đánh giá là hạn chế nếu yếu tố ấy diễn ra thường xuyên lặp đi
lặp lại hàng năm làm ảnh hưởng đến việc sinh trưởng của cây trồng. Những yếu tố
này được tổng hợp đánh giá tiêu chuẩn theo từng loại cây trồng trên đất như
sau:
a.
Đối với đất trồng lúa:
-
Thuận lợi cho việc trồng lúa, không có hạn chế gì (10 điểm) tức là không có yếu
tố nào xấu nhất.
-
Tương đối thuận lợi cho việc trồng lúa trong đó có 1 điều kiện hạn chế (7
điểm), điều kiện đó xấu nhất như nói ở trên.
-
Tương đối thuận lợi cho việc trồng lúa trong đó có 2 điều kiện xấu nhất (5
điểm).
-
Không thuận lợi cho việc trồng lúa có ít nhất 4 điều kiện hạn chế (2 điểm) như
bão, lũ, sương muối, gió Lào.
b.
Đối với đất có mặt nước mặn lợ nuôi trồng thuỷ sản được xác định tương tự như
đất trồng lúa.
c.
Đối với đất trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả lâu năm, đất rừng trồng
được phân chia làm 3 mức phù hợp với từng loại cây trồng: thuận lợi (10 điểm),
tương đối thuận lợi (8 điểm) và ít thuận lợi (6 điểm).
5.
Yếu tố điều kiện tưới tiêu (chế độ nước) bao gồm cả phần nhà nước đầu tư và
tưới tiêu tự nhiên.
a.
Đối với đất trồng lúa và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản được chia làm 4
mức theo bảng tiêu chuẩn của từng yếu tố để phân hạng đất tính thuế kèm theo
Nghị định số 73/CP ngày 25 tháng 10 năm 1993 của Chính phủ. Bốn mức tương ứng
thang điểm: 10, 7, 5, 2.
b.
Đối với đất trồng cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả lâu năm được chia làm 3
mức: thuận lợi (10 điểm), tương đối thuận lợi (8 điểm), ít thuận lợi (6 điểm)
phù hợp với từng loại cây trồng ở từng địa phương.
II.
PHÂN HẠNG ĐẤT TÍNH THUẾ ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG CHÍNH
1.
Đối với đất trồng cây hàng năm: thực hiện phân hạng đất trồng lúa trước; trên
cơ sở đó phân hạng đất trồng các loại cây khác.
Khi
phân hạng đất đối với đất trồng lúa phải dựa vào tiêu chuẩn hạng đất của 5 yếu
tố là chủ yếu và kết hợp với việc tham khảo năng suất bình quân đạt được trong
điều kiện canh tác bình thường của 5 năm (1986 - 1990). Năng suất đạt được là
yếu tố kiểm tra lại việc phân hạng đất theo 5 yếu tố như sau:
-
Ruộng đất được xếp vào cùng một hạng đất tính thuế phải có cùng tiêu chuẩn của
5 yếu tố; trường hợp cùng đạt tiêu chuẩn hạng đất của 5 yếu tố, nhưng năng suất
đạt được khác nhau, thì vẫn cùng một hạng đất tính thuế.
-
Ruộng đất cùng đạt được năng suất như nhau nhưng khác nhau về tiêu chuẩn hạng
đất theo 5 yếu tố, thì ruộng có thang điểm của 5 yếu tố đạt cao sẽ xếp vào hạng
đất tính thuế cao, ruộng có thang điểm của 5 yếu tố đạt thấp sẽ xếp vào hạng
tính thuế thấp.
Năng
suất dùng để tham khảo, kiểm tra việc phân hạng đất tính thuế là năng suất đạt
được trong điều kiện thời tiết bình thường với trình độ canh tác và thâm canh
trung bình ở địa phương.
Khi
phân hạng đất đối với đất trồng các loại cây hàng năm, phải dựa trên tiêu chuẩn
hạng đất của 5 yếu tố và kết quả phân hạng đất lúa, so sánh 5 yếu tố của hạng
đất trồng lúa ở nơi liền cạnh hoặc gần nhất với 5 yếu tố của đất trồng cây hàng
năm khác.
2.
Đối với đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản:
Đất
có mặt nước vừa nuôi trồng thuỷ sản vừa trồng cây hàng năm, thì thực hiện phân
hạng đất tính thuế như đất trồng cây hàng năm.
Ao,
hồ, đầm dùng vào nuôi trồng thuỷ sản, thực hiện phân hạng đất theo trồng cây
hàng năm liền cạnh hoặc nơi gần nhất.
Đất
có mặt nước mặn lợ chuyên dùng vào nuôi trồng thuỷ sản phải căn cứ vào chất
đất, chất nước, vị trí, khí hậu thời tiết, địa hình và điều kiện cấp thoát nước
là chủ yếu và kết hợp với việc tham khảo năng suất bình quân đạt được trong
điều kiện canh tác bình thường của 5 năm (1986 - 1990) hoặc của các năm gần
nhất.
3.
Đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi phân hạng đất theo đất trồng cây hàng năm.
4.
Đối với đất trồng cây lâu năm (trừ đất trồng cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm
khác thu hoạch một lần) việc phân hạng đất thực hiện như sau:
-
Đất trồng cây lâu năm ở những nơi trồng chuyên canh hoặc trồng phổ biến hoặc
đất vườn nằm trong đất khu dân cư, thì dựa vào tiêu chuẩn của 5 yếu tố xác định
hạng đất tính thuế cho đất trồng các loại cây lâu năm: cao su, chè, cây ăn quả
(cam quýt), dừa và điều (đào lộn hột).
-
Đất trồng cây lâu năm nằm xen kẽ đất trồng hàng năm thì phân hạng đất như trồng
cây hàng năm liền cạnh.
-
Đất vườn hoặc đất trồng nhiều cây lâu năm khác nhau, thì phân hạng đất như đất
chuyên trồng cây lâu năm liền cạnh; trường hợp không có các loại đất chuyên
trồng cây lâu năm liền cạnh, thì phần hạng đất như đất trồng cây hàng năm liền
cạnh.
Đất
trồng cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm thu hoạch một lần gồm: gỗ, tre, nứa,
mai, vầu, bương... và các loại cây khác mà thân cây không còn hoặc không còn
khả năng cho sản phẩm sau lần thu hoạch đầu tiên.
Đất
trồng các loại cây này không phân hạng, mà thu thuế theo sản lượng khai thác
theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định số 73/CP ngày 25
tháng 10 năm 1993 của Chính phủ.
III. TRÌNH TỰ PHÂN HẠNG ĐẤT TÍNH THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP
1.
ở cấp tỉnh:
Căn
cứ vào Điều 1 Nghị định số 73/CP ngày 25 tháng 10 năm 1993
của Chính phủ; căn cứ vào tiêu chuẩn từng yếu tố để phân hạng đất tính thuế của
các cây trồng chính và hướng dẫn của Liên bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm, Tài chính và Quản lý ruộng đất; Cục thuế phối hợp với cơ quan nông nghiệp
và quản lý ruộng đất tỉnh thực hiện:
-
Dự kiến cơ cấu hạng đất của đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, mặt
nước mặn lợ nuôi trồng thuỷ sản phù hợp với mức độ các yếu tố phân hạng đất và
năng suất cây trồng của từng huyện, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho các
huyện trong quý I năm 1994;
-
Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định các căn
cứ mức điểm tối đa, tối thiểu của từng yếu tố theo từng loại cây trồng chủ yếu,
của từng quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để xây dựng hạng đất tính
thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các xã.
2.
ở cấp huyện:
Căn
cứ vào tiêu chuẩn hạng đất và hướng dẫn tại Thông tư này; căn cứ vào chỉ đạo
của tỉnh; căn cứ vào dự kiến cơ cấu hạng đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh giao, Chi
cục thuế phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế (các ngành liên quan) trình Uỷ ban
nhân dân huyện dự kiến cơ cấu hạng đất của từng xã, phường, thị trấn, số thuế
ghi thu trên cơ sở đó chỉ đạo các xã, phường, thị trấn phân hạng đất tính thuế.
3.
ở cấp xã:
Căn
cứ vào Điều 1 của Nghị định số 73/CP ngày 25 tháng 10 năm
1993 của Chính phủ; căn cứ vào hướng dẫn của tỉnh và huyện. Theo sự chỉ đạo của
Uỷ ban nhân dân huyện, đội thuế xã cùng Hội đồng tư vấn thuế xã giúp Uỷ ban
nhân dân xã phân hạng đất tính thuế đến từng thửa ruộng của từng hộ sử dụng đất.
Phân
hạng đất các loại cây trồng chính trước theo địa bàn thôn, ấp, bản; trên cơ sở
đó phân hạng đất đối với đất trồng các loại cây khác. Việc phân hạng đất phải
được thực hiện theo từng cánh đồng theo thực tế đất đai, số vụ sản xuất và tham
khảo năng suất đạt được trong điều kiện canh tác trung bình và trình độ tham
canh trung bình ở địa phương được quy định chi tiết tại Nghị định số 73/CP ngày
25 tháng 10 năm 1993 của Chính phủ. Chú ý xác định các yếu tố địa hình, vị trí
và năng suất theo từng loại cây trồng của từng vùng ruộng đất.
Cơ
quan thuế cùng cán bộ ruộng đất, nông nghiệp dự kiến phân hạng đất tính thuế
của xã, đưa ra thảo luận xem xét trong hội đồng tư vấn; trên cơ sở đó cơ quan
thuế giúp Uỷ ban nhân dân xã tổng hợp kết quả phân hạng đất.
Kết
quả phân hạng đất trước khi báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện phải niêm yết cho
nhân dân biết để tham gia trong thời gian 20 ngày.
IV.
XÉT DUYỆT PHÂN HẠNG ĐẤT TÍNH THUẾ
1.
Chi cục thuế phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế huyện (các ngành liên quan) giúp
Uỷ ban nhân dân huyện kiểm tra, xét duyệt hạng đất tính thuế sử dụng đất nông
nghiệp của các xã và các đơn vị do Chi cục thuế huyện trực tiếp lập sổ thuế. Cá
biệt, chưa có sự nhất trí giữa Hội đồng tư vấn thuế huyện với các xã thì Uỷ
nhân dân huyện chỉ đạo các xã làm lại. Chi cục thuế giúp Uỷ ban nhân dân huyện
tổng hợp, báo cáo Cục thuế và trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.
2.
Cục thuế phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế tỉnh (các ngành liên quan) giúp Uỷ
ban nhân dân tỉnh tổng hợp, xét duyệt hạng đất tính thuế sử dụng đất nông
nghiệp của huyện và các đơn vị do Cục thuế trực tiếp lập sổ thuế để trình Uỷ
ban nhân dân tỉnh xét duyệt, báo cáo với Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) trình
Chính phủ.
V.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1.
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo các ngành: thuế, nông nghiệp,
quản lý ruộng đất và Uỷ ban nhân dân cấp dưới thực hiện công tác phân hạng đất
tính thuế sử dụng đất nông nghiệp.
2.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 11 năm 1993. Những quy
định về phân hạng đất tính thuế nông nghiệp trước đây chỉ có hiệu lực thi hành
đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1993.
Chu Văn Thỉnh (Đã ký) |
Ngô Thế Dân (Đã ký) |
Phan Văn Dĩnh (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét