|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
LUẬT
TỔ CHỨC CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Luật
Tổ chức chính quyền
địa phương số 77/2015/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2015 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2016, được sửa đổi, bổ sung bởi:
1. Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2019;
2. Luật số 47/2019/QH14 ngày 22 tháng 11 năm 2019 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ
chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2020;
3. Nghị quyết số 96/2023/QH15 ngày 23 tháng 6 năm 2023
của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ
chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 7 năm 2023.
Căn cứ Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương[1].
Luật này quy định về đơn
vị hành chính và tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn vị
hành chính.
Các đơn vị hành chính của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi chung là cấp
xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Điều
3. Phân loại đơn vị hành chính
1. Phân loại đơn vị hành
chính là cơ sở để hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng
tổ chức bộ máy, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của chính quyền
địa phương phù hợp với từng loại
đơn vị hành chính.
2.
Phân loại đơn vị hành chính phải dựa trên các tiêu chí về quy mô dân số, diện
tích tự nhiên, số đơn vị hành chính trực thuộc, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các yếu tố đặc
thù của từng loại đơn vị hành chính
ở nông thôn, đô thị, hải đảo.
3. Đơn vị hành chính được
phân loại như sau:
a) Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là
đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt; các đơn vị hành chính cấp tỉnh còn
lại được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III;
b) Đơn vị hành chính cấp huyện được phân thành ba
loại: loại I, loại II và loại III;
c) Đơn vị hành chính cấp
xã được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III.
4. Căn cứ vào quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể tiêu chuẩn của
từng tiêu chí, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị hành chính.
Điều
4. Tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn
vị hành chính
1.[2]
Chính quyền
địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt.
2. Chính quyền địa phương
ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.
3. Chính quyền địa phương
ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc Trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, phường, thị
trấn.
Điều
5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
1. Tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ.
2. Hiện đại, minh bạch,
phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân.
3. Hội đồng nhân dân làm
việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
4. Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
1. Hội đồng nhân dân gồm
các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
2. Đại biểu Hội đồng nhân
dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương, chịu
trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng nhân dân về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
Đại biểu Hội đồng nhân
dân bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Hội đồng nhân dân.
3.[3]
Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân,
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này và các quy
định khác của luật có liên quan; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân.
Thành viên của Thường
trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân
dân cùng cấp.
4. Ban của Hội đồng nhân
dân là cơ quan của Hội đồng nhân dân, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết,
báo cáo, đề án trước khi trình Hội đồng nhân dân, giám sát, kiến nghị về những
vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân.
Điều
7. Tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân
1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu
thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
1a.[4] Có
một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
2. Có phẩm chất đạo đức
tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có
bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
3. Có trình độ văn hóa,
chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện
nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
4. Liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
1. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên.
2. Ủy ban nhân dân gồm
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định.
Điều
9. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân
1. Cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân được tổ
chức ở cấp tỉnh, cấp huyện, là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân
cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên.
2. Cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự
chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước
về ngành, lĩnh vực cấp trên.
3. Việc tổ chức cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
phải bảo đảm phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và điều kiện, tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; bảo đảm tinh gọn, hợp lý,
thông suốt, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực từ
trung ương đến cơ sở; không trùng lặp với nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
nhà nước cấp trên đặt tại địa bàn.
Điều 10. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
1. Nhiệm kỳ của mỗi khóa
Hội đồng nhân dân là 05 năm, kể từ kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khóa
đó đến kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khóa sau. Chậm nhất là 45 ngày
trước khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân khóa mới phải được
bầu xong.
Việc rút ngắn hoặc kéo
dài nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
2. Nhiệm kỳ của đại biểu
Hội đồng nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân
dân được bầu bổ sung bắt đầu làm nhiệm vụ đại biểu từ ngày khai mạc kỳ họp tiếp
sau cuộc bầu cử bổ sung đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân
khóa sau.
3. Nhiệm kỳ của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân
cùng cấp. Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân
tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu ra Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân khóa mới.
Điều
11. Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương
1. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các
cấp được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở
trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức
phân quyền, phân cấp.
2. Việc phân định thẩm quyền được thực hiện trên cơ
sở các nguyên tắc sau đây:
a) Bảo đảm quản lý nhà
nước thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch đối với các
ngành, lĩnh vực; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc
gia;
b) Phát huy quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trong
việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của
pháp luật;
c) Kết hợp chặt chẽ giữa
quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà
nước giữa chính quyền địa phương các cấp đối với các hoạt động kinh tế - xã hội
trên địa bàn lãnh thổ;
d) Việc phân định thẩm
quyền phải phù hợp với điều kiện,
đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực;
đ) Những vấn đề liên quan
đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên thì thuộc thẩm quyền giải
quyết của chính quyền địa phương cấp huyện; những vấn đề liên quan đến phạm vi
từ hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của
chính quyền địa phương cấp tỉnh; những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn
vị hành chính cấp tỉnh trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà
nước ở trung ương, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
nghị định của Chính phủ có quy định khác;
e)[6]
Việc phân quyền, phân cấp cho các cấp chính
quyền địa phương phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và các
điều kiện cần thiết khác; gắn phân quyền, phân cấp với cơ chế kiểm tra, thanh
tra khi thực hiện phân quyền, phân cấp. Chính quyền địa phương thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm
vi được phân quyền, phân cấp.
3. Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát các cơ quan nhà nước ở địa
phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, phân cấp.
Điều
12. Phân quyền cho chính quyền địa phương
1.[7]
Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong
luật.
Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho
cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác.
2. Chính quyền địa phương
tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được
phân quyền.
3. Cơ quan nhà nước cấp
trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm
tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được
phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương.
4. Các luật khi quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, của các cơ quan thuộc chính
quyền địa phương phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của
Luật này và phù hợp với các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quy
định tại Luật này.
Điều
13. Phân cấp cho chính quyền địa phương
1. Căn cứ vào yêu cầu
công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ
quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền
địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường
xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
2. Việc phân cấp phải bảo
đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này và phải được quy
định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân
cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của
cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp.
3.[8] Cơ quan nhà nước cấp trên
khi phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà
nước cấp dưới phải bảo đảm điều kiện về
tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn mà mình phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã
phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình
phân cấp.
4. Cơ quan nhà nước được
phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ
quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc
cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà
nước cấp trên phân cấp nhưng phải
được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp.
Điều
14. Ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
1.[9]
Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật
này, cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực
tiếp, Ủy ban nhân dân có thể
ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới
trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các
điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản.
2.10
Việc ủy quyền quy định tại khoản 1 Điều này phải bảo đảm điều kiện về tài
chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân ủy quyền có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn đã ủy quyền và chịu trách nhiệm về
kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình đã ủy quyền.
3. Cơ quan, tổ chức được
ủy quyền phải thực hiện đúng nội dung và chịu trách nhiệm trước cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy
quyền. Cơ quan, tổ chức nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ
chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên ủy quyền.
Điều 15. Quan hệ công tác giữa chính
quyền địa phương với Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương
1. Chính quyền địa phương tạo điều kiện để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội động viên Nhân dân tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước,
giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương.
2. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội
đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban
nhân dân cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan.
3. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình
hình của địa phương cho Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp.
4. Chính quyền địa phương có trách nhiệm lắng nghe, giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
10 Khoản này được sửa đổi, bổ sung
theo quy định tại khoản 7 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính
phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7
năm 2020.
(Xem tiếp Công báo số 1243 + 1244)
[1] Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 có căn cứ ban hành như
sau:
“Căn
cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Quy hoạch.”.
Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức
Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương có căn cứ ban hành như sau:
“Căn
cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương số
77/2015/QH13.”
Nghị
quyết số 96/2023/QH15 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn có căn cứ
ban hành như sau:
“Căn cứ Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 63/2020/QH14;”.
[2] Khoản này được sửa đổi, bổ sung
theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính
phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7
năm 2020.
[3] Khoản này được sửa
đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2020.
[4] Khoản này được bổ
sung theo quy định tại khoản 3 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2020.
[5] Khoản này được bãi
bỏ theo quy định tại khoản 33 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2020.
[6] Điểm này được sửa đổi, bổ sung
theo quy định tại khoản 4 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính
phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7
năm 2020.
[7] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 5 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 7 năm 2020.
[8] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 6 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 7 năm 2020.
[9] Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
khoản 7 Điều 2 của Luật số 47/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 7 năm 2020.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét