10. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47).
Khi quy định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự cần thực hiện đúng các quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 và cần chú ý các điểm sau đây:
a- Quy định “Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật” được áp dụng trong trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất. Nếu các khung hình phạt của điều luật được sắp xếp theo thứ tự 1, 2, 3... và từ nhẹ nhất đến nặng nhất, thì theo quy định này khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, Toà án chỉ có thể quy định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 1, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2; Toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 2, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3...
Ví dụ: Một người phạm tội trộm cắp tài sản và có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, việc áp dụng quy định trên đây của Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:
- Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới 2 năm tù, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 1; cụ thể là chỉ được phạt tù từ 6 tháng đến dưới 2 năm hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm.
- Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Toà án có thể quyết định đối với họ một hình phạt tù dưới 7 năm, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 2; cụ thể là chỉ được phạt tù từ 2 năm đến dưới 7 năm.
- Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Toà án có thể quyết định đối với họ một hình phạt tù dưới 12 năm, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 3; cụ thể là chỉ được phạt tù từ 7 năm đến dưới 12 năm.
b- Khi áp dụng quy định “Trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn” cần chú ý:
- Đối với hình phạt tù có thời hạn, thì theo quy định tại Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 mức tối thiểu của loại hình phạt này là 3 tháng; do đó, trong mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định mức thấp nhất của khung hình phạt là trên 3 tháng tù, thì không được quyết định mức hình phạt tù dưới 3 tháng; nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là 3 tháng tù, thì chỉ có thể chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Ví dụ 1: Một người buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị 40 triệu đồng thuộc khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999, có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, thì đối với họ chỉ có thể quyết định một hình phạt tù từ 3 tháng đến dưới 6 tháng hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ).
Ví dụ 2: Một người tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm theo quy định tại Điều 148 Bộ luật hình sự năm 1999, có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, thì đối với họ không được quyết định một hình phạt tù dưới 3 tháng (mức thấp của loại hình phạt tù có thời hạn) mà chỉ có thể xử phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm.
- Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, thì theo quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999, mức tối thiểu của hình phạt này là 6 tháng; do đó, trong mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, không được quyết định mức hình phạt cải tạo không giam giữ dưới 6 tháng.
- Đối với hình phạt tiền, thì theo quy định tại Điều 30 Bộ luật hình sự năm 1999, mức tối thiểu là 1 triệu đồng; do đó, trong mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, không được quyết định mức hình phạt tiền dưới 1 triệu đồng. Nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là 1 triệu đồng, thì chỉ có thể chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là cảnh cáo.
c- Cần phải hạn chế và phải hết sức chặt chẽ khi áp dụng các quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 trong trường hợp nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, thì bị cáo phải bị xử phạt ở mức cao của khung hình phạt. Thông thường trong trường hợp này khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử.
d- Khi xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội, nếu tội nào mà người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, thì có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với tội đó, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999.
đ- Lý do của việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự cần được ghi rõ trong bản án.
e- Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999, thì việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự chỉ áp dụng đối với các hình phạt chính mà không áp dụng đối với hình phạt bổ sung, bởi vì đối với hình phạt bổ sung không thể có nhiều khung hình phạt, không có quy định một khung hình phạt, không có khung hình phạt nhẹ nhất và không quy định việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét