VỀ XOÁ BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC
(Được thông qua và để
ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn theo Nghị quyết số 2106 A (XX) ngày
21/12/1965 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực từ ngày 4/1/1969, căn cứ
theo Điều 19. Việt Nam gia nhập ngày 9/6/1981).
Các Quốc
gia thành viên của Công ước này,
Xét rằng, Hiến chương của Liên
Hợp Quốc dựa trên nguyên tắc về sự bình đẳng và phẩm giá vốn có của con người,
và rằng tất cả các Quốc gia thành viên đã cam kết sẽ có những hoạt động riêng
rẽ hoặc phối hợp cùng tổ chức Liên Hợp Quốc nhằm đạt được một trong những mục
tiêu của Liên Hợp Quốc là thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng và tuân thủ
trên phạm vi toàn cầu các quyền và tự do cơ bản của con người của tất cả mọi
người, mà không có bất kỳ sự phân biệt về sắc tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn
giáo,
Xét rằng, Tuyên ngôn Toàn thế
giới về Quyền con người tuyên bố rằng, mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng
về nhân phẩm và các quyền, và rằng tất cả mọi người đều được hưởng tất cả các
quyền và tự do trong Tuyên ngôn, mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, cụ thể
như về chủng tộc, màu da hoặc nguồn gốc dân tộc.
Xét rằng, tất cả mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật, và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng
để chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử hay bất kỳ sự kích động phân biệt đối
xử nào.
Xét rằng, Liên Hợp Quốc đã lên
án chủ nghĩa thực dân và tất cả các hành động chia rẽ và phân biệt liên quan
đến nó dưới bất kỳ hình thức nào, bất kỳ ở đâu, và Tuyên bố về trao trả độc lập
cho các nước và các dân tộc thuộc địa ngày 14/12/1960 (theo Nghị quyết số 1514
(XV) của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc) đã khẳng định và chính thức tuyên bố sự
cần thiết phải xóa bỏ chủ nghĩa thực dân một cách nhanh chóng và vô điều kiện.
Xét rằng, Tuyên bố của Liên Hợp
Quốc về loại trừ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc ngày 20/10/1963 (theo
Nghị quyết số 1940 (XVIII) của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc) đã long trọng khẳng
định sự cần thiết phải xóa bỏ nhanh chóng nạn phân biệt chủng tộc trên toàn thế
giới, dưới mọi hình thức và mọi biểu hiện của nó, và về sự cần thiết phải
bảo đảm sự hiểu biết và tôn trọng nhân phẩm con người.
Tin
tưởng rằng,
bất cứ học thuyết nào về tính thượng đẳng dựa trên sự khác biệt về sắc tộc đều
là sai lầm về mặt khoa học và đáng bị lên án về mặt đạo đức, đều bất công và
nguy hiểm về mặt xã hội, và không thể có sự biện minh nào đối với sự phân biệt
chủng tộc, cả trong lý thuyết cũng như trong thực tế, ở bất cứ đâu,
Khẳng
định rằng,
sự phân biệt giữa người với người dựa trên cơ sở sắc tộc, màu da và nguồn gốc
dân tộc là trở ngại cho các quan hệ hữu nghị và hòa bình giữa các quốc gia, là
yếu tố phá hoại hòa bình và an ninh giữa các dân tộc, cũng như phá hoại sự hòa
hợp giữa những người đang chung sống trên và thuộc cùng một quốc gia,
Nhận
thấy rằng,
sự tồn tại của những hàng rào sắc tộc là xung đột với các lý tưởng của bất cứ
xã hội con người nào.
Cảnh báo
rằng,
những biểu hiện của sự phân biệt chủng tộc hiện đang còn tồn tại ở một số nơi
trên thế giới, thông qua những chính sách chia rẽ hoặc phân biệt của một số
chính phủ dựa trên sự thượng đẳng về sắc tộc hoặc lòng hận thù, chẳng hạn như
các chính sách của chế độ a-pác-thai, chính sách phân biệt hoặc chia rẽ.
Quyết
tâm thông
qua tất cả các biện pháp cần thiết để nhanh chóng xóa bỏ nạn phân biệt chủng
tộc dưới bất cứ hình thức nào, cũng như phòng ngừa và chống lại các học thuyết
và hành động phân biệt chủng tộc, nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc
và xây dựng một cộng đồng quốc tế không có bất kỳ sự phân biệt hoặc phân chia
nào về chủng tộc.
Ghi nhớ
rằng,
Công ước về chống phân biệt trong lao động và việc làm được Tổ chức Lao động
quốc tế thông qua năm 1958 và Công ước chống sự phân biệt đối xử trong giáo dục
được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc thông qua năm
1960.
Mong
muốn rằng,
thực hiện những nguyên tắc thể hiện trong Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về loại
trừ các hình thức phân biệt chủng tộc và đảm bảo sẽ thông qua một cách sớm nhất
các biện pháp thực tế nhằm thực hiện mục tiêu này.
Đã thỏa
thuận những điều sau đây:
2.
Công ước này sẽ không áp dụng đối với những sự phân biệt, loại trừ, hạn chế
hoặc ưu đãi mà một Quốc gia thành viên Công ước áp dụng giữa những người là
công dân quốc gia đó và những người không là công dân quốc gia đó.
3.
Không một điều nào trong Công ước này được hiểu với ý nghĩa nhằm tác động dưới
bất cứ hình thức nào tới các quy định pháp luật của các Quốc gia thành viên
trong các vấn đề về quốc tịch, quyền công dân hoặc nhập quốc tịch, với điều
kiện là những quy định như vậy không mang tính chất phân biệt chống lại bất cứ
một dân tộc cụ thể nào.
4.
Những biện pháp đặc biệt được thi hành với mục tiêu duy nhất là bảo đảm sự
tiến bộ thích đáng của một số nhóm chủng tộc, sắc tộc hoặc cá nhân nhất định,
mà sự bảo vệ ấy là cần thiết để đảm bảo cho các nhóm hoặc các cá nhân đó được
hưởng thụ các quyền con người và các tự do cơ bản, sẽ không bị coi là sự phân
biệt chủng tộc; tuy nhiên, với điều kiện là những biện pháp đó cuối cùng sẽ
không dẫn tới việc duy trì những quyền riêng cho những nhóm chủng tộc khác
nhau, và những biện pháp đó sẽ phải được chấm dứt khi mục tiêu đặt ra đã đạt
được.
a.
Mỗi Quốc gia thành viên cam kết sẽ không tham dự vào hoặc tiến hành các hành
động phân biệt chủng tộc chống lại các cá nhân, nhóm người hay tổ chức nào, và
đảm bảo rằng, mọi quan chức chính quyền cũng như các cơ quan nhà nước, ở cấp độ
quốc gia và địa phương, sẽ hành động phù hợp với những nghĩa vụ này;
b.
Mỗi Quốc gia thành viên cam kết không bảo trợ, bảo vệ hoặc giúp đỡ hành động
phân biệt chủng tộc của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào;
c.
Mỗi Quốc gia thành viên sẽ có những biện pháp hữu hiệu để rà soát lại các chính
sách của chính phủ trung ương và chính quyền các địa phương và sẽ sửa đổi, hủy
bỏ hoặc vô hiệu hóa bất cứ đạo luật hay quy định nào có thể tạo ra hoặc tạo
điều kiện cho sự phân biệt chủng tộc ở bất cứ đâu;
d.
Mỗi Quốc gia thành viên sẽ ngăn cấm và xóa bỏ hành động phân biệt chủng tộc của
bất cứ cá nhân, tổ chức hoặc nhóm người nào bằng mọi biện pháp thích hợp, bao
gồm cả bằng biện pháp lập pháp nếu thấy cần thiết;
e.
Mỗi Quốc gia thành viên cam kết sẽ khuyến khích, ở nơi nào thấy phù hợp, các tổ
chức và phong trào liên kết đa chủng tộc, cũng như các biện pháp khác nhằm xóa
bỏ sự ngăn cách giữa các chủng tộc, và hạn chế bất cứ điều gì có thể làm tăng
sự phân biệt chủng tộc.
2.
Các Quốc gia thành viên, trong trường hợp cho phép, sẽ có những biện pháp đặc
biệt và cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa và những lĩnh vực
khác để đảm bảo sự phát triển thích đáng và bảo vệ một số nhóm chủng tộc hoặc
cá nhân thuộc các chủng tộc đó, với mục đích nhằm giúp họ được hưởng đầy
đủ và bình đẳng các quyền con người và tự do cơ bản. Những biện pháp này trong
mọi trường hợp không được dẫn tới việc duy trì sự bất bình đẳng hoặc các quyền
riêng cho những nhóm chủng tộc khác nhau sau khi mục tiêu đề ra đó thực hiện.
1.
Tuyên bố mọi hành động gieo rắc các ý tưởng dựa trên tính thượng đẳng về chủng
tộc hoặc sự căm thù, kích động phân biệt chủng tộc cũng như mọi hành vi bạo lực
hoặc kích động những hành vi bạo lực chống lại bất cứ chủng tộc nào hoặc nhóm
người nào khác màu da hoặc khác nguồn gốc dân tộc là tội phạm và sẽ bị pháp
luật trừng trị; đồng thời cũng tuyên bố như vậy đối với việc hỗ trợ dưới bất kỳ
hình thức nào, bao gồm sự hỗ trợ về tài chính, cho các hoạt động phân biệt
chủng tộc;
2.
Tuyên bố là bất hợp pháp và cấm những tổ chức, việc tổ chức và tất cả những
hoạt động tuyên truyền khác mà khuyến khích và kích động sự phân biệt chủng
tộc, và quy định mọi sự tham dự vào các tổ chức hoặc hoạt động như vậy sẽ bị
coi là tội phạm và sẽ bị pháp luật trừng trị;
3.
Không cho phép các nhà cầm quyền hoặc các cơ quan nhà nước, cả ở cấp quốc gia
và địa phương, khuyến khích hoặc kích động sự phân biệt chủng tộc.
1.
Quyền được đối xử bình đẳng trước các tòa án cũng như trước các cơ quan tài
phán khác;
2.
Quyền an ninh cá nhân và được nhà nước bảo vệ chống lại những hành vi bạo lực
hoặc gây xâm hại đến thân thể do các nhân viên nhà nước gây ra hoặc do bất cứ
cá nhân, nhóm người hoặc cơ quan nào gây ra;
3.
Những quyền về chính trị, đặc biệt là quyền về bầu cử - được đi bầu và được ứng
cử - trên cơ sở phổ thông đầu phiếu, quyền được tham gia vào chính phủ cũng như
các hoạt động công cộng khác ở mọi cấp và được bình đẳng trong tiếp cận với các
dịch vụ Công cộng;
4.
Các quyền dân sự khác, đặc biệt là:
a.
Quyền tự do đi lại và cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia;
b.
Quyền được xuất cảnh khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả nước mình, và được quay
trở lại nước mình;
c.
Quyền có quốc tịch;
d.
Quyền được kết hôn và được tự do lựa chọn người phối ngẫu;
e.
Quyền sở hữu tài sản riêng cũng như sở hữu chung với những người khác;
f.
Quyền thừa kế;
g.
Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo;
h.
Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí;
i.
Quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình;
5.
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, cụ thể là:
a.
Quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm và được có các điều kiện làm
việc công bằng, thuận lợi, được bảo vệ chống thất nghiệp, được trả lương bình
đẳng cho những công việc tương đương, được trả công công bằng và thích đáng;
b.
Quyền được thành lập và tham gia các nghiệp đoàn;
c.
Quyền có nhà ở;
d.
Quyền được tiếp cận với y tế công cộng, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội và
dịch vụ xã hội;
e.
Quyền được giáo dục và đào tạo;
f.
Quyền được tham gia bình đẳng vào các hoạt động văn hóa.
6.
Quyền được tiếp cận với bất kỳ địa điểm và dịch vụ công cộng nào, ví dụ như các
phương tiện giao thông vận tải, khách sạn, nhà hàng, các quán giải khát, nhà
hát, công viên.
Các Quốc gia thành viên phải đảm bảo cho tất cả mọi người thuộc
thẩm quyền tài phán của mình sự bảo vệ và các giải
pháp khắc phục, bồi thường hiệu quả, thông qua các tòa án và cơ quan tài phán
quốc gia có thẩm quyền, để chống lại bất cứ hành động phân biệt chủng tộc nào
trái với Công ước này mà vi phạm các quyền con người và tự do cơ bản của họ, cũng
như quyền được khắc phục và bồi thường xứng đáng cho những thiệt hại do hành vi
phân biệt chủng tộc đó gây ra, thông qua các tòa án và các cơ quan tài phán kể trên.
2. Các
thành viên của Ủy ban sẽ được bầu ra bằng phiếu kín từ danh sách những ứng cử
viên do các Quốc gia thành viên giới thiệu. Mỗi Quốc gia thành viên có thể đề
cử một ứng cử viên là công dân của nước mình.
3. Cuộc bầu
cử đầu tiên sẽ được thực hiện sau khi Công ước này có hiệu lực 6 tháng. Ít nhất
3 tháng trước ngày tiến hành mỗi cuộc bầu cử. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc phải có
thư gửi cho các Quốc gia thành viên mời họ đề cử ứng cử viên trong vòng 2
tháng. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuẩn bị một danh sách theo thứ tự chữ cái
tên của những người được đề cử, nêu rõ họ được Quốc gia thành viên nào đề cử và
gửi danh sách này cho các Quốc gia thành viên.
4. Việc bầu
cử các thành viên của Ủy ban sẽ được thực hiện tại phiên họp toàn thể của các
Quốc gia thành viên do Tổng Thư ký triệu tập tại trụ sở chính của Liên Hợp
Quốc. Trong cuộc họp này, ít nhất phải có 2/3 số Quốc gia thành viên tham dự.
Những người được bầu vào Ủy ban phải là những ứng cử viên có số phiếu bầu cao
nhất và phải đạt đa số phiếu tuyệt đối trong tổng số phiếu bầu do đại diện các
Quốc gia thành viên tham dự cuộc họp bầu ra.
5. a. Các
thành viên của Ủy ban sẽ phục vụ với nhiệm kỳ 4 năm. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 9
thành viên được bầu trong cuộc bầu cử đầu tiên sẽ chấm dứt sau 2 năm; ngay sau
cuộc bầu cử đầu tiên, danh sách 9 thành viên này sẽ chủ tịch Ủy ban chọn bằng
cách bốc thăm;
b. Trong
trường hợp bất chợt bị thiếu người thì Quốc gia thành viên có người thôi làm
thành viên của Ủy ban sẽ được cử người khác là công dân của nước mình thay thế,
người này phải được Ủy ban chấp nhận.
6. Các Quốc
gia thành viên sẽ chịu trách nhiệm về các chi phí cho các thành viên của Ủy ban
khi các thành viên này thực thi nhiệm vụ của Ủy ban.
a.
Trong vòng một năm sau khi Công ước này có hiệu lực với Quốc gia thành viên đó;
b.
Sau mỗi giai đoạn hai năm và bất cứ khi nào Ủy ban yêu cầu. Ủy ban cũng có thể
yêu cầu các Quốc gia thành viên cung cấp thêm các thông tin khác có liên quan.
2.
Ủy ban phải gửi báo cáo hàng năm, thông qua Tổng Thư ký, đến Đại Hội đồng Liên
Hợp Quốc về các hoạt động của mình, đồng thời có thể đưa ra những bình luận và
khuyến nghị chung trên cơ sở xem xét các báo cáo và thông tin gửi đến từ các
Quốc gia thành viên. Những bình luận và khuyến nghị chung này sẽ được trình lên
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc cùng với những bình luận của các Quốc gia thành
viên, nếu có.
1.
Ủy ban sẽ thông qua nguyên tắc thủ tục hoạt động của
mình.
2.
Ủy ban sẽ bầu ra các quan chức của mình với nhiệm kỳ 2 năm.
3.
Ban Thư ký Ủy ban sẽ do Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc chỉ định.
4.
Thông thường, các cuộc họp của Ủy ban sẽ được tổ chức tại trụ sở chính của Liên
Hợp Quốc.
2.
Nếu vấn đề đưa ra không làm cả hai bên thỏa mãn, kể cả thông qua thương lượng
song phương hoặc qua các thủ tục khác do hai bên lựa chọn; thì trong vòng 6
tháng kể từ khi quốc gia nhận được văn bản khiếu nại đầu tiên, mỗi quốc gia có
quyền trình lại vấn đề lên Ủy ban bằng cách thông báo cho Ủy ban và cho quốc
gia kia.
3.
Ủy ban sẽ xem xét vấn đề phù hợp với khoản 2 điều này, sau khi đó chắc chắn
rằng tất cả các giải pháp sẵn có trong nước đó được viện dẫn và tận dụng trong
trường hợp này, và phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế mà đã được
thừa nhận rộng rãi. Sẽ không được coi là thông lệ nếu sự áp dụng các giải pháp
này bị kéo dài mà không có lý do chính đáng.
4.
Liên quan đến mọi vấn đề được gửi đến, Ủy ban có thể yêu cầu các Quốc gia thành
viên có liên quan cung cấp thêm các thông tin cần thiết.
5.
Khi có bất kỳ vấn đề nào nảy sinh trong phạm vi điều này mà được Ủy ban xem
xét, các Quốc gia thành viên có liên quan sẽ cử một đại diện cùng tham dự vào
quá trình làm việc của Ủy ban nhưng không có quyền biểu quyết khi vấn đề còn
đang được xem xét.
b.
Nếu trong vòng 3 tháng các Quốc gia thành viên có tranh chấp không nhất trí
được với nhau về một phần hoặc toàn bộ thành phần của Tiểu ban, thì các thành
viên của Tiểu ban mà không được các quốc gia tranh chấp chấp thuận sẽ được bầu
bằng phiếu kín với đa số 2/3 trong số các thành viên của Ủy ban.
2.
Các thành viên Tiểu ban sẽ phục vụ với tư cách cá nhân. Họ không được có quốc
tịch của các Quốc gia thành viên đang tranh chấp, cũng như không được là người
có quốc tịch của một quốc gia không là thành viên của Công ước này.
3.
Tiểu ban sẽ tự chọn ra Chủ tịch Tiểu ban và thông qua những nguyên tắc thủ tục
của mình.
4.
Các cuộc họp của Tiểu ban thường được tổ chức tại trụ sở chính của Liên Hợp
Quốc hoặc ở bất cứ địa điểm thích hợp nào mà Tiểu ban xác định.
5.
Ban thư ký quy định tại khoản 3 Điều 10 Công ước này sẽ giúp Tiểu ban về mặt
hành chính trong quá trình giải quyết các tranh chấp của các Quốc gia thành
viên.
6.
Các Quốc gia thành viên có tranh chấp sẽ chia đều các chi phí cho các thành
viên của Tiểu ban, phù hợp với các dự toán do Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc quy
định.
7.
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, nếu thấy cần thiết, được phép chi trả trước những
phí tổn dành cho các thành viên của Tiểu ban, sau đó các Quốc gia thành viên có
tranh chấp phải bù lại theo khoản 6 của điều này.
8.
Các thông tin do Ủy ban thu được và đối chiếu sẽ có ích đối với Tiểu ban, Tiểu
ban cũng có thể yêu cầu các quốc gia liên quan cung cấp thêm các thông tin có
liên quan.
2.
Chủ tịch Ủy ban sẽ chuyển báo cáo này của Tiểu ban cho các Quốc gia thành viên
đang tranh chấp. Các quốc gia này, trong vòng 3 tháng sau khi nhận được thông
báo, sẽ phải báo cho Chủ tịch Ủy ban biết họ có chấp nhận hay không các khuyến
nghị của Tiểu ban.
3.
Sau thời gian quy định tại khoản 2 điều này, Chủ tịch Ủy ban sẽ chuyển báo cáo
của Tiểu ban cùng với tuyên bố của các Quốc gia thành viên có liên quan đến các
Quốc gia thành viên của Công ước này.
2.
Bất cứ Quốc gia thành viên nào có tuyên bố như trong khoản 1 điều này cũng có
thể thành lập hoặc chỉ định một cơ quan quốc gia có thẩm quyền nhận và xem xét
các đơn khiếu tố của các cá nhân hay của những nhóm người thuộc quyền tài phán
của Quốc gia thành viên đó, mà cho rằng họ là nạn nhân của sự vi phạm bất cứ
quyền nào trong Công ước này, và họ đã tận dụng hết các giải pháp có thể trong
quốc gia để giải quyết.
3.
Tuyên bố phù hợp với khoản 1 điều này và tên của bất cứ cơ quan nào được lập ra
hoặc được chỉ định phù hợp với khoản 2 điều này sẽ được Quốc gia thành viên có
liên quan gửi cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi
bản sao tuyên bố cho các Quốc gia thành viên khác. Quốc gia thành viên đã ra
Tuyên bố như vậy có thể rút lại tuyên bố vào bất cứ lúc nào bằng một thông báo
gửi cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, nhưng sự rút lại sẽ không làm ảnh hưởng tới
việc giải quyết những khiếu nại còn tồn lại ở Ủy ban.
4.
Sổ lưu những đơn khiếu nại sẽ do cơ quan quốc gia được thành lập hoặc chỉ định
ra cất giữ phù hợp với khoản 2 điều này, và những bản sao có chứng thực của các
đơn này sẽ được gửi và lưu giữ bởi Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, theo những kênh
thích hợp, để bảo đảm rằng nội dung các đơn khiếu nại này sẽ được giữ kín.
5.
Trong trường hợp không thỏa mãn với cách giải quyết của những cơ quan được lập
hoặc chỉ định ra như quy định trong khoản 2 điều này, bên nguyên đơn có quyền
thông báo vấn đề với Ủy ban trong vòng 6 tháng.
6.
a. Ủy ban sẽ thông báo cho Quốc gia thành viên có liên quan mọi thông tin về
các khiếu nại đó, nhưng sẽ không được tiết lộ thông tin về các cá nhân hoặc
nhóm các cá nhân có liên quan nếu như không được sự đồng ý rõ ràng của các cá
nhân hoặc nhóm đó. Ủy ban sẽ không nhận những thông tin nặc danh;
b.
Trong vòng 3 tháng kể từ khi nhận được thông tin, quốc gia có liên quan phải
trình lên Ủy ban một văn bản, trong đó giải trình về vấn đề và nêu rõ các giải
pháp, nếu có, mà quốc gia này có thể sẽ áp dụng để giải quyết vấn đề.
7.
a. Ủy ban sẽ xem xét vấn đề trên cơ sở mọi thông tin có giá trị do Quốc gia
thành viên có liên quan và do bên nguyên đơn cung cấp. Ủy ban sẽ không xem xét
bất cứ thông tin nào của bên nguyên đơn nếu không biết chắc rằng bên nguyên đơn
đó tận dụng hết mọi cơ chế sẵn có trong nước để giải quyết. Tuy nhiên, điều này
sẽ không thành nguyên tắc nếu việc áp dụng các biện pháp bị trì hoãn kéo dài mà
không có lý do thích đáng;
b.
Ủy ban sẽ gửi các bình luận hoặc kiến nghị của mình, nếu có, cho Quốc gia thành
viên có Liên quan hoặc bên nguyên đơn.
8.
Ủy ban sẽ đưa vào báo cáo hàng năm của mình tóm tắt các khiếu nại, và trong
điều kiện phù hợp, có thể đưa cả phần tóm tắt các giải trình của những Quốc gia
thành viên có Liên quan, cũng như những bình luận và khuyến nghị của Ủy ban.
9.
Ủy ban chỉ có thẩm quyền thực hiện các chức năng quy định tại điều này khi ít
nhất có 10 Quốc gia thành viên Công ước đưa ra tuyên bố như quy định trong
khoản 1 điều này.
2. a. Ủy
ban được thành lập theo khoản 1 Điều 8 Công ước này sẽ nhận và chuyển những bản
sao của các đơn khiếu nại, cùng với những bình luận và khuyến nghị có liên quan
của Ủy ban, đến các cơ quan của Liên Hợp Quốc có trách nhiệm giải quyết trực
tiếp các vấn đề có liên quan đến nguyên tắc và mục tiêu của Công ước này, theo
cơ chế giải quyết các khiếu nại của những người cư trú tại các lãnh thổ ủy trị
và các lãnh thổ quản thác, cũng như ở tất cả các lãnh thổ khác mà được đề cập
trong Nghị quyết 1514 (XV) của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc;
b. Ủy ban
sẽ nhận từ các cơ quan có thẩm quyền của Liên Hợp Quốc bản sao các báo cáo liên
quan tới các vấn đề về lập pháp, tư pháp, hành chính hoặc các biện pháp khác có
liên quan trực tiếp đến các nguyên tắc và mục tiêu của Công ước này, mà được
các cơ quan đã áp dụng trên các lãnh thổ đề cập tại tiểu mục a của khoản này,
và sẽ trình bày ý kiến cũng như các khuyến nghị với các cơ quan đó.
3. Ủy ban
cũng sẽ đưa vào báo cáo của mình gửi lên Đại Hội đồng phần tóm tắt các đơn
khiếu nại cũng như các báo cáo mà Ủy ban đã nhận từ các cơ quan của Liên Hợp
Quốc, cùng với những bình luận và khuyến nghị của Ủy ban liên quan đến các báo
cáo và đơn khiếu nại đó.
4. Ủy ban
sẽ yêu cầu Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc cung cấp những thông tin Liên quan đến các
mục tiêu của Công ước mà hữu ích với Ủy ban, mà liên quan đến các lãnh thổ đề
cập tại điểm 2a của điều này.
2.
Công ước này phải được phê chuẩn, văn bản phê chuẩn sẽ được Tổng Thư ký Liên
Hợp Quốc lưu chiểu.
1.
Công ước này để ngỏ cho bất cứ quốc gia nào được đề cập
tại khoản 1 Điều 17 gia nhập.
2.
Việc gia nhập sẽ có hiệu lực khi văn bản gia nhập được Tổng Thư ký Liên Hợp
Quốc lưu chiểu.
2.
Với mỗi quốc gia phê chuẩn Công ước này hoặc gia nhập Công ước sau khi văn bản
phê chuẩn hoặc văn bản gia nhập thứ 27 được lưu chiểu thì Công ước này sẽ có
hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày lưu chiểu văn bản phê chuẩn hoặc văn bản gia
nhập của quốc gia đó.
2.
Sự bảo lưu không thích hợp với mục tiêu và mục đích của Công ước này, cũng như
những bảo lưu mà tác động của nó làm hạn chế công việc của bất cứ cơ quan nào
được lập ra bởi Công ước này, sẽ không được chấp nhận. Một sự bảo lưu sẽ được
coi là không thích hợp hoặc bị coi là cản trở các cơ quan được lập ra bởi công
ước nếu bị ít nhất 2/3 số Quốc gia thành viên của Công ước này phản đối.
3.
Một nước thành viên có thể rút lại sự bảo lưu bất cứ lúc nào bằng cách thông
báo cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc. Sự rút lại này sẽ có hiệu lực vào ngày Tổng
Thư ký Liên Hợp Quốc nhận được thông báo đó.
2.
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc sẽ quyết định các bước, nếu cần thiết, để thực hiện
các yêu cầu này.
1.
Việc ký, phê chuẩn, và gia nhập theo các Điều 17 và 18;
2.
Ngày có hiệu lực của Công ước theo Điều 19;
3.
Các thông báo và tuyên bố nhận được theo các Điều 14, 20 và 23.
4.
Việc bãi ước theo Điều 21.
2.
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các báo cáo có chứng thực của Công ước này
cho tất cả các quốc gia đã được đề cập trong khoản 1, Điều 17 của Công ước này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét