Công ước
về An toàn Hạt nhân được thông qua ngày 17 tháng Sáu năm 1994 tại Viên. Công
ước được mở ra cho ký kết vào ngày 20 tháng Chín năm 1994 và sẽ có hiệu lực vào
ngày thứ 90 kể từ ngày Người lưu chiểu (Tổng giám đốc cơ quan) nhận được văn
kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt thứ 22, và trong số đó phải có ít nhất
văn kiện của mười bảy quốc gia có cơ sở hạt nhân đạt tới độ tới hạn ở vùng hoạt
của lò. Công ước bắt đầu có hiệu lực vào ngày 24 tháng Mười năm 1996 và đến
ngày 11 tháng Tư năm 2005, 56 quốc gia và một tổ chức khu vực (Euratom) đã gửi
văn kiện phê chuẩn.
LỜI NÓI
ĐẦU
Các bên
thành viên
i) Ý thức
được tầm quan trọng đối với cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo sử dụng nguồn
năng lượng hạt nhân phải an toàn, được quản lý chặt chẽ và hợp lý về mặt sinh
thái;
ii) Khẳng
định sự cần thiết phải tiếp tục tăng cường mức độ an toàn hạt nhân trên toàn
thế giới;
iiv) Khẳng
định rằng trách nhiệm đối với sự an toàn hạt nhân thuộc về Nhà nước nơi có công
trình hạt nhân;
iv) Mong
muốn xây dựng một nền văn hoá thực sự về an toàn hạt nhân;
v) ý thức
được rằng tai nạn xảy ra trong các công trình hạt nhân có thể có những tác động
vượt ra ngoài biên giới một quốc gia;
vi) Trên
tinh thần Công ước về bảo vệ vật chất các nguyên liệu hạt nhân (1979), Công ước
về việc thông báo nhanh các tai nạn hạt nhân (1986) và Công ước về trợ giúp khi
xảy ra tai nạn hạt nhân hay phóng xạ (1986);
vii) Khẳng
định tầm quan trọng của việc hợp tác quốc tế nhằm cải thiện an toàn hạt nhân
thông qua các cơ chế hợp tác song phương và đa phương hiện có và bằng cách xây
dựng Công ước này;
viii) Xét
rằng Công ước này chỉ đưa ra cam kết về việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản
nhằm đảm bảo an toàn đối với các Công trình hạt nhân chứ không xác định các
tiêu chí an toàn cụ thể và, về vấn đề an toàn, có những định hướng đã được
thiết lập giữa các quốc gia trên thế giới, được cập nhật thường xuyên nên có
thể cho phép xác định được các phương tiện, biện pháp hiện đại nhất để đảm bảo
được một mức độ an toàn cao;
ix) Khẳng
định sự cần thiết phải nhanh chóng tiến hành soạn thảo một điều ước quốc tế về
việc đảm bảo an toàn trong công tác quản lý chất thải phóng xạ ngay sau khi quá
trình nghiên cứu các cơ sở đảm bảo an toàn quản lý chất thải phóng xạ, hiện
đang được tiến hành, đạt được sự đồng thuận rộng rãi của cộng đồng quốc tế;
x) Xét rằng
cần tiếp tục các công trình nghiên cứu kỹ thuật về đảm an toàn cho các công
đoạn khác của chu trình nhiên liệu hạt nhân và các công trình này khi hoàn
thành có thể tạo điều kiện phát triển các văn kiện quốc tế đã hoặc sẽ được ký
kết,
Thoả thuận
những điều sau đây
MỤC TIÊU, KHÁI NIỆM VÀ PHẠM VỊ ÁP DỤNG
Công ước
này nhằm các mục tiêu sau đây:
i) Đạt được
và duy trì một mức độ an toàn hạt nhân cao trên toàn thế giới nhờ vào việc cải
thiện các biện pháp được thực hiện trong nước và việc hợp tác quốc tế và đặc
biệt là vào việc hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực an toàn hạt nhân, nếu có;
ii) Thiết
lập và duy trì các biện pháp phòng vệ hiệu quả trong các Công trình hạt nhân
chống lại các nguy cơ phóng xạ nhằm bảo vệ con người, xã hội và môi trường
trước tác hại của các tia phóng xạ phát ra từ các công trình này;
iii) Phòng
ngừa các tai nạn gây hậu quả phóng xạ và giảm nhẹ các hậu quả đó trong trường
hợp xảy ra tai nạn.
Trong Công
ước này, các thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:
i) Công
trình hạt nhân là nhà máy điện hạt nhân dân sự cố định thuộc thẩm quyền tài
phán của Bên thành viên, kể cả nơi lưu trữ, lưu chuyển, và xử lý chất phóng xạ
được đặt tại cùng địa điểm và liên quan trực tiếp đến việc khai thác nhà máy
điện hạt nhân đó. Một nhà máy như vậy sẽ không còn là Công trình hạt nhân khi
tất cả nhiên liệu phóng xạ đã được rút hẳn ra khỏi tâm lò phản ứng và được lưu
trữ an toàn theo các thủ tục đã được phê chuẩn và chương trình chấm dứt hoạt
động đã được cơ quan điều tiết phê chuẩn;
ii) Cơ
quan điều tiết là cơ quan hay các cơ quan được Bên thành viên trao cho
quyền cấp giấy phép và ban hành các quy định liên quan đến việc lựa chọn địa
điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành, khai thác hay chấm dứt hoạt động các Công
trình hạt nhân;
ii) “giấy
phép” là các phép do cơ quan điều tiết cấp cho người yêu cầu, qua đó thể
hiện trách nhiệm của cơ quan này trong việc lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây
dựng, vận hành, khai thác hay chấm dứt hoạt động các Công trình hạt nhân.
Công ước
này được áp dụng cho sự an toàn của các Công trình hạt nhân.
Điều
4. Các biện pháp thực hiện
Mỗi Bên
thành viên sẽ ban hành trong nội luật của nước mình các quy định pháp quy và
hành chính và các biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình
theo quy định tại Công ước này.
Trước ngày
tổ chức mỗi cuộc họp theo quy định tại điều 20, mỗi Bên thành viên phải nộp một
bản báo cáo về các biện pháp mình đã thực hiện để đảm bảo việc các nghĩa vụ quy
định tại Công ước này, để xem xét tại cuộc họp.
Điều
6. Các Công trình hạt nhân hiện có
Mỗi Bên
thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để cho phép tiến hành kiểm tra
sớm nhất có thể sự an toàn của các Công trình hạt nhân hiện có vào thời điểm
Công ước này có hiệu lực đối với Bên đó. Trong trường hợp cần thiết theo quy
định của Công ước này, Bên thành viên phải tiến hành khẩn cấp các biện pháp cải
tạo thích hợp nhằm tăng cường an toàn cho các Công trình hạt nhân. Nếu không
thể cải tạo an toàn thì cần phải lên kế hoạch chấm dứt hoạt động của công trình
đó ngay khi điều kiện thực tế cho phép. Khi lập kế hoạch chấm dứt hoạt động, có
thể tính đến tổng thể bối cảnh thực tế về năng lượng, các giải pháp thay thế
cũng như những tác động đối với xã hội, môi trường và kinh tế.
B–
PHÁP LUẬT VÀ CƠ QUAN ĐIỀU TIẾT
1. Mỗi Bên
thành viên thiết lập và duy trì một khuôn khổ pháp lý để quản lý vấn đề an toàn
của các Công trình hạt nhân.
2. Khuôn
khổ pháp lý đó phải quy định những vấn đề sau đây:
i) Ban hành
các quy định và quy chế quốc gia về an toàn ;
ii) Thiết
lập cơ chế cấp phép cho các Công trình hạt nhân và cấm khai thác Công trình hạt
nhân mà không có giấy phép;
iii) Thiết
lập cơ chế thanh tra và đánh giá các Công trình hạt nhân nhằm đánh giá việc
tuân thủ pháp luật và các điều kiện quy định trong giấy phép;
iv) Các
biện pháp đảm bảo pháp luật và các điều kiện quy định trong giấy phép được tuân
thủ, kể cả biện pháp tạm đình chỉ hoạt động, thay đổi hay rút giấy phép.
1. Mỗi Bên
thành viên thành lập hay chỉ định một cơ quan điều tiết. Cơ quan điều tiết phụ
trách việc áp dụng pháp luật theo quy định tại điều 7 và được trao các quyền
hạn, thẩm quyền, được cấp một nguồn kinh phí và nhân lực thích đáng để thực thi
công việc được giao.
2. Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp phù hợp để đảm bảo tách biệt thực sự chức
năng của cơ quan điều tiết và cơ quan hay tổ chức phụ trách việc phát triển hay
sử dụng năng lượng hạt nhân.
Điều
9. Trách nhiệm của người được cấp phép
Mỗi Bên
thành viên phải đảm bảo sao cho trách nhiệm hàng đầu đối với sự an toàn của một
Công trình hạt nhân phải thuộc về người được cấp giấy phép cho công trình đó và
áp dụng các biện pháp thích hợp để những người được cấp phép đảm nhận trách
nhiệm của mình.
Điều
10. Ưu tiên vấn đề an toàn
Mỗi Bên
thành viên áp dụng các biện pháp thích hợp sao cho tất cả các tổ chức có hoạt
động liên quan trực tiếp đến các Công trình hạt nhân thiết lập các chiến lược
trong đó dành ưu tiên cho vấn đề an toàn hạt nhân.
Điều
11. Nguồn kinh phí và nhân lực
1. Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp sao cho mỗi Công trình hạt nhân
được cấp một nguồn kinh phí thích đáng cho việc đảm bảo an toàn của công trình
trong suốt quá trình vận hành của công trình đó.
2. Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo có được một đội ngũ
nhân lực lành nghề, đã được đào tạo, luyện tập và bồi dưỡng đầy đủ để tiến hành
các hoạt động liên quan đến sự an toàn, được thực hiện trong hoặc cho các Công
trình hạt nhân, trong suốt quá trình hoạt động của Công trình hạt nhân đó.
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để có thể tính đến khả năng và
giới hạn hoạt động của con người trong suốt quá trình hoạt động của một Công
trình hạt nhân.
Điều
13. Bảo đảm về chất lượng
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp sao cho các chương trình bảo đảm
chất lượng được thiết lập và thực hiện nhằm đảm bảo rằng mọi quy định về các
hoạt động quan trọng đối với sự an toàn hạt nhân phải được thực hiện đầy đủ
trong suốt quá trình hoạt động của một Công trình hạt nhân.
Điều
14. Đánh giá và kiểm tra tính an toàn
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo:
i) Tiến
hành đánh giá kỹ càng và triệt để vấn đề an toàn trước khi xây dựng và cho vận
hành một Công trình hạt nhân và trong suốt quá trình hoạt động của công trình
đó. Việc đánh giá phải được thực hiện dựa trên các cơ sở vững chắc và được cập
nhật sau này, căn cứ vào kinh nghiệm khai thác và các thông tin quan trọng mới
về an toàn. Việc đánh giá phải đặt dưới sự chỉ đạo của cơ quan điều tiết;
ii) Thực
hiện việc kiểm tra thông qua phân tích, giám sát, thử nghiệm và thanh tra nhằm
đảm bảo tình trạng vật lý và việc khai thác Công trình hạt nhân phù hợp với
thiết kế ban đầu, với các quy định hiện hành của nước mình về an toàn và với
các giới hạn và điều kiện khai thác.
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo rằng, trong điều kiện
vận hành bình thường, mức độ bức xạ mà người lao động và người dân chỉ phải
chịu từ một Công trình hạt nhân được giữ ở mức thấp nhất có thể đạt được một
cách hợp lý và không ai phải chịu mức độ bức xạ vượt quá mức giới hạn theo quy
định của quốc gia.
Điều
16. Tổ chức các trường hợp khẩn cấp
1. Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo thiết lập các phương
án khẩn cấp bên trong và bên ngoài cho các Công trình hạt nhân, được tập dượt
thường xuyên, trong đó dự trù các hoạt động cần tiến hành trong trường hợp xảy
ra tình trạng khẩn cấp.
Đối với mỗi
Công trình hạt nhân mới, các phương án trên phải được lập và tập dượt cho mỗi
Công trình hạt nhân mới xây dựng, trước khi công trình đó bắt đầu vận hành trên
mức công xuất thấp đã được cơ quan điều tiết phê duyệt.
2. Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo sao cho người dân của
mình và cơ quan có thẩm quyền của các Quốc gia gần khu vực Công trình hạt nhân
được cung cấp thông tin cần thiết để triển khai các phương án và hành động can
thiệp khẩn cấp, trong trường hợp họ có khả năng bị ảnh hưởng bởi các tình trạng
phóng xạ khẩn cấp.
3. Những
Bên thành viên không có Công trình hạt nhân trên lãnh thổ của mình thực hiện
các biện pháp thích hợp nhằm xây dựng và tập dượt các phương án khẩn cấp cho
lãnh thổ của mình, trong đó dự trù các hoạt động cần tiến hành trong trường hợp
xảy ra tình trạng khẩn cấp, nếu có khả năng bị ảnh hưởng bởi các tình trạng
phóng xạ khẩn cấp từ một Công trình hạt nhân của nước láng giềng.
D–
SỰ AN TOÀN CỦA CÁC CÔNG TRÌNH HẠT NHÂN
Điều
17. Lựa chọn địa điểm xây dựng
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp cần thiết để quy định và thực hiện một thủ
tục thích hợp cho phép:
i) Đánh giá
mọi yếu tố liên quan đến địa điểm xây dựng, có khả năng ảnh hưởng đến sự an
toàn của Công trình hạt nhân trong suốt quá trình vận hành của công trình đó;
ii) Đánh
giá các tác động mà một Công trình hạt nhân đang trong quá trình nghiên cứu xây
dựng có thể gây ra đối với sự an toàn của con người, xã hội và môi trường;
iii) Đánh
giá lại tất cả các yếu tố quy định tại các điểm i) và ii), , tuỳ theo nhu cầu,
nhằm đảm bảo rằng việc xây dựng Công trình hạt nhân là có thể chấp nhận được,
xét về khía cạnh an toàn;
iv) Tham
khảo ý kiến các Bên thành viên gần khu vực dự án xây dựng Công trình hạt nhân
nếu công trình đó có khả năng ảnh hưởng đến họ và, nếu được yêu cầu, phải cung
cấp cho các Quốc gia này những thông tin cần thiết cho phép họ tự xem xét, đánh
giá về tác động mà Công trình hạt nhân có thể gây ra đối với sự an toàn trên
lãnh thổ nước mình.
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo rằng:
i) Trong
quá trình thiết kế và xây dựng một Công trình hạt nhân, phải dự trù nhiều cấp
độ và phương thức bảo vệ hiệu quả (bảo vệ có chiều sâu) chống lại sự đào thải
các chất phóng xạ nhằm ngăn ngừa tai nạn và hạn chế hậu quả phóng xạ nếu xảy ra
tai nạn;
ii) Công
nghệ sử dụng trong thiết kế và xây dựng Công trình hạt nhân đã được chứng tỏ
chất lượng qua kinh nghiệm thực tế, qua thử nghiệm hoặc phân tích;
iii) Công
trình hạt nhân được thiết kế sao cho có thể vận hành an toàn, ổn định, dễ kiểm
soát, trong đó đặc biệt phải tính đến nhân tố con người và sự giao tiếp giữa
con người và máy móc.
Mỗi Bên
thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo:
i) Giấy
phép khai thác cấp lần đầu cho một Công trình hạt nhân phải căn cứ vào kết quả
phân tích vấn đề an toàn được tiến hành một cách hợp lý và vào một chương trình
vận hành mà kết quả cho thấy Công trình hạt nhân, trong tình trạng như đã được
xây dựng, đáp ứng được các yêu cầu về thiết kế và về an toàn;
ii) Các
giới hạn và các điều kiện khai thác, được xác định trên cơ sở phân tích vấn đề
an toàn và, thử nghiệm và kinh nghiệm vận hành trên thực tế, phải được quy định
và sửa đổi khi cần thiết nhằm giới hạn phạm vi trong đó việc khai thác được đảm
bảo an toàn.;
iii) Việc
khai thác, bảo dưỡng, kiểm tra và thử nghiệm một công trình hạt nhân phải được
đảm bảo phù hợp với các trình tự, thủ tục đã được phê chuẩn;
iv) Xác
định quy trình giải quyết các sự cố có thể dự tính trước trong quá trình vận
hành và các tai nạn;
v) Đảm bảo
sẵn sàng cung cấp sự hỗ trợ cần thiết về mặt kiến thức và công nghệ trong tất
cả các lĩnh vực có liên quan đến vấn đề an toàn, trong suốt quá trình vận hành
của Công trình hạt nhân;
vi) Người
được cấp giấy phép phải thông báo kịp thời các biến cố đáng kể đối với vấn đề
an toàn cho cơ quan điều tiết;
vii) Thiết
lập các chương trình thu thập và phân tích các dữ kiện về kinh nghiệm vận hành;
đảm bảo các kết quả và kết luận thu được phải được sử dụng, thông qua các cơ
chế hiện hành để chia sẻ những kinh nghiệm quan trọng với các cơ quan quốc tế,
tổ chức hoạt động khai thác và cơ quan điều tiết;
viii) số
lượng rác thải phóng xạ sinh ra từ hoạt động của một Công trình hạt nhân phải
được giảm đến mức thấp nhất có thể, căn cứ vào phương thức đang được sử dụng,
kể cả về hoạt động và về khối lượng, và khi thực hiện các hoạt động cần thiết
để xử lý và lưu trữ tạm thời các nhiên liệu phóng xạ và chất thải có liên quan
trực tiếp đến hoạt động của công trình ngay tại địa điểm đặt Công trình hạt
nhân, thì phải tính đến việc đóng gói và việc lưu trữ vĩnh viễn.
HỘI NGHỊ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN
1. Các Bên
thành viên tham gia các cuộc họp (sau đây gọi là họp đánh giá báo cáo) để xem
xét các báo cáo được trình lên theo quy định tại điều 5 và theo trình tự, thủ
tục quy định tại điều 22.
2. Nếu
không trái với quy định tại điều 24, có thể thành lập một số tiểu ban bao gồm
đại diện của các Bên thành viên trong thời gian diễn ra các phiên họp đánh giá
báo cáo, nếu cần thiết, để xem xét những vấn đề đặc biệt được nêu ra trong các
báo cáo.
3. Mỗi Bên
thành viên có thể tranh luận về bản báo cáo của các Bên thành viên khác và yêu
cầu giải thích về những vấn đề có liên quan.
1. Một cuộc
họp trù bị giữa các Bên thành viên sẽ được tổ chức trong thời hạn sáu tháng kể
từ ngày Công ước này có hiệu lực.
2. Trong
cuộc họp trù bị, các Bên thành viên ấn định ngày tổ chức cuộc họp đánh giá báo
cáo đầu tiên. Cuộc họp đầu tiên được tổ chức trong thời gian sớm nhất có thể,
nhưng không quá 30 tháng kể từ ngày Công ước này có hiệu lực.
3. Trong
mỗi lần họp đánh giá báo cáo, các Bên thành viên sẽ ấn định ngày tổ chức cuộc
họp tiếp theo. Khoảng cách giữa hai lần họp đánh giá báo cáo không quá 3 năm.
Điều
22. Thoả thuận về trình tự, thủ tục
1. Trong
cuộc họp trù bị được tổ chức theo quy định tại điều 21, các Bên thành viên soạn
và thông qua theo nguyên tắc đồng thuận bản Quy chế về thủ tục và Quy chế tài
chính. Đặc biệt, theo trình tự quy định tại Quy chế về thủ tục, các Bên thành
viên ấn định những vấn đề sau đây:
i) Các
nguyên tắc chỉ đạo về hình thức và cơ cấu của các bản báo cáo quy định tại điều
5;
ii) Ngày
nộp báo cáo;
iii) Trình
tự, thủ tục đánh giá báo cáo
2. Trong
các lần họp đánh giá báo cáo, các Bên thành viên, tuỳ theo nhu cầu, có thể xem
xét lại các vấn đề đã được thoả thuận theo quy định tại khoản i) và ii) trên
đây và thông qua các phương án sửa đổi theo nguyên tắc đồng thuận, trừ trường
hợp trái với quy định tại Quy chế về thủ tục. Các Bên thành viên có thể sửa
đổi, bổ sung Quy chế về thủ tục và Quy chế tài chính theo phương thức đồng
thuận.
Họp bất
thường giữa các Bên thành viên được tổ chức trong các trường hợp sau đây:
i) Khi được
quyết định bởi đa số các Bên thành viên có mặt và tham gia biểu quyết trong một
lần họp, các thành viên bỏ phiếu trắng được coi là đã tham gia biểu quyết;
ii) Theo
yêu cầu bằng văn bản của một Bên thành viên, trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày
yêu cầu đó được gửi cho các Bên thành viên và Ban thư ký quy định tại điều 28
được thông báo rằng đa số các Bên thành viên đã ủng hộ yêu cầu đó.
1. Mỗi Bên
thành viên cử một người đại diện đến tham gia cuộc họp của các Bên thành viên;
mỗi Bên thành viên có thể cử một số đại biểu dự khuyết, chuyên gia và cố vấn,
nếu thấy cần thiết.
2. Các Bên
thành viên có thể đồng thuận mời bất kỳ một tổ chức liên chính phủ nào có năng
lực về những vẫn đến quy định trong Công ước đến tham dự cuộc họp hoặc một số
phiên làm việc với tư cách là quan sát viên. Các quan sát viên phải chấp nhận
trước bằng văn bản các quy định tại điều 27.
Các Bên
thành viên thông qua, theo nguyên tắc đồng thuận, và phổ biến một tài liệu
trong đó trình bày các vấn đề đã được xem xét, thảo luận và các kết luận đã
được rút ra tại cuộc họp.
1. Ngôn ngữ
sử dụng trong các cuộc họp bao gồm tiếng Anh, tiếng A-rập, tiếng Trung Quốc,
tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp và tiếng Nga, trừ trường hợp Quy chế về thủ tục
quy định khác.
2. Mỗi Bên
thành viên trình bày báo cáo theo quy định tại điều 5 bằng ngôn ngữ chính thức
của nước mình hoặc bằng một thứ tiếng duy nhất được chỉ định theo quy định của
Quy chế về thủ tục. Trong trường hợp báo cáo được trình bày bằng ngôn ngữ chính
thức của một Bên thành viên không phải là ngôn ngữ được chỉ định, Bên thành
viên đó phải cung cấp một bản dịch báo cáo bằng ngôn ngữ được chỉ định.
3. Không
trái với quy định tại khoản 2, nếu được trả kinh phí, Ban thư ký sẽ đảm nhận
việc dịch thuật các bản báo cáo mình nhận được từ bất kỳ ngôn ngữ nào khác sang
ngôn ngữ được chỉ định.
1. Các quy
định tại Công ước này không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các Bên thành
viên trong việc bảo mật thông tin theo quy định của nước mình. Theo quy định
tại điều này, khái niệm thông tin cơ bản bao gồm:
i) Thông
tin có tính chất cá nhân;
ii) Thông
tin được bảo vệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ hoặc pháp luật về
bảo mật thông tin công nghiệp, thương mại; và
iii) Thông
tin liên quan đến an ninh quốc gia hoặc đến việc bảo vệ vật chất các nguyên
liệu, công trình hạt nhân.
2. Khi một
Bên thành viên cung cấp thông tin theo quy định của Công ước này và nêu rõ là
các thông tin mà mình cung cấp được bảo vệ theo quy định tại khoản 1, các thông
tin đó sẽ chỉ được sử dụng vào đúng mục đích đã được quy định trước và tính bí
mật của thông tin phải được tôn trọng.
3. Nội dung
các cuộc thảo luận khi đánh giá báo cáo của các Bên thành viên trong mỗi lần
họp phải được giữ bí mật.
1. Cơ quan
Năng lượng nguyên tử quốc tế (sau đây gọi là Cơ quan) đảm nhận chức năng thư ký
cho các phiên họp của các Bên thành viên.
2. Ban thư
ký :
i) triệu
tập các Bên thành viên, đảm nhận công tác chuẩn bị và cung cấp dịch vụ cho các
cuộc họp;
ii) gửi cho
các Bên thành viên những thông tin mà mình nhận được hoặc thu thập được theo
quy định của Công ước này.
iii) Kinh
phí thực hiện các công việc quy định tại các điểm i) và ii) trên đây được lấy
từ ngân sách hoạt động của Cơ quan.
3. Các Bên
thành viên có thể đồng thuận yêu cầu Cơ quan cung cấp các dịch vụ khác cho các
cuộc họp của các Bên thành viên. Tuỳ theo khả năng của mình, Cơ quan có thể
cung cấp các dịch vụ này trong khuôn khổ chương trình và ngân sách hoạt động
của mình. Nếu không, Cơ quan có thể cung cấp các dịch vụ này nếu nhận được kinh
phí từ một nguồn khác.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH VÀ CÁC QUY ĐỊNH KHÁC
Trong
trường hợp có sự bất đồng giữa hai hay nhiều Bên thành viên về việc giải thích
hay áp dụng Công ước này, các Bên thành viên sẽ cho ý kiến nhằm giải quyết bất
đồng đó trong khuôn khổ một cuộc họp giữa các Bên thành viên.
Điều
30. Ký kết, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt, gia nhập
1. Công ước
này được mở cho các quốc gia ký kết tại trụ sở của Cơ quan tại thành phố Viên,
từ ngày 20-9-1994 đến khi Công ước có hiệu lực.
2. Công ước
này phải được phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt bởi các quốc gia đã ký kết.
3. Sau khi
có hiệu lực, mọi quốc gia đều có thể gia nhập Công ước này.
4.
i) Công ước
này được mở cho các tổ chức khu vực có tính chất hội nhập hay tính chất khác ký
kết và gia nhập, với điều kiện tổ chức đó phải được hình thành từ các quốc gia
có chủ quyền và có thẩm quyền đàm phán, ký kết và áp dụng điều ước quốc tế
trong các lĩnh vực có liên quan đến Công ước này.
ii) Trong
phạm vi thẩm quyền của mình, các tổ chức này tự mình thực hiện các quyền và đảm
nhận các nghĩa vụ mà Công ước này quy định cho các Bên thành viên.
iii) Khi
trở thành thành viên của Công ước này, tổ chức nói trên nộp cho người giữ lưu
chiểu quy định tại điều 34 một bản tuyên bố trong đó chỉ rõ tên các Quốc gia là
thành viên của mình, những điều khoản nào của Công ước được áp dụng đối với
mình và phạm vi thẩm quyền của mình trong các lĩnh vực được điều chỉnh bởi các
điều khoản đó.
iv) Tổ chức
nói trên không có lá phiếu riêng ngoài số lá phiếu dành cho các Quốc gia là
thành viên của mình.
5. Các văn
kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập được nộp cho người giữ lưu
chiểu.
1. Công ước
này có hiệu lực vào ngày thứ 90 sau ngày văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hay phê
duyệt thứ 22 được nộp cho người giữ lưu chiểu, với điều kiện đã có văn kiện phê
chuẩn, chấp thuận hay phê duyệt của 17 quốc gia mà mỗi quốc gia có ít nhất một
Công trình hạt nhân trong đó một lò phản ứng đã hoạt động.
2. Đối với
các Quốc gia hay tổ chức khu vực có tính chất hội nhập hay tính chất khác khi
phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập Công ước này sau ngày văn kiện
cuối cùng được nộp để thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 1, Công ước này
có hiệu lực sau 90 ngày, kể từ ngày văn kiện của Quốc gia hoặc tổ chức đó được
nộp cho người giữ lưu chiểu.
1. Các Bên
thành viên có quyền đề xuất sửa đổi, bổ sung Công ước này. Đề xuất sửa đổi, bổ
sung được xem xét trong một cuộc họp đánh giá báo cáo hoặc một cuộc họp bất
thường.
2. Nội dung
đề xuất và căn cứ đề xuất sửa đổi, bổ sung đó được nộp cho người giữ lưu chiểu
sau đó người giữ lưu chiểu gửi cho các Bên thành viên trong thời hạn sớm nhất
có thể nhưng muộn nhất là 90 ngày trước ngày diễn ra cuộc họp trong đó đề xuất
được đưa ra xem xét. Mọi nhận xét về đề xuất đều được người giữ lưu chiểu thông
báo cho các Bên thành viên.
3. Sau khi
xem xét đề xuất, các Bên thành viên quyết định có thông qua đề xuất đó theo
nguyên tắc đồng thuận hay không hoặc, nếu không đạt được sự đồng thuận, đưa đề
xuất đó ra hội nghị ngoại giao. Quyết định đưa một đề xuất sửa đổi, bổ sung
Công ước ra hội nghị ngoại giao chỉ được thông qua khi có ít nhất 2/3 trên tổng
số các Bên thành viên có mặt và có tham gia biểu quyết tại cuộc họp tán thành,
với điều kiện ít nhất một nửa số Bên thành viên có mặt vào thời điểm biểu
quyết. Các thành viên bỏ phiếu trắng được coi là đã tham gia biểu quyết.
4. Hội nghị
ngoại giao phụ trách xem xét và thông qua nội dung sửa đổi, bổ sung Công ước
được triệu tập bởi người giữ lưu chiểu và được tổ chức trong thời hạn một năm
sau khi có quyết định tổ chức hội nghị theo quy định tại khoản 3 của điều này.
Hội nghị ngoại giao sẽ cố gắng hết khả năng để nội dung sửa đổi, bổ sung được
thông qua theo nguyên tắc đồng thuận. Nếu không, sửa đổi, bổ sung có thể được
thông qua khi được 2/3 trên tổng số các Bên thành viên tán thành.
5. Nội dung
sửa đổi, bổ sung Công ước đã được thông qua theo quy định tại khoản 3 và 4 của
điều này phải được các Bên thành viên phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay
khẳng định và có hiệu lực đối với các Bên thành viên này vào ngày thứ 90 kể từ
ngày người giữ lưu chiểu nhận được văn kiện tương ứng của ít nhất ¾ Bên thành
viên. Đối với Bên thành viên phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay khẳng định
sau đó, nội dung sửa đổi bổ sung sẽ có hiệu lực đối với Bên thành viên đó vào
ngày thứ 90 sau ngày nộp văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay khẳng
định tương ứng.
1. Mỗi Bên
thành viên có thể rút khỏi Công ước này bằng cách thông báo bằng văn bản cho
người giữ lưu chiểu .
2. Quyết
định rút khỏi Công ước có hiệu lực sau 1 năm kể từ ngày người giữ lưu chiểu
nhận được văn bản thông báo rút khỏi Công ước hoặc vào bất kỳ thời điểm nào sau
đó được nêu trước trong văn bản thông báo.
1. Tổng
Giám đốc của Cơ quan Năng lượng nguyên tử là người giữ lưu chiểu Công ước này.
2. Người
giữ lưu chiểu thông báo cho các Bên thành viên về:
i) Việc ký
kết Công ước này và việc nộp các văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay
gia nhập theo quy định tại điều 30;
ii) Ngày
Công ước bắt đầu có hiệu lực theo quy định tại điều 31;
iii) Các
thông báo bãi bỏ Công ước theo quy định tại điều 33 và ngày thông báo bãi bỏ;
iv) Các dự
thảo sửa đổi, bổ sung Công ước do các Bên thành viên đề xuất, các sửa đổi, bổ
sung đã được thông qua tại hội nghị ngoại giao tương ứng hoặc tại cuộc họp của
các Bên thành viên, và ngày các sửa đổi, bổ sung đó có hiệu lực theo quy định
tại điều 32.
Bản gốc của
Công ước này được lập bằng tiếng Anh, tiếng A-rập, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây
Ban Nha, tiếng Pháp và tiếng Nga đều có giá trị pháp lý như nhau và được lưu
giữ bởi người giữ lưu chiểu. Người giữ lưu chiểu gửi bản sao chứng thực cho các
Bên thành viên
ĐỂ làm bẰng, đại diện toàn quyền của các Chính phủ ký tên
dưới đây đã ký vào Công ước này.
Làm
tại Viên, ngày 20 tháng 9 năm 1994.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét