CÔNG ƯỚC
VỀ TUỔI LAO ĐỘNG TỐI
THIỂU, 1973
(Công ước số 138 của
ILO. Việt Nam gia nhập ngày 24/6/2003).
HỘI NGHỊ TOÀN THỂ CỦA
TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ,
Được Hội đồng quản trị
của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Geneva ngày 06/7/1973, trong kỳ
họp thứ năm mươi tám;
Đã quyết
định
thông qua một số đề xuất về tuổi tối thiểu được tuyển dụng vào làm việc là vấn
đề thuộc điểm thứ tư trong chương trình nghị sự của Hội nghị;
Ghi nhận những điều khoản của
Công ước về Tuổi tối thiểu (trong các công việc công nghiệp) năm 1919, Công ước
về Tuổi tối thiểu (trong các công việc ngoài biển) năm 1920, Công ước về Tuổi
tối thiểu (trong các công việc nông nghiệp) năm 1921, Công ước về Tuổi tối
thiểu (trong các công việc dưới hầm tàu và đốt lò) năm 1921, Công ước về Tuổi
tối thiểu (trong các công việc phi công nghiệp) năm 1932, Công ước về Tuổi tối
thiểu (trong các công việc ngoài biển) (sửa đổi) năm 1936; Công ước về Tuổi tối
thiểu (trong các công việc công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937, Công ước về Tuổi
tối thiểu (trong các công việc phi công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937, Công ước về
Tuổi tối thiểu (trong công việc đánh cá) năm 1959, và Công ước về Tuổi tối
thiểu (trong các công việc dưới mặt đất) năm 1965, và
Xét rằng đã đến lúc phải xây
dựng một văn kiện quốc tế chung về vấn đề này để từng bước thay thế các văn
kiện hiện có được áp dụng trong các khu vực kinh tế nhất định, nhằm đạt được
mục tiêu hủy bỏ hoàn toàn việc sử dụng lao động trẻ em, và
Sau khi đã quyết định rằng
những đề xuất này sẽ được tập hợp dưới hình thức một Công ước quốc tế,
Thông
qua
vào ngày 26/7/1973 công ước dưới đây, gọi là Công ước về Tuổi lao động tối
thiểu, 1973.
Điều 1.
Các Quốc
gia thành viên Công ước này cam kết theo đuổi một chính sách quốc gia được xây
dựng để bảo đảm việc xóa bỏ một cách hiệu quả tình trạng lao động trẻ em và để
nâng dần độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng vào làm việc hoặc được tham gia lao
động tới độ tuổi mà thanh thiếu niên đạt được mức độ phát triển đầy đủ nhất về
thể chất và trí lực
Điều 2.
1. Các Quốc
gia thành viên Công ước này, trong bản tuyên bố kèm theo văn bản phê chuẩn Công
ước, phải nêu rõ độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng vào làm việc hoặc được tham
gia lao động trên lãnh thổ nước mình và trên những phương tiện vận tải đăng ký
ở nước mình; phù hợp với những quy định tại các Điều từ 4 đến 8 Công ước này,
không một ai ở dưới mức tuổi tối thiểu đó có thể được tuyển dụng hoặc được làm
việc trong bất cứ nghề nào.
2. Các Quốc
gia thành viên sau khi phê chuẩn Công ước này có thể có những tuyên bố mới để
thông báo cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế biết rằng nước mình đã
nâng độ tuổi lao động tối thiểu lên cao hơn so với độ tuổi trước đó đã quy
định.
3. Độ tuổi
tối thiểu nêu trong khoản 1 điều này phải không được thấp hơn độ tuổi kết thúc
chương trình giáo dục bắt buộc, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được
dưới 15 tuổi.
4. Mặc dầu
có quy định tại khoản 3 điều này, những Quốc gia thành viên mà nền kinh tế và
các điều kiện giáo dục còn kém phát triển thì sau khi tham khảo ý kiến của các
tổ chức của người sử dụng lao động và của người lao động có liên quan có thể
xác định mức tuổi lao động tối thiểu là 14 tuổi trong giai đoạn đầu.
5. Các Quốc
gia thành viên đã quy định mức tuổi lao động tối thiểu là 14 tuổi theo khoản
trên thì trong các báo cáo về việc áp dụng Công ước nộp theo quy định tại Điều
22 Điều lệ của Tổ chức Lao động quốc tế phải cho biết:
a. Lý do
của việc vẫn quy định mức tuổi như vậy; hoặc
b. Tới thời
điểm cụ thể nào họ sẽ thôi không áp dụng khoản 4 nói trên.
Điều 3.
1. Đối với
bất kỳ công việc hoặc nghề nghiệp nào mà do tính chất hoặc điều kiện tiến hành
có thể có hại cho sức khỏe, sự an toàn hoặc đạo đức của thanh thiếu niên thì
mức tuổi lao động tối thiểu không được dưới 18 tuổi.
2. Những
loại công việc hoặc nghề nghiệp nêu ở khoản 1 điều này phải được quy định trong
các luật hoặc văn bản pháp quy quốc gia, hoặc do các nhà chức trách có thẩm
quyền xác định, sau khi đã tham khảo ý kiến của các tổ chức của người sử dụng
lao động và của người lao động có liên quan.
3. Mặc dù
có quy định ở khoản 1 điều này, các luật hoặc văn bản pháp quy quốc gia hay các
nhà chức trách có thẩm quyền vẫn có thể, sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức
của người sử dụng lao động và của người lao động có liên quan, cho phép việc
tuyển dụng hoặc tham gia làm việc các thanh thiếu niên từ độ tuổi 16, với điều
kiện là sức khỏe, sự an toàn và đạo đức của họ phải được bảo vệ đầy đủ và những
thanh thiếu niên này phải được hướng dẫn hay đào tạo một cách cụ thể và thích
đáng để làm các công việc tương ứng.
Điều 4.
1. Nếu cần
thiết và sau khi đã tham khảo ý kiến các tổ chức hữu quan của người sử dụng lao
động và của người lao động, các nhà chức trách có thẩm quyền có thể không áp
dụng công ước này với một số giới hạn công việc hoặc nghề nghiệp mà việc áp
dụng công ước này cho những loại công việc hoặc nghề nghiệp đó sẽ gây ra những
khó khăn đặc biệt và quan trọng cho việc thi hành.
2. Các Quốc
gia thành viên Công ước này, trong báo cáo đầu tiên về việc áp dụng công ước
nộp theo quy định tại Điều 22 Điều lệ của Tổ chức Lao động quốc tế phải liệt kê
những loại công việc hoặc nghề nghiệp nào là đối tượng được loại ra theo khoản
1 điều này và phải giải thích rõ về việc đó; trong những báo cáo tiếp theo sẽ
phải mô tả tình hình pháp luật và thực tiễn nước mình liên quan đến những loại
công việc hoặc nghề nghiệp bị loại trừ áp dụng đó cũng như mức độ ảnh hưởng của
việc này đã xảy ra và có thể xảy ra với Công ước.
3. Những
công việc hoặc nghề nghiệp nêu ở Điều 3 Công ước sẽ không được coi là đối tượng
có thể bị loại trừ áp dụng theo quy định tại điều này.
Điều 5.
1. Những
Quốc gia thành viên mà nền kinh tế và các điều kiện quản lý hành chính còn kém
phát triển thì sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức hữu quan của người sử dụng
lao động và của người lao động có thể giới hạn phạm vi áp dụng công ước này
trong giai đoạn đầu.
2. Mọi Quốc
gia thành viên muốn áp dụng khoản 1 điều này thì trong bản tuyên bố kèm theo
văn bản phê chuẩn của mình phải ghi rõ những hoạt động kinh tế nào hoặc những
dạng nghề nghiệp nào nào sẽ áp dụng những quy định của Công ước này.
3. Phạm vi
áp dụng Công ước này ít nhất phải bao gồm: các ngành công nghiệp khai khoáng và
sản xuất vật liệu; công nghiệp chế tạo; công nghiệp xây dựng; công nghiệp điện,
khí đốt và nước; các dịch vụ vệ sinh; dịch vụ vận tải; kho bãi; thông tin liên
lạc; đồn điền và các cơ sở nông nghiệp khác mà sản phẩm chủ yếu nhằm mục đích
thương mại; song loại trừ những cơ sở sản xuất nông nghiệp mang tính chất gia
đình hoặc có quy mô nhỏ, sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở địa phương
và không thường xuyên thuê mướn lao động.
4. Bất kỳ
Quốc gia thành viên nào đã giới hạn phạm vi áp dụng Công ước theo điều này đều
phải;
a. Chỉ rõ
trong các báo cáo về việc áp dụng Công ước nộp theo quy định tại Điều 22 Điều
lệ của Tổ chức Lao động quốc tế tình hình chung ở nước mình liên quan đến thanh
thiếu niên và trẻ em được tuyển dụng hoặc tham gia làm việc trong những ngành
nghề được loại ra khỏi phạm vi áp dụng Công ước này, cũng như bất kỳ tiến trình
đã được thực hiện nhằm mở rộng việc áp dụng những quy định của Công ước;
b. Bất kỳ
lúc nào cũng có thể chính thức mở rộng phạm vi áp dụng Công ước bằng một bản
tuyên bố gửi cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế.
Điều 6.
Công ước
này không áp dụng với những hình thức lao động do trẻ em hoặc thiếu niên tiến
hành ở các trường phổ thông, các cơ sở dạy nghề hoặc đào tạo kỹ thuật hay trong
các cơ sở đào tạo khác; hoặc với những công việc do những người từ 14 tuổi trở
lên tiến hành trong các cơ sở mà những công việc đó được tiến hành theo đúng
những điều kiện mà các nhà chức trách có thẩm quyền đã quy định sau khi đã tham
khảo ý kiến các tổ chức hữu quan của người sử dụng lao động và của người lao
động, và với điều kiện những công việc đó là một bộ phận không tách rời của:
1. Một khóa
giáo dục hoặc đào tạo nghề mà do một nhà trường hay một cơ sở đào tạo nghề chịu
trách nhiệm chính;
2. Một
chương trình đào tạo nghề mà toàn bộ hay một phần thuộc về một chương trình đã
được các nhà chức trách có thẩm quyền chấp thuận;
3. Một
chương trình hướng nghiệp được xây dựng nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc lựa
chọn hay đào tạo một nghề nghiệp nhất định.
Điều 7.
1. Luật
hoặc pháp quy quốc gia có thể cho phép tuyển dụng hoặc tham gia lao động với
những người từ 13 đến 15 tuổi trong những công việc nh,ẹ mà:
a. không có
khả năng gây tổn hại đến sức khỏe hoặc sự phát triển của các em;
b. không
ảnh hưởng đến việc học tập, việc tham gia vào những chương trình hướng nghiệp
hay đào tạo nghề đã được các nhà chức trách có thẩm quyền chấp thuận, hoặc
những chương trình mà các em có khả năng tiếp thu.
2. Luật
hoặc pháp quy quốc gia có thể cho phép tuyển dụng hoặc tham gia lao động của
những người từ ít nhất từ 15 tuổi trở lên tuy chưa hoàn thành chương trình giáo
dục bắt buộc, trong các công việc thỏa mãn các điều kiện đã nêu trong các điểm
(a) và (b) khoản 1 điều này.
3. Các nhà
chức trách có thẩm quyền phải xác định những hoạt động nào mà cho phép tuyển
dụng hoặc lao động theo quy định ở các khoản 1 và 2 điều này, và phải quy định
số giờ cũng như những điều kiện cho việc tuyển dụng hoặc lao động như vậy.
4. Mặc dầu
có những quy định tại các khoản 1 và 2 điều này, Quốc gia thành viên nào đã áp
dụng những quy định tại khoản 4 Điều 2 vẫn có thể, chừng nào còn áp dụng những
quy định đó, thay thế các độ tuổi 12 và 14 cho các độ tuổi 13 và 15 đã nêu ở
khoản 1 và thay thế độ tuổi 14 cho độ tuổi 15 nêu trong khoản 2 điều này.
Điều 8.
1. Sau khi
đã tham khảo ý kiến của các tổ chức hữu quan của người sử dụng lao động và của
người lao động, các nhà chức trách có thẩm quyền có thể, như một ngoại lệ đối
với việc cấm tuyển dụng hoặc tham gia lao động nêu tại Điều 2 Công ước này, cấp
giấy phép lao động trên cơ sở các trường hợp của cá nhân, với mục đích chuẩn bị
cho các hoạt động biểu diễn nghệ thuật.
2. Giấy
phép cấp như vậy phải quy định giới hạn về thời gian và những điều kiện của
việc tuyển dụng hoặc lao động.
Điều 9.
1. Các nhà
chức trách có thẩm quyền phải tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết, kể cả
những chế tài thích đáng để bảo đảm việc tuân thủ hữu hiệu những quy định của
Công ước này.
2. Luật
hoặc pháp quy quốc gia, hoặc nhà chức trách có thẩm quyền phải xác định những
chủ thể nào có trách nhiệm tuân thủ những quy định của Công ước.
3. Luật
hoặc pháp quy quốc gia, hoặc nhà chức trách có thẩm quyền phải quy định các sổ
đăng ký hoặc các tài liệu khác mà người sử dụng lao động phải lập và xuất
trình; những sổ đăng ký hoặc tài liệu đó phải ghi rõ tên, tuổi hoặc ngày sinh
đã được chứng nhận, nếu có thể, của những người mà người sử dụng lao động đã
tuyển dụng, những người đang làm việc cho họ, và những lao động dưới 18 tuổi.
Điều 10.
1. Công ước
này sửa đổi Công ước về Tuổi tối thiểu (trong các công việc công nghiệp) năm
1919, Công ước về Tuổi tối thiểu (trong các công việc ngoài biển) năm 1920,
Công ước về Tuổi tối thiểu (trong các công việc nông nghiệp) năm 1921, Công ước
về Tuổi tối thiểu (trong các công việc dưới hầm tàu và đốt lò) năm 1921, Công
ước về Tuổi tối thiểu (trong các công việc phi công nghiệp) năm 1932, Công ước
về Tuổi tối thiểu (trong các công việc ngoài biển) (sửa đổi) năm 1936; Công ước
về Tuổi tối thiểu (trong các công việc công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937, Công
ước về Tuổi tối thiểu (trong các công việc phi công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937,
Công ước về Tuổi tối thiểu (trong công việc đánh cá) năm 1959, và Công ước về
Tuổi tối thiểu (trong các công việc dưới mặt đất) năm 1965, theo những điều
kiện dưới đây.
2. Việc
công ước này có hiệu lực sẽ không cản trở việc phê chuẩn Công ước về Tuổi tối
thiểu (các công việc ngoài biển) (sửa đổi) năm 1936; Công ước về Tuổi tối thiểu
(các công việc công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937, Công ước về Tuổi tối thiểu (các
công việc phi công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937, Công ước về Tuổi tối thiểu (công
việc đánh cá) năm 1959, và Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc dưới mặt
đất) năm 1965.
3. Công ước
về Tuổi tối thiểu (các công việc công nghiệp) năm 1919, Công ước về Tuổi tối
thiểu (các công việc ngoài biển) năm 1920, Công ước về Tuổi tối thiểu (các công
việc nông nghiệp) năm 1921, Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc dưới hầm
tàu và đốt lò) năm 1921 sẽ đóng lại việc phê chuẩn khi tất cả các Quốc gia
thành viên tham gia các công ước đó tán thành việc đóng lại như vậy bằng cách
phê chuẩn công ước này, hoặc bằng một bản tuyên bố gửi cho Tổng giám đốc Văn
phòng Lao động quốc tế.
4. Khi
những nghĩa vụ theo Công ước này được chấp nhận:
a. bởi một
Quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc công
nghiệp) (sửa đổi) năm 1937 và đã tuyên bố theo đúng quy định ở điều 2 Công ước
này một mức tuổi lao động tối thiểu ít nhất là 15 tuổi, thì Công ước trước sẽ
đương nhiên không còn hiệu lực với Quốc gia thành viên này;
b. bởi một
Quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc phi
công nghiệp) năm 1932, thì Công ước trước sẽ đương nhiên không còn hiệu lực với
Quốc gia thành viên này;
c. bởi một
Quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về tuổi tối thiểu (các công việc phi
công nghiệp) (sửa đổi) năm 1937 và đã tuyên bố theo đúng quy định ở điều 2 Công
ước này một mức tuổi lao động tối thiểu ít nhất là 15 tuổi, thì Công ước trước
sẽ đương nhiên không còn hiệu lực với Quốc gia thành viên này;
d. bởi một
Quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về tuổi tối thiểu (các công việc ngoài
biển) (sửa đổi) năm 1936 và đã tuyên bố theo đúng quy định ở điều 2 Công ước
này một mức tuổi lao động tối thiểu ít nhất là 15 tuổi, hoặc đã xác nhận rằng
điều 3 Công ước này được áp dụng với các công việc ngoài biển, thì Công ước
trước sẽ đương nhiên không còn hiệu lực với những Quốc gia thành viên này;
e. bởi một
Quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc đánh
cá) năm 1959 và đã tuyên bố theo đúng quy định ở điều 2 Công ước này một mức
tuổi lao động tối thiểu ít nhất là 15 tuổi, hoặc đã xác nhận rằng Điều 3 Công
ước này được áp dụng với các công việc đánh cá, thì Công ước trước sẽ đương
nhiên không còn hiệu lực với những Quốc gia thành viên này;
f. bởi một
Quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc dưới
mặt đất) năm 1965 và đã tuyên bố theo đúng quy định ở điều 2 Công ước này một
mức tuổi lao động tối thiểu ít nhất là ngang với mức tuổi tối thiểu được quy
định trong Công ước năm 1965, hoặc đã xác nhận rằng độ tuổi đó được áp dụng với
các công việc dưới mặt đất theo tinh thần của điều 3 Công ước này, thì Công ước
trước sẽ đương nhiên không còn hiệu lực với những Quốc gia thành viên này;
5. Việc
chấp nhận những nghĩa vụ của công ước này sẽ dẫn đến việc bãi ước các công ước
sau, nếu và khi công ước này có hiệu lực:
a. Công ước
về Tuổi tối thiểu (các công việc công nghiệp) năm 1919, theo như điều 12 của
công ước này;
b. Công ước
về Tuổi tối thiểu (các công việc nông nghiệp) năm 1921, theo như điều 9 của
công ước này
c. Công ước
về Tuổi tối thiểu (các công việc trên biển) năm 1920, theo điều 10 của công ước
này, và Công ước về Tuổi tối thiểu (các công việc dưới hầm tàu và đốt lò) năm
1921, theo điều 12 công ước này.
Điều 11.
Các quốc
gia thông báo việc đăng ký phê chuẩn chính thức với Tổng Giám đốc Văn phòng Lao
động quốc tế.
Điều 12.
1. Công ước
này chỉ ràng buộc các Quốc gia thành viên Tổ chức Lao động quốc tế đã đăng ký
phê chuẩn với Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế.
2. Công ước
này sẽ có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày có hai Quốc gia thành viên đăng ký
phê chuẩn.
3. Sau đó,
đối với bất kỳ Quốc gia thành viên nào đăng ký phê chuẩn với Tổng Giám đốc Văn
phòng Lao động quốc tế, Công ước sẽ có hiệu lực sau 12 tháng kể từ thời điểm
Quốc gia thành viên đó đăng ký phê chuẩn.
Điều 13.
1. Mỗi Quốc
gia thành viên đã phê chuẩn Công ước này có thể tuyên bố rút khỏi Công ước sau
10 năm kể từ thời điểm Công ước này bắt đầu có hiệu lực, bằng cách thông báo
bằng văn bản cho Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế. Thông báo rút khỏi
Công ước chỉ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày quốc gia đó đăng ký rút khỏi
Công ước với Tổng giám đốc.
2. Trong
vòng một năm sau khi kết thúc thời hạn 10 năm nói trong khoản trên mà một Quốc
gia thành viên đã phê chuẩn Công ước này không thực hiện quyền rút khỏi Công
ước đã quy định tại điều này, thì sẽ bị ràng buộc trong thời hạn 10 năm tiếp
theo rồi sau đó mới được rút khỏi Công ước mỗi khi kết thúc thời hạn 10 năm
theo những quy định tại điều này.
Điều 14.
1. Tổng
giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế sẽ thông báo cho các Quốc gia thành viên
của Tổ chức Lao động quốc tế biết mọi trường hợp đăng ký phê chuẩn và rút khỏi
Công ước do các Quốc gia thành viên thông báo.
2. Khi
thông báo cho các Quốc gia thành viên Tổ chức Lao động quốc tế về việc đăng ký
phê chuẩn của Quốc gia thành viên thứ hai, Tổng Giám đốc sẽ lưu ý các Quốc gia
thành viên về thời điểm Công ước có hiệu lực.
Điều 15.
Tổng Giám
đốc Văn phòng Lao động quốc tế phải thông báo đầy đủ cho Tổng Thư ký Liên Hợp
Quốc, nhằm mục đích lưu chiểu theo Điều 102 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, về
những chi tiết của tất cả văn kiện phê chuẩn và thông báo rút khỏi Công ước
được đăng ký theo quy định của các điều khoản trên.
Điều 16.
Mỗi khi xét
thấy cần thiết, Hội đồng Quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế sẽ trình một
báo cáo về tình hình thực hiện Công ước này lên Hội nghị toàn thể của tổ chức
và sẽ xem xét có hay không cần đưa vấn đề sửa đổi một phần hay toàn bộ Công ước
này vào chương trình nghị sự của Hội nghị toàn thể.
Điều 17.
1. Nếu Hội
nghị toàn thể thông qua một công ước mới sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ Công
ước này và nếu công ước mới không quy định khác thì:
a. Việc phê
chuẩn của một Quốc gia thành viên với một Công ước mới sửa đổi Công ước này sẽ
đương nhiên dẫn đến việc lập tức rút khỏi Công ước này mà không cần theo quy
định tại Điều 13 trên đây, vào lúc Công ước sửa đổi bắt đầu có hiệu lực.
b. Kể từ
ngày Công ước mới sửa đổi bắt đầu có hiệu lực, Công ước này sẽ không mở để các
quốc gia phê chuẩn nữa.
2. Trong
mọi trường hợp, Công ước này vẫn sẽ giữ nguyên hiệu lực về mặt hình thức và nội
dung như hiện nay đối với những Quốc gia thành viên nào đã phê chuẩn Công ước
này mà không phê chuẩn Công ước sửa đổi.
Điều 18.
Cả hai bản
tiếng Anh và tiếng Pháp của Công ước này đều có giá trị như nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét