VỀ XOÁ BỎ MỌI HÌNH THỨC
PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CHỐNG LẠI PHỤ NỮ, 1979
(Được
thông qua và để mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết
34/180 ngày 18/12/1979 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.Có hiệu lực từ ngày
3/9/1981, theo điều 27 (1). Việt Nam phê chuẩn ngày 18/12/1982))
Lời mở đầu
Các quốc gia thành viên
Công ước,
Lưu ý rằng, Hiến chương Liên Hợp Quốc khẳng định niềm tin vào các quyền con người cơ
bản, vào nhân phẩm và giá trị của mỗi con người và vào các quyền bình đẳng giữa
đàn ông và phụ nữ;
Lưu ý rằng, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người khẳng định nguyên tắc không
chấp nhận sự phân biệt đối xử và tuyên bố rằng tất cả mọi người đều sinh ra tự
do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền, và rằng tất cả mọi người đều được
hưởng tất cả các quyền và tự do được ghi nhận trong Tuyên ngôn mà không có bất
kỳ sự phân biệt nào, kể cả sự phân biệt về giới tính;
Lưu ý rằng, các quốc gia thành viên hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966
có nghĩa vụ bảo đảm các quyền bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ trong việc
hưởng thụ tất cả các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội vào văn hóa.
Xem xét những Công ước quốc tế đó được ký dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc và các
tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc nhằm thúc đẩy sự bình đẳng về các quyền
giữa nam giới và phụ nữ;
Đồng thời lưu ý đến các nghị quyết, tuyên bố, khuyến nghị do Liên Hợp Quốc và các tổ chức
chuyên mụn của Liên Hợp Quốc thông qua nhằm thúc đẩy sự bình đẳng về các quyền
giữa nam giới và phụ nữ;
Tuy nhiên, lo ngại
rằng, dự đã có những văn kiện kể trên, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
vẫn đang tồn tại ở rất nhiều nơi;
Nhắc lại rằng, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vi phạm các nguyên tắc bình đẳng về
các quyền và tôn trọng nhân phẩm, là một trở ngại với sự tham gia của phụ nữ,
trên cơ sở bình đẳng với đàn ông, vào đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội và
chính trị của quốc gia họ, làm ảnh hưởng tới sự thịnh vượng của xã hội và
gia đình, và gây nhiều khó khăn cho sự phát triển đầy đủ các khả năng tiềm tàng
của phụ nữ trong việc phục vụ đất nước và loài người;
Lo ngại rằng, trong những hoàn cảnh nghèo khổ, phụ nữ là những người có ít cơ hội nhất
trong việc hưởng lương thực, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, các cơ hội
về việc làm và các nhu cầu khác;
Tin tưởng rằng, việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới dựa trên sự Công bằng và
Công lý sẽ góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy thực hiện bình đẳng giữa nam giới
và phụ nữ;
Nhấn mạnh rằng, việc xóa bỏ chủ nghĩa a-pác-thai, tất cả các hình thức phân biệt chủng
tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, sự xâm
lược, chiếm đóng, thống trị và can thiệp của nước ngoài vào Công việc nội bộ
của các nước là thiết yếu để bảo đảm sự hưởng thụ đầy đủ các quyền của cả nam
giới và phụ nữ;
Khẳng định rằng, việc củng cố hoà bình và an ninh quốc tế, giảm căng thẳng quốc tế, sự hợp
tác giữa tất cả các quốc gia không phân biệt chế độ kinh tế, xã hội, việc giải
trừ quân bị toàn diện toàn diện và triệt để, đặc biệt đối với vũ khí hạt nhân
dưới sự kiểm soát quốc tế chặt chẽ và có hiệu quả, việc khẳng định các nguyên
tắc công bằng, bình đẳng và cùng có lợi trong quan hệ giữa các nước, việc thực
hiện quyền tự quyết và độc lập của các dân tộc còn đang phải sống dưới ách đô
hộ của chủ nghĩa thực dân và dưới sự chiếm đóng của nước ngoài cũng như việc
tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, sẽ thúc đẩy sự phát
triển và tiến bộ xã hội, và do vậy, sẽ góp phần đạt được sự bình đẳng hoàn toàn
giữa nam giới và phụ nữ;
Tin tưởng rằng, sự phát triển đầy đủ và toàn diện của một quốc gia, sự giàu mạnh của thế
giới và sự nghiệp hoà bình đòi hỏi sự tham gia tối đa của phụ nữ vào tất cả các
lĩnh vực, trên cơ sở bình đẳng với nam giới;
Ghi nhớ sự đóng góp lớn lao của phụ nữ vào hạnh phúc gia đình và vào sự phát triển
của xã hội mà lâu nay chưa được công nhận đầy đủ, ghi nhớ ý nghĩa xã hội của
việc làm mẹ, và vai trò của cả bố lẫn mẹ trong gia đình và trong nuôi dạy trẻ
em; và nhận thức rằng, vai trò của phụ nữ trong việc sinh đẻ không thể được
viện dẫn làm cơ sở cho sự phân biệt đối xử, và rằng, việc nuôi dạy trẻ em đòi
hỏi có sự chia sẻ trách nhiệm giữa đàn ông và phụ nữ và xã hội nói chung;
Nhận thức rằng, một sự thay đổi về vai trò truyền thống của nam giới cũng như của phụ nữ
trong xã hội và trong gia đình là cần thiết để đạt được sự bình đẳng đầy đủ
giữa nam giới và phụ nữ;
Quyết tâm thực hiện các nguyên tắc đề ra trong Tuyên bố về xoá bỏ sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ, và nhằm mục đích đó, thông qua các biện pháp cần thiết để
xoá bỏ tất cả những sự phân biệt đối xử như vậy dưới tất cả những hình thức và
biểu hiện của chúng.
Đó thoả thuận như sau:
a) Thể hiện nguyên tắc
bình đẳng nam nữ vào hiến pháp nước mình, hoặc vào các văn bản pháp luật thích
hợp khác, nếu như việc này chưa được thực hiện, và bảo đảm, thông qua pháp luật
và các biện pháp khác, việc thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế;
b) Thông qua các biện pháp
pháp lý và các biện pháp thích hợp khác, kể cả việc trừng phạt trong những
trường hợp cần thiết, nhằm ngăn cấm tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ;
c) Thiết lập sự bảo vệ về
mặt luật pháp các quyền của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng với nam giới và đảm bảo
bảo vệ phụ nữ một cách có hiệu quả chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử
nào thông qua các Tòa án quốc gia có thẩm quyền và các thiết chế công cộng
khác;
d) Kiềm chế tham gia bất
kỳ hành động hoặc hoạt động nào có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
và bảo đảm rằng các giới chức và cơ quan chính quyền sẽ hành động phù hợp
với nghĩa vụ này;
e) Thực hiện tất cả các
biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ do bất kỳ
cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nào tiến hành;
f) Thực hiện tất cả các
biện pháp thích hợp, kể cả về mặt pháp lý, nhằm sửa đổi hoặc xoá bỏ các luật và
văn bản pháp luật hiện hành, các tập quán và phong tục tạo nên sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ;
g) Hủy bỏ tất cả quy định
hình sự quốc gia mà tạo nên sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.
2. Việc các quốc gia thành
viên Công ước thông qua những biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ thiên chức làm mẹ,
kể cả các biện pháp đã định nghĩa trong Công ước này, sẽ không bị coi là phân
biệt đối xử.
Các
quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để:
a) Sửa đổi các khuôn mẫu
văn hóa - xã hội về hành vi của nam giới và phụ nữ, nhằm đạt được việc xoá bỏ
những thành kiến, phong tục tập quán và tất cả những hành động khác mà dựa trên
tư tưởng cho giới này là hơn, cho giới kia là kém, hoặc dựa trên nhận thức mang
tính rập khuôn về vai trò của nam giới và phụ nữ.
b) Để bảo đảm rằng
giáo dục về gia đình bao gồm một sự hiểu biết phù hợp về tính chất xã hội của
chức năng làm mẹ và công nhận trách nhiệm chung của cả cha và mẹ đối với sự
trưởng thành và phát triển của trẻ em con cái họ. Cần phổ biến nhận thức rằng
trong tất cả các trường hợp, lợi ích của trẻ em cần phải đặt lên hàng đầu.
a) Bỏ phiếu trong tất cả
các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân, và ứng cử vào tất cả các cơ quan mà áp dụng
chế độ tuyển cử công khai:
b) Tham gia vào việc xây
dựng và thực hiện các chính sách của chính phủ, giữ các chức vụ trong các cơ
quan công cộng và thực hiện tất cả chức năng công cộng ở mọi cấp chính quyền;
c) Tham gia các tổ chức và
hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống công cộng và chính trị của đất
nước.
2. Các quốc gia thành viên
Công ước phải bảo đảm cho phụ nữ các quyền bình đẳng với nam giới trong các vấn
đề liên quan đến quốc tịch của con cái họ.
a) Những điều kiện như
nhau trong giáo dục hướng nghiệp, học nghề, tiếp cận với các hoạt động
nghiên cứu và đạt được bằng cấp ở các cơ sở giáo dục thuộc những tất cả các
loại hình khác nhau, ở vùng nông thôn cũng như thành thị; sự bình đẳng này phải
được bảo đảm từ giai đoạn giáo dục mẫu giáo, phổ thông, đào tạo kỹ thuật,
chuyên môn, kể cả đào tạo kỹ thuật bậc cao, cũng như tất cả các loại hình đào
tạo nghề;
b) Có những chương trình
giảng dạy và thi cử như nhau, các giáo viên với trình độ chuyên môn tương
đương, cơ sở vật chất và trang bị của trường học có chất lượng tương đương;
c) Xóa bỏ bất kỳ quan niệm
rập khuôn nào về vai trò của nam giới và phụ nữ ở tất cả các cấp và trong tất
cả các hình thức giáo dục, bằng cách khuyến khích hình thức giáo dục chung cho
cả học sinh nam nữ và các hình thức giáo dục khác mà có tác dụng đạt tới mục
tiêu này, đặc biệt là bằng cách sửa lại các sách giáo khoa, chương trình học
tập, và điều chỉnh các phương pháp giảng dạy;
d) Nam giới và phụ nữ có
những cơ hội như nhau về học bổng và các trợ cấp học tập khác;
e) Phụ nữ được tạo những
cơ hội như nam giới trong việc tham gia các chương trình giáo dục thường xuyên,
kể cả các chương trình xóa mù chữ chức năng cho người lớn, đặc biệt là những
chương trình nhằm thu hẹp trong thời gian ngắn nhất có thể bất kỳ khoảng cách
nào về giáo dục giữa nam giới và phụ nữ;
f) Giảm tỷ lệ nữ sinh bỏ
học và tổ chức các chương trình dành cho những phụ nữ và trẻ em gỏi đó phải bỏ
học;
g) Đảm bảo cơ hội bình
đẳng trong việc tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục thể chất và các
hoạt động thể thao;
h) Bình đẳng trong việc
tiếp cận với những thông tin giáo dục riêng biệt về đảm bảo sức khỏe và hạnh
phúc gia đình, kể cả những thông tin và tư vấn về kế hoạch hóa gia đình.
a) Quyền được làm việc,
một quyền không thể chuyển nhượng của tất cả mọi người;
b) Quyền được hưởng các cơ
hội có việc làm như nhau, kể cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi
tuyển dụng;
c) Quyền tự do lựa chọn
ngành nghề và việc làm, quyền thăng chức, an ninh việc làm, tất cả các phúc lợi
và điều kiện dịch vụ, quyền được đào tạo nghề và được đào tạo lại, kể cả thực
tập nghề, đào tạo nâng cao và đào tạo định kỳ;
d) Quyền được trả thù lao
bình đẳng, kể cả trong việc hưởng các phúc lợi, được trả lương như nhau khi làm
những Công việc có giá trị ngang nhau, cũng như được đối xử như nhau trong việc
đánh giá chất lượng công việc;
e) Quyền được hưởng an
sinh xã hội, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn
tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác, cũng như quyền được
nghỉ phép có hưởng lương;
f) Quyền được bảo vệ sức
khỏe và an toàn lao động, kể cả bảo vệ chức năng sinh đẻ.
2. Nhằm ngăn chặn sự phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ với lý do hôn nhân hay sinh đẻ, để đảm bảo một
cách hiệu quả quyền về việc làm cho phụ nữ, các quốc gia thành viên Công ước
phải áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm:
a) Cấm những hành động kỷ
luật, sa thải phụ nữ với lý do có thai hay nghỉ đẻ, và có sự phân biệt đối xử
trong việc sa thải phụ nữ vỡ lý do hôn nhân;
b) Áp dụng chế độ nghỉ đẻ
vẫn hưởng lương hoặc được hưởng các phúc lợi xã hội tương đương mà không bị mất
việc làm cũ, mất thâm niên, hay các phụ cấp xã hội;
c) Khuyến khích việc cung
cấp những dịch vụ xã hội cần thiết hỗ trợ cho các bậc cha mẹ để giúp họ có thể
kết hợp các nghĩa vụ gia đình với trách nhiệm Công tác và tham gia các hoạt
động công cộng, cụ thể bằng cách thúc đẩy việc thiết lập và sự phát triển của
hệ thống các cơ sở chăm sóc trẻ em;
d) Đảm bảo sự bảo vệ đặc
biệt đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai trong những loại công việc đã được
chứng minh là có hại cho họ.
e) Các quy định pháp luật
về bảo vệ phụ nữ liên quan đến những vấn đề được đề cập trong điều này phải
được định kỳ xem xét lại, đối chiếu với những tiến bộ mới của khoa học và kỹ
thuật, để sửa đổi, hủy bỏ hoặc mở rộng nếu cần thiết.
2. Ngoài những quy định
trong khoản 1 điều này, các quốc gia thành viên Công ước phải đảm bảo cho phụ
nữ các dịch vụ thích hợp liên quan đến việc thai nghén, sinh đẻ và thời gian
sau khi đẻ, cung cấp các dịch vụ không phải trả tiền nếu cần thiết, đảm bảo cho
phụ nữ có đầy đủ dinh dưỡng trong thời gian mang thai và cho con bú.
a) Quyền được hưởng trợ
cấp gia đình;
b) Quyền vay tiền của ngân
hàng, thế chấp tài sản và tham gia các hình thức tín dụng khác;
c) Quyền được tham gia các
hoạt động giải trí, thể thao và vào tất cả các khía cạnh của đời sống văn hóa.
2. Các quốc gia thành viên
Công ước phải áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ ở các vùng nông thôn để đảm bảo, trên cơ sở bình đẳng nam
nữ, việc họ tham gia phát triển nông thôn và được hưởng lợi từ sự phát triển
đó; đặc biệt, các quốc gia thành viên Công ước phải đảm bảo cho phụ nữ nông
thôn các quyền;
a) Được tham gia xây dựng
và thực hiện các kế hoạch phát triển ở tất cả các cấp;
b) Được tiếp cận với những
điều kiện chăm sóc sức khỏe thích đáng, kể cả về thông tin, tư vấn và những
dịch vụ kế hoạch hóa gia đình;
c) Được hưởng lợi ích trực
tiếp từ các chương trình an sinh xã hội;
d) Được tham gia tất cả
các loại hình đào tạo, giáo dục, kể cả chính quy và không chính quy, bao gồm
các chương trình xoá mù chữ, và ngoài những vấn đề khác, được hưởng lợi từ
những dịch vụ chung trong cộng đồng để nâng cao năng lực kỹ thuật của họ;
e) Được tổ chức các nhóm
tương trợ và các hợp tác xã của phụ nữ nhằm giúp nhau đạt được sự bình đẳng về
cơ hội kinh tế qua các việc làm công ăn lương hoặc việc làm độc lập;
f) Được tham gia tất cả
các hoạt động của cộng đồng;
g) Được tiếp cận với các
loại hình tín dụng và vay vốn trên lĩnh vực nông nghiệp, những hỗ trợ về thị
trường, kỹ thuật phù hợp và được đối xử bình đẳng trong cải cách ruộng đất, cải
cách nông nghiệp, cũng như trong các dự án quy hoạch lại đất đai;
h) Được hưởng các tiêu
chuẩn sống thích đáng, nhất là về vấn đề nhà ở, điều kiện vệ sinh, cung cấp
điện nước, thông tin liên lạc và giao thông.
2. Trong các quan hệ dân
sự, các quốc gia thành viên Công ước phải thừa nhận phụ nữ có tư cách pháp lý
giống như nam giới và những cơ hội như nhau để thực hiện tư cách đó. Cụ thể,
các quốc gia thành viên phải trao cho phụ nữ quyền bình đẳng trong việc giao
kết các hợp đồng, quản lý tài sản, và phải đối xử với họ một cách bình đẳng
trong tất cả các giai đoạn tố tụng trước các Tòa án và cơ quan tài phán.
3. Các quốc gia thành viên
Công ước nhất trí rằng, tất cả các hợp đồng và tất cả các tài liệu riêng tư
khác, dưới bất kỳ dạng nào mà có tác động pháp lý dẫn đến việc hạn chế tư cách
pháp lý của phụ nữ, sẽ bị coi là vụ giá trị và không có hiệu lực thi hành.
4. Các quốc gia thành viên
Công ước phải đảm bảo cho đàn ông và phụ nữ có những quyền pháp lý như nhau
Liên quan đến việc đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú, chỗ ở.
a) Quyền kết hôn như nhau;
b) Quyền như nhau trong
việc tự do lựa chọn người để kết hôn và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết
định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm
như nhau giữa vợ chồng trong thời gian hôn nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy
bỏ;
d) Quyền và trách nhiệm
như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất kể tình trạng hôn nhân như thế nào, về
các vấn đề liên quan đến con cái họ. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của
con cái phải được coi là điều quan trọng nhất;
e) Quyền như nhau trong
việc quyết định một cách tự do và có trách nhiệm về số con và khoảng cách giữa
các lần sinh, quyền được tiếp cận với những thông tin, giáo dục và các phương
tiện cho phép họ thực hiện các quyền này;
f) Quyền và trách nhiệm
như nhau đối trong các vấn đề về nuôi dưỡng, giám hộ, bảo trợ, ủy thác và cho
nhận con nuôi, hoặc trong những vấn đề tương tự ở những nơi mà các khái niệm
này có trong pháp luật quốc gia. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con
cái phải được coi là điều quan trọng nhất;
g) Các quyền cá nhân như
nhau giữa vợ và chồng, bao gồm quyền được lựa chọn tên họ, nghề nghiệp, việc
làm của bản thân mình;
h) Các quyền như nhau của
cả vợ và chồng đối với việc sở hữu, tiếp nhận, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và
sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải trả tiền, hay đó là tài sản có giá
trị lớn;
2. Việc hứa hôn và kết hôn
của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý, và phải tiến hành tất cả
các hành động cần thiết, kể cả lập pháp, nhằm quy định tuổi tối thiểu có thể
kết hôn và để bảo đảm việc kết hôn phải được đăng ký một cách chính thức và bắt
buộc.
2. Các ủy viên của Uỷ ban
được bầu bằng bỏ phiếu kín từ danh sách do các quốc gia thành viên Công ước đề
cử. Mỗi quốc gia thành viên Công ước có quyền đề cử một ứng cử viên trong số
các công dân của nước mình.
3. Lần bầu cử đầu tiên sẽ
được tiến hành 6 tháng sau khi Công ước có hiệu lực. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
sẽ gửi thư cho các quốc gia thành viên Công ước trước mỗi lần bầu cử ớt nhất là
3 tháng, đề nghị họ trong vũng hai tháng phải giới thiệu ứng cử viên. Tổng thư
ký Liên Hợp Quốc sẽ chuẩn bị một danh sách các ứng cử viên do các quốc gia giới
thiệu theo thứ tự chữ cái, có ghi rõ quốc gia nào chỉ định và danh sách này
được gửi cho các quốc gia thành viên Công ước.
4. Các ủy viên Uỷ ban sẽ
được bầu trong một cuộc họp các quốc gia tham gia Công ước do Tổng thư ký triệu
tập tại trụ sở Liên Hợp Quốc. Cuộc họp này phải có ớt nhất 2/3 tổng số các nước
thành viên Công ước tham gia thì mới có hiệu lực quyết định. Các ứng cử viên
trúng cử là những người được nhiều phiếu nhất và phải đạt được đa số tuyệt đối
phiếu bầu của các nước tham gia bầu cử.
5. Các ủy viên của Uỷ ban
được bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 5 trong số các ủy viên
trúng cử trong lần bầu đầu tiên sẽ kết thúc sau 2 năm. Ngay sau khi bầu cử lần
đầu, chủ tịch Uỷ ban sẽ rút thăm để xác định tên của 5 ủy viên này.
6. Năm ủy viên bổ sung sẽ
được bầu theo quy định ở các khoản 2, 3 và 4 điều 17, sau khi quốc gia thứ 35
phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước. Nhiệm kỳ của 2 trong số 5 ủy viên được bầu bổ
sung là 2 năm. Chủ tịch Uỷ ban sẽ rút thăm để xác định tên của 2 ủy viên này.
7. Trong trường hợp đột
xuất, khi có một uỷ viên thôi không thực hiện nhiệm vụ nữa, thì quốc gia tham
gia Công ước mà ủy viên này là công dân cần chỉ định người thay thế trong số
các Công dân của mình, với điều kiện người thay thế phải được Uỷ ban thông qua.
8. Các uỷ viên Uỷ ban sẽ
được nhận thù lao từ các nguồn của Liên Hợp Quốc, sau khi có sự chấp thuận của
Đại hội đồng và phù hợp với những điều kiện được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua. Hình thức và điều kiện trả thù lao do Đại hội đồng quy định, căn cứ
vào mức độ quan trọng của các trách nhiệm trong Uỷ ban.
9. Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc sẽ cung cấp nguồn nhân lực và phương tiện để Uỷ ban có thể hoàn thành một
cách hữu hiệu các chức năng của mình theo quy định của Công ước này.
a) Trong thời gian một năm
kể từ khi Công ước có hiệu lực đối với quốc gia;
b) Sau đó ít nhất cứ 4 năm
một lần, và ngoài ra mỗi khi được Uỷ ban yêu cầu.
2. Các báo cáo nói trên
cần chỉ rõ những yếu tố và những khú khăn làm ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành
nghĩa vụ nêu ra trong Công ước.
1.Uỷ
ban sẽ thông qua quy chế làm việc riêng của mình;
2. Uỷ ban sẽ bầu ra các
quan chức của mình với nhiệm kỳ 2 năm.
2. Các cuộc họp của Uỷ ban
thông thường được tổ chức ở trụ sở của Liên Hợp Quốc, hoặc ở bất kỳ địa điểm
thuận lợi nào do Uỷ ban quyết định.
2. Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc sẽ chuyển các báo cáo của Uỷ ban cho Uỷ ban về Địa vị của phụ nữ để tham
khảo.
a) Luật pháp của một quốc
gia thành viên Công ước, hoặc
b) Trong bất kỳ Công ước,
hiệp ước hoặc thỏa thuận quốc tế nào mà có hiệu lực pháp lý với nước đó.
1. Công
ước này sẽ để ngỏ cho tất cả các quốc gia ký.
2. Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc được giao nhiệm vụ lưu chiểu Công ước này.
3. Công ước này phải được
phê chuẩn phải được gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lưu chiểu.
4. Công ước này để ngỏ cho
tất cả các quốc gia gia nhập. Việc gia nhập được thực hiện bằng cách nộp văn
kiện xin gia nhập Công ước cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Nếu cần, Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc sẽ quyết định các biện pháp phải tiến hành trong trường hợp có đề
nghị như trên.
2. Đối với mỗi quốc gia
thành viên phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này sau khi văn kiện phê chuẩn hoặc
gia nhập thứ 20 được Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lưu chiểu, Công ước sẽ có hiệu
lực từ ngày thứ 30 kể từ ngày văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia đó
được lưu chiểu.
2. Các bảo lưu không phù
hợp với mục tiêu và mục đích của Công ước này sẽ không được chấp nhận.
3. Các quốc gia thành viên
có thể rút những bảo lưu vào bất kỳ lúc nào bằng một văn bản thông báo gửi cho
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả
các quốc gia thành viên về việc đó. Thông báo rút bảo lưu này sẽ có hiệu lực từ
ngày Tổng thư ký nhận được.
2. Mọi quốc gia khi ký hay
phê chuẩn Công ước này có thể tuyên bố không bị ràng buộc bởi quy định trong
khoản 1 điều 29. Các quốc gia thành viên Công ước khác sẽ không bị ràng buộc
bởi nội dung của khoản này trong quan hệ với quốc gia đó có bảo lưu như vậy.
Bất kỳ quốc gia thành viên
nào đó có bảo lưu theo khoản 2 điều này đều có thể rút bảo lưu vào bất kỳ lúc
nào bằng cách gửi văn bản thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Để làm bằng, các đại diện
có đủ thẩm quyền có tên dưới đây đó ký vào văn bản Công ước này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét