QUỐC HỘI
Số: Không số |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1959 |
HIẾN PHÁP
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
LỜI NÓI ĐẦU
Nước Việt Nam ta là một nước thống nhất từ Lạng Sơn
đến Cà Mau.
Dân tộc Việt Nam trải qua mấy nghìn năm lịch sử là một
dân tộc lao động cần cù luôn luôn anh dũng đấu tranh xây dựng đất nước và giữ
gìn độc lập của Tổ quốc.
Trong hơn tám mươi năm nước ta bị thực dân Pháp đô hộ
và năm năm bị phát xít Nhật chiếm đóng, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đoàn
kết đấu tranh chống ách thống trị của bọn xâm lược nước ngoài để giải phóng đất
nước.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông
Dương, ngày nay là Đảng lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một
giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân
dân ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ
đại: Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập,
ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập
trước quốc dân và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam
đã xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ.
Ngày 6 tháng giêng năm 1946, toàn dân Việt Nam từ Bắc
chí Nam đã nhiệt liệt tham gia cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội.
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên ghi rõ những thắng lợi to lớn của nhân
dân ta, nêu cao ý chí của toàn thể dân tộc kiên quyết giữ gìn độc lập và thống
nhất của Tổ quốc, bảo vệ tự do và quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây
chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần
nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên
đánh giặc cứu nước. Đồng thời nhân dân ta đã tiến hành giảm tô và cải cách
ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ, đem lại ruộng đất cho dân cày. Cuộc
kháng chiến lâu dài, gian khổ và vô cùng anh dũng của nhân dân Việt Nam, được
các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc bị áp bức và nhân dân yêu chuộng hoà
trên thế giới đồng tình và ủng hộ, đã thắng lợi vẻ vang. Với chiến thắng Điện
Biên Phủ, nhân dân Việt Nam đã đánh bại đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết, hoà bình được độc lập lại ở Đông Dương trên cơ
sở công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta.
Thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam cũng là thắng
lợi chung của phong trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, của mặt trận hoà
bình thế giới và của phe xã hội chủ nghĩa.
Từ khi hoà bình lập lại, ở miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng, nhân dân đã hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân. Nhưng miền Nam
còn bị đế quốc và phong kiến thống trị, nước nhà tạm thời còn bị chia làm hai
miền.
Cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thế mới. Nhân
dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và
tiếp tục đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Mấy năm qua, nhân dân ta ở miền Bắc đã thu được nhiều
thành tích to lớn trong việc khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá. Hiện nay,
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đang tiến hành
thắng lợi.
Trong khi ấy, ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bọn tay sai
đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân ta. Chúng tăng cường binh bị,
thực hiện âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa và căn cứ quân sự chuẩn
bị chiến tranh của đế quốc Mỹ. Chúng ra sức phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, phá
hoại hoà bình, phá hoại sự nghiệp thống nhất của nước Việt Nam. Nhưng đồng bào
miền Nam luôn luôn anh dũng đấu tranh, không chịu khuất phục. Nhân dân cả nước
đoàn kết một lòng, dương cao ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
kiên quyết tiến lên giành lấy thắng lợi cuối cùng. Sự nghiệp hoà bình, thống
nhất Tổ quốc nhất định sẽ thành công.
Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta cần sửa
đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.
Hiến pháp mới ghi rõ những thắng lợi cách mạng to lớn
đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta
trong giai đoạn mới.
Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên
nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp mới quy
định chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng giúp
nhau giữa các dân tộc trong nước, bảo đảm đưa miền Bắc nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân,
xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất
nước nhà.
Hiến pháp mới quy định trách nhiệm và quyền hạn của
các cơ quan Nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức
sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất
và bảo vệ Tổ quốc.
Hiến pháp mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến
pháp mới là sức mạnh động viên nhân dân cả nước ta phấn khởi tiến lên giành
những thắng lợi mới. Nhân dân ta quyết phát huy hơn nữa tinh thần yêu nước,
truyền thống đoàn kết, chí khí đấu tranh và nhiệt tình lao động. Nhân dân ta
quyết tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em trong phe xã
hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, tăng cường đoàn kết với nhân dân các
nước Á - Phi và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng lao động Việt Nam,
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta
đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được
những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
thực hiện thống nhất nước nhà. Nhân dân ta nhất định xây dựng thành công một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần
xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hoà bình ở Đông Nam châu á và thế giới.
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HOÀ
Đất nước Việt Nam là một khối
Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt.
Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn
kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị
nghiêm cấm.
Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục
tập quán, dùng tiếng nói chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình.
Những địa phương có dân tộc thiểu số sống tập trung
thì có thể thành lập khu vực tự trị. Khu vực tự trị là bộ phận không thể tách
rời được của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến
kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà
nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân.
Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung
thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng
hết sức phục vụ nhân dân.
Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Nhà nước lãnh đạo hoạt động
kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Nhà nước dựa vào các cơ quan Nhà nước, tổ chức công
đoàn, hợp tác xã và các tổ chức khác của nhân dân lao động để xây dựng và thực
hiện kế hoạch kinh tế.
Các hầm mỏ, sông ngòi, và những rừng cây, đất hoang,
tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của
toàn dân.
Kinh tế hợp tác xã thuộc
hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ
sự phát triển của kinh tế hợp tác xã.
Nhà nước ra sức hướng dẫn, giúp đỡ nông dân cải tiến
kỹ thuật canh tác, phát triển sản xuất, và khuyến khích nông dân tổ chức hợp
tác xã sản xuất, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã vay mượn theo nguyên tắc tự
nguyện.
Nhà nước ra sức hướng dẫn, giúp đỡ những người làm
nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác cải tiến cách làm ăn và
khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất và hợp tác xã mua bán theo nguyên
tắc tự nguyện.
Nhà nước ra sức hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc hoạt
động có lợi cho quốc kế dân sinh, góp phần phát triển kinh tế quốc dân phù hợp
với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích và hướng dẫn các nhà
tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công
tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Nhà nước chiếu theo pháp
luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.
Lao động là nghĩa vụ và vinh dự của người công dân.
Nhà nước khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần tích
cực trong lao động của những người lao động chân tay và lao động trí óc.
QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CƠ
BẢN CỦA CÔNG DÂN
Công dân nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật.
Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng
cử.
Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang
với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được
nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em,
bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do
cư trú và đi lại.
Nhà nước chú trọng đặc biệt
việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi
chính đáng của Việt kiều.
Không ai được lợi dụng các
quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Công dân nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà có nghĩa vụ đóng thuế theo pháp luật.
Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ
thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ
quốc.
Quốc hội là cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc
hội là bốn năm.
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ thì phải bầu
xong Quốc hội mới.
Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp xảy ra chiến tranh hoặc các trường
hợp bất thường khác, Quốc hội có thể quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình và
những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự hoạt động của Quốc hội và của đại biểu
Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải triệu tập Quốc hội mới
chậm nhất là hai tháng sau khi tuyển cử.
Khi Quốc hội họp thì bầu Chủ
tịch đoàn để điều khiển cuộc họp.
Các đạo luật phải được công
bố chậm nhất là mười lăm ngày sau khi Quốc hội đã thông qua.
Quốc hội có những quyền hạn
sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.
2- Làm pháp luật.
3- Giám sát việc thi hành Hiến pháp.
4- Bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà.
5- Theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng Chính
phủ quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.
6- Theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà quyết định cử Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc
phòng.
7- Bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
8- Bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
9- Bãi miễn Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, Thủ tướng, Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng
Chính phủ, Phó Chủ tịch và những thành viên khác của Hội đồng quốc phòng, Chánh
án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
10- Quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước.
11- Xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân
sách của Nhà nước.
12- ấn định các thứ thuế.
13- Phê chuẩn việc thành lập và bãi bỏ các Bộ và các cơ
quan ngang Bộ.
14- Phê chuẩn việc phân vạch địa giới tỉnh, khu tự trị
và thành phố trực thuộc trung ương.
15- Quyết định đại xá.
16- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình.
17- Những quyền hạn cần thiết khác do Quốc hội định.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội là
cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch,
- Các Phó Chủ tịch,
- Tổng thư ký,
- Các uỷ viên.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội có quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có
những quyền hạn sau đây:
1- Tuyên bố và chủ trì việc tuyển cử đại biểu Quốc
hội.
2- Triệu tập Quốc hội.
3- Giải thích pháp luật.
4- Ra pháp luật.
5- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
6- Giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Toà
án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
7- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết,
chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh; sửa
đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh,
khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, và giải tán các Hội đồng nhân dân
nói trên trong trường hợp các Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại đến quyền lợi
của nhân dân một cách nghiêm trọng.
8- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc
bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng
Chính phủ.
9- Bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Chánh án, thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao.
10- Bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Viện trưởng, kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
11- Quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn các đại
diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ở nước ngoài.
12- Quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp
ước ký với nước ngoài, trừ trường hợp mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét cần phải
trình Quốc hội quyết định.
13- Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những
hàm và cấp khác.
14- Quyết định đặc xá.
15- Quy định và quyết định việc tặng thưởng huân
chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước.
16- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định
việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp nước nhà bị xâm lược.
17- Quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục
bộ.
18- Quyết định việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc
từng địa phương.
Ngoài những quyền hạn trên, Quốc hội có thể trao cho
Uỷ ban thường vụ Quốc hội những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội
làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội mới bầu xong Uỷ ban thường vụ mới.
Các đại biểu Quốc hội có
quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ.
Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trong thời hạn năm
ngày; trường hợp cần phải điều tra thì thời hạn trả lời là một tháng.
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Hội nghị chính trị đặc biệt gồm có Chủ tịch và Phó Chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ và những người hữu quan khác.
Hội nghị chính trị đặc biệt xét những vấn đề lớn của
nước nhà. Những ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà chuyển đến Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
Chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan khác để thảo luận và ra quyết định.
Việc tuyển cử và nhiệm kỳ của Phó Chủ tịch quy định
như việc tuyển cử và nhiệm kỳ của Chủ tịch.
Khi Chủ tịch nước việt Nam dân chủ cộng hoà khuyết thì
Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi bầu xong Chủ tịch mới.
Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Thủ tướng,
- Các Phó Thủ tướng,
- Các Bộ trưởng,
- Các Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước,
- Tổng giám đốc ngân hàng Nhà nước.
Tổ chức của Hội đồng Chính phủ do luật định.
Hội đồng Chính phủ có những
quyền hạn sau đây:
1- Trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác
ra trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2- Thống nhất lãnh đạo công tác của các Bộ và các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ.
3- Thống nhất lãnh đạo công tác của Uỷ ban hành chính
các cấp.
4- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích
đáng của các Bộ, các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ; sửa đổi hoặc bãi bỏ
những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính các cấp.
5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích
đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và
đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.
6- Chấp hành kế hoạch kinh tế và ngân sách Nhà nước.
7- Quản lý nội thương và ngoại thương.
8- Quản lý công tác văn hoá, xã hội.
9- Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, duy trì trật tự công
cộng, bảo hộ quyền lợi của công dân.
10- Lãnh đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang của Nhà
nước.
11- Quản lý công tác đối ngoại.
12- Quản lý công tác dân tộc.
13- Phê chuẩn sự phân vạch địa giới của các đơn vị
hành chính dưới cấp tỉnh.
14- Thi hành lệnh động viên, lệnh giới nghiêm và mọi
biện pháp cần thiết để bảo vệ đất nước.
15- Bổ nhiệm và bãi miễn các nhân viên cơ quan Nhà
nước theo quy định của pháp luật.
Ngoài những quyền hạn trên, Quốc hội hoặc Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có thể trao cho Hội đồng Chính phủ những quyền hạn khác khi
xét thấy cần thiết.
Trong phạm vi quyền hạn của mình, trên cơ sở và để thi
hành pháp luật và các nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ,
các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ ra những thông
tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các thông tư, chỉ thị ấy.
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ
BAN HÀNH CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP
Các đơn vị hành chính trong
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc
trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn.
Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật
định.
Các đơn vị hành chính kể
trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ.
Hội đồng nhân dân các cấp là
cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu
ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội
đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương là ba năm.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân huyện, thành
phố, thị xã, xã, thị trấn, khu phố là hai năm.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân các cấp trong
khu vực tự trị do luật định.
Thể lệ tuyển cử và số đại biểu của Hội đồng nhân dân
các cấp do luật định.
Hội đồng nhân dân bầu và bãi miễn Chánh án Toà án nhân
dân cấp mình.
Uỷ ban hành chính gồm có Chủ
tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, uỷ viên thư ký và các uỷ viên.
Nhiệm kỳ của Uỷ ban hành chính theo nhiệm kỳ của Hội
đồng nhân dân đã bầu ra mình.
Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ hoặc bị giải tán,
Uỷ ban hành chính tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân mới bầu
ra Uỷ ban hành chính mới.
Tổ chức của Uỷ ban hành chính các cấp do luật định.
Uỷ ban hành chính các cấp chiếu theo quyền hạn do luật
định mà ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những quyết định, chỉ
thị ấy.
Uỷ ban hành chính các cấp có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ
những quyết định không thích đáng của các ngành công tác thuộc quyền mình và
của Uỷ ban hành chính cấp dưới.
Uỷ ban hành chính các cấp có quyền đình chỉ việc thi
hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp
và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.
Uỷ ban hành chính các cấp chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban
hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ.
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH
CHÍNH Ở CÁC KHU TỰ TRỊ
TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc
hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
Các Toà án nhân dân thực
hành chế độ thẩm phán bầu theo quy định của pháp luật.
Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là năm
năm.
Tổ chức của các Toà án nhân dân do luật định.
Khi xét xử, Toà án nhân dân
có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Việc xét xử tại các Toà án
nhân dân đều công khai, trừ những trường hợp đặc biệt do luật định.
Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm.
Toà án nhân dân tối cao là
cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các
Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự và Toà án đặc biệt.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát
quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định.
Nhiệm kỳ của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là năm năm.
Tổ chức của các Viện kiểm sát nhân dân do luật định.
Quốc kỳ nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Thủ đô nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà là Hà Nội.
Bản Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11, nhất trí thông qua trong phiên họp
ngày 31 tháng 12 năm 1959, hồi 15 giờ 50.
|
Tôn Đức Thắng (Đã
ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét