IX- MỘT SỐ QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Bộ luật hình sự dành một chương riêng quy định về chính sách và đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội vì lứa tuổi này còn bồng bột, chưa đủ khả năng để cân nhắc hành vi của mình, còn thiếu kinh nghiệm xã hội và dễ bị ảnh hưởng bởi tác động môi trường xấu bên ngòai.
A- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 58 BLHS)
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên đủ 14 tuổi trở lên phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Người chưa đủ 14 tuổi mà có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có trách nhiệm hình sự, do đó, không được truy tố, xét xử họ về hành vi đó.
Đối với người chưa thành niên đủ 14 tuổi trở lên thì luật cũng có sự phân biệt:
- Người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội nghiêm trọng do cố ý. Do đó, hành vi nguy hiểm do vô ý thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Người đủ 16 tuổi trở lên phạm tội thì phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm.
Cách tính tuổi do luật quy định là “đủ 14 tuổi”, hoặc “đủ 16 tuổi”, tức là tính theo tuổi tròn. Thí dụ: sinh ngày 1-1-1975 thì 1-1-1989 mới đủ 14 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định được chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh và nếu cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì xác định ngày sinh là 31-12-năm sinh.
B- Xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Điều 59 của Bộ luật hình sự quy định: Đối với người chưa thành niên phạm tội, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng chủ yếu những biện pháp giáo dục, phòng ngừa. Theo Điều 60 thì những biện pháp tư pháp không có tính chất hình phạt, gồm có:
- Buộc phải chịu thử thách từ 1 năm đến 2 năm, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, được giao cho chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội giám sát giáo dục.
- Đưa vào trường giáo dưỡng từ 1 năm đến 3 năm, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng, cần đưa vào tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
2. Chỉ xử phạt về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội “trong những trường hợp cần thiết, căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa” (Điều 59). Thí dụ: cướp của, giết người, hoặc đã đưa vào trường giáo dưỡng mà trốn ra, tiếp tục phạm pháp nhiều lần…
Không phạt chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn nhưng được xử nhẹ hơn người đã thành niên. Mức xử nhẹ là bao nhiêu phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân của người phạm tội và căn cứ vào Điều 64 Bộ luật hình sự để vận dụng mức phạt tù có thời hạn. Nếu điều kiện quy định hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên khi phạm tội là 20 năm tù, và đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi khi phạm tội là 15 năm tù. Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là 20 năm tù thì mức hình phạt cao nhất đối với người chưa thành niên phạm tội là không quá 12 năm tù.
Qua thực tế xét xử, nếu không có những tình tiết tăng nặng đáng chú ý thì thông thường mức hình phạt có thể là một nửa (1/2) mức hình phạt đối với người thành niên phạm tội như nhau. Không phạt tiền và các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
3. Việc bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra vẫn được thực hiện theo những hướng dẫn trước đây của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này.
(*)Xem bản “quy chế về chế độ cải tạo không giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội” ban hành kèm theo Nghị quyết số 95/HĐBT ngày 25-7-1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
(*)Xem: Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986.
(*)Xem Thông tư liên ngành số 01/TTLN 90 ngày 1-2-1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS.
(*)Điểm này nay áp dụng theo Thông tư liên ngành số 02/TTLN 90 ngày 15-2-1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ.
(**)Phần nay đã được thay thế bằng phần II Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986
- Xem phần III Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
(*)Hội đồng Nhà nước đã có giải thích trong mọi trường hợp cho hưởng án treo phải ấn định thời gian thử thách.
(*)Xem Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 2-6-1990 của TANDTC VKSNDTC - BNV - BTP hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú.
| Phạm Hưng (Đã ký) _Xem toàn bộ văn bản>>>>【Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986】 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét