|
|
Số: 36/2009/QH12 |
Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2009 |
LUẬT
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11.
Điều 1. Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ:
1. Điều 3 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 3. Đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ
1. Đối tượng quyền
tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên
quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
2. Đối tượng quyền
sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn
địa lý.
3. Đối tượng quyền
đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.”
2. Điều 4 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 4. Giải
thích từ ngữ
Trong Luật này,
các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Quyền sở hữu
trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm
quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng.
2. Quyền tác
giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc
sở hữu.
3. Quyền liên
quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
4. Quyền sở hữu
công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh.
5. Quyền đối
với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng
mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
6. Chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá
nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ.
7. Tác phẩm là
sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng
bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.
8. Tác phẩm
phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm
phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.
9. Tác phẩm,
bản ghi âm, ghi hình đã công bố là tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã được
phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên
quan để phổ biến đến công chúng với một số lượng bản sao hợp lý.
10. Sao chép là
việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng
bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình
thức điện tử.
11. Phát sóng
là việc truyền âm thanh hoặc hình ảnh hoặc cả âm thanh và hình ảnh của tác phẩm,
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đến công chúng
bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả việc truyền qua vệ tinh để
công chúng có thể tiếp nhận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa
chọn.
12. Sáng chế
là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn
đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
13. Kiểu dáng
công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình
khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
14. Mạch tích
hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó
các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên
kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện
chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử.
15. Thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn (sau đây gọi là thiết kế bố trí) là cấu trúc
không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp
bán dẫn.
16. Nhãn hiệu
là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác
nhau.
17. Nhãn hiệu
tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên
của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá
nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
18. Nhãn hiệu
chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân
khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các
đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách
thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính
khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.
19. Nhãn hiệu
liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự
nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan
với nhau.
20. Nhãn hiệu
nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
21. Tên thương
mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân
biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng
lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Khu vực kinh doanh
quy định tại khoản này là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng,
khách hàng hoặc có danh tiếng.
22. Chỉ dẫn địa
lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
23. Bí mật kinh
doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa
được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
24. Giống cây
trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp
nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận
biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các
kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng
sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được.
25. Văn bằng
bảo hộ là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá
nhân nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; quyền đối với giống cây
trồng.
26. Vật liệu
nhân giống là cây hoặc bộ phận của cây có khả năng phát triển thành một cây
mới dùng để nhân giống hoặc để gieo trồng.
27. Vật liệu
thu hoạch là cây hoặc bộ phận của cây thu được từ việc gieo trồng vật liệu
nhân giống.”
3. Điều 7 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 7. Giới hạn
quyền sở hữu trí tuệ
1. Chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo
hộ theo quy định của Luật này.
2. Việc thực hiện
quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Trong trường
hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của
Nhà nước, xã hội quy định tại Luật này, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền
của mình với những điều kiện phù hợp; việc giới hạn quyền đối với sáng chế
thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
4. Điều 8 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 8. Chính
sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ
1. Công nhận và
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi
ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các
đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho
quốc phòng, an ninh.
2. Khuyến khích,
thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ nhằm góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
3. Hỗ trợ tài
chính cho việc nhận chuyển giao, khai thác quyền sở hữu trí tuệ phục vụ lợi ích
công cộng; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ cho
hoạt động sáng tạo và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
4. Ưu tiên đầu tư
cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng
liên quan làm công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và nghiên cứu, ứng dụng khoa
học - kỹ thuật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
5. Huy động các
nguồn lực của xã hội đầu tư nâng cao năng lực hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.”
5. Điều 14 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 14. Các loại
hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn
học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới
dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài
phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo
chí; d) Tác phẩm âm nhạc; đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện
ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác
phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo
hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp
ảnh;
i) Tác phẩm kiến
trúc;
k) Bản họa đồ, sơ
đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình
máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái
sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương
hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được
bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng
tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người
khác.
4. Chính phủ hướng
dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này.”
6. Điều 25 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 25. Các
trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao
1. Các trường hợp
sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút,
thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một
bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
b) Trích dẫn hợp
lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác
phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác
phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong
chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác
phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục
đích thương mại;
đ) Sao chép tác
phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác
phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn
hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi
hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh,
truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được
trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm
sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản
sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
2. Tổ chức, cá
nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng
đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác phẩm.
3. Các quy định
tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc,
tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.”
7. Điều 26 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 26. Các
trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao
1. Tổ chức phát
sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu
tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận
bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù
lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận;
trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc
khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.
Tổ chức phát sóng
sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không
thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định
của Chính phủ.
2. Tổ chức, cá
nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng
đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác phẩm.
3. Việc sử dụng
tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối
với tác phẩm điện ảnh.”
8. Điều 27 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 27. Thời hạn
bảo hộ quyền tác giả
1. Quyền nhân thân
quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn.
2. Quyền nhân thân
quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này
có thời hạn bảo hộ như sau:
a) Tác phẩm điện
ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là
bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác
phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn
hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một
trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi
các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định
tại điểm b khoản này;
b) Tác phẩm không
thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc
đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có
đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác
giả cuối cùng chết;
c) Thời hạn bảo hộ
quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31
tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.”
9. Điều 30 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 30. Quyền
của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
1. Nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện
các quyền sau đây:
a) Sao chép trực
tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình;
b) Nhập khẩu, phân
phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua
hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà
công chúng có thể tiếp cận được.
2. Nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình của
mình được phân phối đến công chúng.”
10. Điều 33
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 33. Các
trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao
1. Tổ chức, cá
nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục
đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ
hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo
thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không
thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại
Toà án theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân
sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích
thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới
bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù
lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản
ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính
phủ.
2. Tổ chức, cá
nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh doanh, thương
mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận
cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không thoả thuận
được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo
quy định của pháp luật.
3. Tổ chức, cá
nhân sử dụng quyền quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được làm ảnh
hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng và không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.”
11. Điều 41
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 41. Chủ sở
hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền
1. Tổ chức, cá
nhân được chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại Điều 20
và khoản 3 Điều 19 của Luật này theo thoả thuận trong hợp đồng là chủ sở hữu
quyền tác giả.
2. Tổ chức, cá
nhân đang quản lý tác phẩm khuyết danh được hưởng quyền của chủ sở hữu cho đến
khi danh tính của tác giả được xác định.”
12. Điều 42
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 42. Chủ sở
hữu quyền tác giả là Nhà nước
1. Nhà nước là chủ
sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm sau đây:
a) Tác phẩm khuyết
danh, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật này;
b) Tác phẩm còn
trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế,
người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản;
c) Tác phẩm được
chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước.
2. Chính phủ quy
định cụ thể việc sử dụng tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước.”
13. Điều 87
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 87. Quyền
đăng ký nhãn hiệu
1. Tổ chức, cá
nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch vụ
do mình cung cấp.
2. Tổ chức, cá
nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản
phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người
sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký
đó.
3. Tổ chức tập thể
được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên
của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ
nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập
thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó;
đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của
Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
4. Tổ chức có chức
năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác
liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều
kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó; đối với địa
danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì
việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
5. Hai hoặc nhiều
tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở thành đồng chủ sở
hữu với những điều kiện sau đây:
a) Việc sử dụng
nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử dụng cho hàng
hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình sản xuất,
kinh doanh;
b) Việc sử dụng
nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hoá,
dịch vụ.
6. Người có quyền
đăng ký quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này, kể cả người đã nộp đơn
đăng ký có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình
thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật
với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng các điều kiện
đối với người có quyền đăng ký tương ứng.
7. Đối với nhãn
hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm
người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện hoặc
đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ sở
hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.”
14. Điều 90
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 90. Nguyên
tắc nộp đơn đầu tiên
1. Trong trường
hợp có nhiều đơn đăng ký các sáng chế trùng hoặc tương đương với nhau, các kiểu
dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau thì văn bằng bảo
hộ chỉ được cấp cho sáng chế hoặc kiểu dáng công nghiệp trong đơn hợp lệ có
ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều
kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.
2. Trong trường
hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng
hoặc tương tự với nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng ký
các nhãn hiệu trùng dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau thì văn bằng bảo
hộ chỉ được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp
đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo
hộ.
3. Trong trường
hợp có nhiều đơn đăng ký quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cùng đáp ứng
các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp
đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho đối tượng của một đơn duy
nhất trong số các đơn đó theo thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu
không thoả thuận được thì các đối tượng tương ứng của các đơn đó bị từ chối cấp
văn bằng bảo hộ.”
15. Điều 119
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 119. Thời
hạn xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp
1. Đơn đăng ký sở
hữu công nghiệp được thẩm định hình thức trong thời hạn một tháng, kể từ ngày
nộp đơn.
2. Đơn đăng ký sở
hữu công nghiệp được thẩm định nội dung trong thời hạn sau đây:
a) Đối với sáng chế
không quá mười tám tháng, kể từ ngày công bố đơn nếu yêu cầu thẩm định nội dung
được nộp trước ngày công bố đơn hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu thẩm định nội
dung nếu yêu cầu đó được nộp sau ngày công bố đơn;
b) Đối với nhãn
hiệu không quá chín tháng, kể từ ngày công bố đơn;
c) Đối với kiểu
dáng công nghiệp không quá bảy tháng, kể từ ngày công bố đơn;
d) Đối với chỉ dẫn
địa lý không quá sáu tháng, kể từ ngày công bố đơn.
3. Thời hạn thẩm
định lại đơn đăng ký sở hữu công nghiệp bằng hai phần ba thời hạn thẩm định lần
đầu, đối với những vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài nhưng không vượt quá
thời hạn thẩm định lần đầu.
4. Thời gian để
người nộp đơn sửa đổi, bổ sung đơn không được tính vào các thời hạn quy định
tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này; thời hạn xử lý yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn
không vượt quá một phần ba thời gian thẩm định tương ứng quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này.”
16. Điều 134
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 134. Quyền
sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp
1. Trường hợp
trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên (nếu có) của đơn đăng ký sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết
để sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi
là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó
có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối
lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả
tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc
thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không
bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp.
2. Người có quyền
sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không được phép chuyển giao quyền
đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc chuyển
giao cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp. Người có quyền sử dụng trước không được mở rộng phạm vi,
khối lượng sử dụng nếu không được chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp
cho phép.”
17. Điều 154
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 154. Điều
kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp
Tổ chức đáp ứng
các điều kiện sau đây được kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp với
danh nghĩa tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp:
1. Là doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công
nghệ được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, trừ tổ chức hành
nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam;
2. Có chức năng
hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động (sau đây gọi chung
là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh);
3. Người đứng đầu
tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức uỷ quyền phải đáp ứng các điều
kiện hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp quy định tại khoản 1 Điều
155 của Luật này.”
18. Điều 157
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 157. Tổ
chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng
1. Tổ chức, cá
nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng là tổ chức, cá nhân chọn tạo
hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc đầu tư cho công tác chọn tạo
hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc được chuyển giao quyền đối
với giống cây trồng.
2. Tổ chức, cá
nhân quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức,
cá nhân nước ngoài thuộc nước có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng; tổ chức, cá nhân nước ngoài có trụ sở,
địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây
trồng tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có trụ sở, địa chỉ thường trú
hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại nước có ký kết với Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng.”
19. Điều 160
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 160. Tính
khác biệt của giống cây trồng
1. Giống cây trồng
được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phân biệt rõ ràng với các giống
cây trồng khác được biết đến rộng rãi tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên
nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên.
2. Giống cây trồng
được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 Điều này là giống cây trồng thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Giống cây trồng
mà vật liệu nhân giống hoặc vật liệu thu hoạch của giống đó được sử dụng một
cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng
ký bảo hộ;
b) Giống cây trồng
đã được bảo hộ hoặc đưa vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;
c) Giống cây trồng
là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc đơn đăng ký vào Danh mục giống cây
trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối.”
20. Điều 163
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 163. Tên của
giống cây trồng
1. Người đăng ký
phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng với cơ quan quản lý nhà nước
về quyền đối với giống cây trồng, tên đó phải trùng với tên đã đăng ký bảo hộ ở
bất kỳ quốc gia nào có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thỏa thuận
về bảo hộ giống cây trồng.
2. Tên của giống
cây trồng được coi là phù hợp nếu tên đó có khả năng dễ dàng phân biệt được với
tên của các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi trong cùng một loài
hoặc loài tương tự.
3. Tên của giống
cây trồng không được coi là phù hợp trong các trường hợp sau đây:
a) Chỉ bao gồm các
chữ số, trừ trường hợp chữ số liên quan đến đặc tính hoặc sự hình thành giống
đó;
b) Vi phạm đạo đức
xã hội;
c) Dễ gây hiểu
nhầm về các đặc trưng, đặc tính của giống đó;
d) Dễ gây hiểu
nhầm về danh tính của tác giả;
đ) Trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã
được bảo hộ trước ngày công bố đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng;
e) Ảnh hưởng đến
quyền đã có trước của tổ chức, cá nhân khác.
4. Tổ chức, cá
nhân chào bán hoặc đưa ra thị trường vật liệu nhân giống của giống cây trồng
phải sử dụng tên giống cây trồng như tên đã ghi trong bằng bảo hộ, kể cả sau
khi kết thúc thời hạn bảo hộ.
5. Khi tên giống
cây trồng được kết hợp với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại hoặc các chỉ dẫn
tương tự với tên giống cây trồng đã được đăng ký để chào bán hoặc đưa ra thị
trường thì tên đó vẫn phải có khả năng nhận biết một cách dễ dàng.”
21. Điều 165
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 165. Đăng ký
quyền đối với giống cây trồng
1. Tổ chức, cá
nhân quy định tại Điều 157 của Luật này nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây
trồng (sau đây gọi là đơn đăng ký bảo hộ) trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp
pháp tại Việt Nam.
2. Tổ chức đáp ứng các điều kiện sau đây được kinh doanh
dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng với danh nghĩa tổ chức dịch vụ
đại diện quyền đối với giống cây trồng:
a) Là doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công
nghệ Việt Nam được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, trừ tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam;
b) Có chức năng
hoạt động dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng được ghi nhận trong
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động (sau đây
gọi chung là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh);
3. Người đứng đầu
tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức uỷ quyền phải đáp ứng các điều
kiện quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều này được hành nghề dịch vụ đại diện
quyền đối với giống cây trồng.
4. Cá nhân được
phép hành nghề dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng nếu đáp ứng các
điều kiện sau đây:
a) Có chứng chỉ
hành nghề dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng;
b) Hoạt động trong
một tổ chức dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng.
5. Cá nhân đáp ứng
các điều kiện sau đây được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện quyền đối
với giống cây trồng:
a) Là công dân
Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Thường trú tại
Việt Nam;
c) Có bằng tốt
nghiệp đại học;
d) Đã trực tiếp
làm công tác pháp luật về quyền đối với giống cây trồng liên tục từ năm năm trở
lên hoặc đã trực tiếp làm công tác thẩm định các loại đơn đăng ký quyền đối với
giống cây trồng tại cơ quan quốc gia hoặc quốc tế về quyền đối với giống cây
trồng liên tục từ năm năm trở lên hoặc đã tốt nghiệp khóa đào tạo pháp luật về
quyền đối với giống cây trồng được cơ quan có thẩm quyền công nhận;
đ) Không phải là
công chức, viên chức đang làm việc tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác lập
và bảo đảm thực thi quyền đối với giống cây trồng;
e) Đã đạt yêu cầu
tại kỳ kiểm tra về nghiệp vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng do cơ quan
có thẩm quyền tổ chức.
6. Chính phủ quy
định cụ thể về đại diện hợp pháp nộp đơn và tổ chức dịch vụ đại diện quyền đối với
giống cây trồng.”
22. Điều 186
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 186. Quyền
của chủ bằng bảo hộ
1. Chủ bằng bảo hộ
có quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng các quyền sau đây liên quan
đến vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ:
a) Sản xuất hoặc
nhân giống;
b) Chế biến nhằm
mục đích nhân giống;
c) Chào hàng;
d) Bán hoặc thực
hiện các hoạt động tiếp cận thị trường khác;
đ) Xuất khẩu;
e) Nhập khẩu;
g) Lưu giữ để thực
hiện các hành vi quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này.
2. Quyền của chủ
bằng bảo hộ giống cây trồng quy định tại khoản 1 Điều này được áp dụng đối với
vật liệu thu hoạch thu được từ việc sử dụng bất hợp pháp vật liệu nhân giống
của giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp chủ bằng bảo hộ đã có cơ hội
hợp lý để thực hiện quyền của mình đối với vật liệu nhân giống nhưng không thực
hiện.
3. Ngăn cấm người
khác sử dụng giống cây trồng theo quy định tại Điều 188 của Luật này.
4. Để thừa kế, kế
thừa quyền đối với giống cây trồng và chuyển giao quyền đối với giống cây trồng
theo quy định tại Chương XV của Luật này.”
23. Điều 187
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 187. Mở rộng
quyền của chủ bằng bảo hộ
Quyền của chủ bằng
bảo hộ được mở rộng đối với các giống cây trồng sau đây:
1. Giống cây trồng
có nguồn gốc chủ yếu từ giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp giống cây
trồng được bảo hộ có nguồn gốc chủ yếu từ một giống cây trồng đã được bảo hộ
khác.
Giống cây trồng
được coi là có nguồn gốc chủ yếu từ giống được bảo hộ, nếu giống cây trồng đó
vẫn giữ lại biểu hiện của các tính trạng thu được từ kiểu gen hoặc sự phối hợp
các kiểu gen của giống được bảo hộ, trừ những tính trạng khác biệt là kết quả
của sự tác động vào giống được bảo hộ;
2. Giống cây trồng
không khác biệt rõ ràng với giống cây trồng đã được bảo hộ;
3. Giống cây trồng
mà việc sản xuất đòi hỏi phải sử dụng lặp lại giống cây trồng đã được bảo hộ.”
24. Điều 190
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 190. Hạn chế
quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng
1. Các hành vi sau
đây không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ:
a) Sử dụng giống
cây trồng phục vụ nhu cầu cá nhân và phi thương mại;
b) Sử dụng giống
cây trồng nhằm mục đích thử nghiệm;
c) Sử dụng giống
cây trồng để tạo ra giống cây trồng khác, trừ trường hợp quy định tại Điều 187 của
Luật này;
d) Hộ sản xuất cá
thể sử dụng sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng để tự nhân giống và gieo
trồng cho vụ sau trên diện tích đất của mình.
2. Quyền đối với
giống cây trồng không được áp dụng đối với các hành vi liên quan đến vật liệu
của giống cây trồng được bảo hộ do chủ bằng bảo hộ hoặc người được chủ bằng bảo
hộ cho phép bán hoặc bằng cách khác đưa ra thị trường Việt Nam hoặc thị trường
nước ngoài, trừ các hành vi sau đây:
a) Liên quan đến
việc nhân tiếp giống cây trồng đó;
b) Liên quan đến
việc xuất khẩu các vật liệu của giống cây trồng có khả năng nhân giống vào
những nước không bảo hộ các chi hoặc loài cây trồng đó, trừ trường hợp xuất
khẩu vật liệu nhằm mục đích tiêu dùng.”
25. Điều 194
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 194. Chuyển
nhượng quyền đối với giống cây trồng
1. Chuyển nhượng
quyền đối với giống cây trồng là việc chủ bằng bảo hộ giống cây trồng chuyển
giao toàn bộ quyền đối với giống cây trồng đó cho bên nhận chuyển nhượng. Bên
nhận chuyển nhượng trở thành chủ bằng bảo hộ giống cây trồng kể từ ngày hợp
đồng chuyển nhượng được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với
giống cây trồng theo thủ tục do pháp luật quy định.
2. Trường hợp
quyền đối với giống cây trồng thuộc đồng sở hữu thì việc chuyển nhượng cho
người khác phải được sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu.
3. Việc chuyển
nhượng quyền đối với giống cây trồng phải được thực hiện dưới hình thức hợp
đồng bằng văn bản.
4. Việc chuyển
nhượng quyền đối với giống cây trồng tạo ra từ ngân sách nhà nước được thực hiện
theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ.”
26. Điều 201
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 201. Giám
định về sở hữu trí tuệ
1. Giám định về sở
hữu trí tuệ là việc tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này
sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề
có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
2. Doanh nghiệp,
hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, trừ tổ chức hành nghề
luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện sau đây được
thực hiện hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ:
a) Có nhân lực, cơ
sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tổ chức hoạt động giám định theo quy
định của pháp luật;
b) Có chức năng
thực hiện hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ được ghi nhận trong Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động;
c) Người đứng đầu
tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức ủy quyền có Thẻ giám định viên
sở hữu trí tuệ.
3. Cá nhân có đủ
các điều kiện sau đây được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Thẻ giám định
viên sở hữu trí tuệ:
a) Là công dân
Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Thường trú tại
Việt Nam;
c) Có phẩm chất
đạo đức tốt;
d) Có trình độ đại
học trở lên về chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực đề nghị cấp thẻ giám định, đã qua
thực tế hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực đó từ năm năm trở lên và đạt yêu
cầu kiểm tra nghiệp vụ về giám định.
4. Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền trưng
cầu giám định về sở hữu trí tuệ khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý.
5. Chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ và tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền yêu cầu giám định
về sở hữu trí tuệ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
6. Chính phủ quy
định cụ thể về tổ chức và hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.”
27. Điều 211
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 211. Hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính
1. Tổ chức, cá
nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị
xử phạt vi phạm hành chính:
a) Xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho
xã hội;
b) Sản xuất, nhập
khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều
213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
c) Sản xuất, nhập
khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn
hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi
này.
2. Chính phủ quy
định cụ thể về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành
chính, hình thức, mức phạt và thủ tục xử phạt.
3. Tổ chức, cá
nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.”
28. Điều 214
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 214. Các
hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả
1. Tổ chức, cá
nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 1 Điều
211 của Luật này bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong
các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tuỳ theo tính
chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có
thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tịch thu hàng
hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng
chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ;
b) Đình chỉ có
thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.
3. Ngoài các hình thức
xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu
quả sau đây:
a) Buộc tiêu huỷ
hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng
hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử
dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với
điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ;
b) Buộc đưa ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện,
nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh
hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên
hàng hoá.
4. Mức phạt, thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”
29. Điều 218
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 218. Thủ tục
áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan
1. Khi người yêu
cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại
Điều 217 của Luật này thì cơ quan hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục
hải quan đối với lô hàng.
2. Thời hạn tạm
dừng làm thủ tục hải quan là mười ngày làm việc, kể từ ngày người yêu cầu tạm
dừng làm thủ tục hải quan nhận được thông báo của cơ quan hải quan về việc tạm
dừng làm thủ tục hải quan. Trong trường hợp người yêu cầu tạm dừng có lý do
chính đáng thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không được quá hai mươi ngày
làm việc với điều kiện người yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan phải nộp thêm
khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 217 của Luật này.
3. Khi kết thúc
thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này mà người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục
hải quan không khởi kiện dân sự và cơ quan hải quan không quyết định thụ lý vụ
việc theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính đối với người xuất khẩu, nhập khẩu
lô hàng thì cơ quan hải quan có trách nhiệm sau đây:
a) Tiếp tục làm
thủ tục hải quan cho lô hàng;
b) Buộc người yêu
cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan phải bồi thường cho chủ lô hàng toàn bộ thiệt
hại do yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan không đúng gây ra và phải thanh
toán các chi phí lưu kho bãi, bảo quản hàng hóa và các chi phí phát sinh khác
cho cơ quan hải quan và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan theo quy
định của pháp luật về hải quan;
c) Hoàn trả cho
người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan khoản tiền bảo đảm còn lại sau khi
đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường và thanh toán các chi phí quy định tại
điểm b khoản này.”
30. Điều 220
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 220. Điều
khoản chuyển tiếp
1. Quyền tác giả,
quyền liên quan được bảo hộ theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực
trước ngày Luật này có hiệu lực, nếu còn thời hạn bảo hộ vào ngày Luật này có
hiệu lực thì được tiếp tục bảo hộ theo quy định của Luật này.
2. Đơn đăng ký
quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá, thiết kế bố trí, giống
cây trồng đã được nộp cho cơ quan có thẩm quyền trước ngày Luật này có hiệu lực
được tiếp tục xử lý theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại
thời điểm nộp đơn.
3. Mọi quyền và
nghĩa vụ theo văn bằng bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực
trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm
dứt, hủy bỏ hiệu lực, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu,
giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy
định của Luật này, trừ căn cứ huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ thì áp dụng quy
định pháp luật có hiệu lực đối với việc xét cấp văn bằng bảo hộ đó. Quy định này
cũng được áp dụng đối với Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa ban hành
theo quy định pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực; cơ quan
quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng
nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý đối với các tên gọi xuất xứ hàng hóa.
4. Bí mật kinh
doanh và tên thương mại đã tồn tại và được bảo hộ theo Nghị định số
54/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2000 của Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp tiếp
tục được bảo hộ theo quy định của Luật này.
5. Kể từ ngày Luật
này có hiệu lực, chỉ dẫn địa lý, kể cả chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo Nghị
định quy định tại khoản 4 Điều này chỉ được bảo hộ sau khi đã được đăng ký theo
quy định của Luật này.”
Điều 2.
Thay cụm từ “Bộ
Văn hóa - Thông tin” bằng cụm từ “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch” tại các
khoản 2, 3 và 5 Điều 11, điểm a khoản 2 Điều 50, khoản 4 Điều 51 của Luật sở
hữu trí tuệ số 50/2005/QH11.
Điều 3.
1. Luật này có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
2. Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật; hướng
dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước.
Luật này đã
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5
thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009 ./.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét