QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 39-LCT/HĐNN8 |
Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 1990 |
CỦA QUỐC HỘI SỐ 39-LCT/HĐNN8 NGÀY 30/06/1990 VỀ SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Căn
cứ vào Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 6 năm 1988.
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng hình sự như sau:
2- Khoản 3 Điều 29 về quyền đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"3.
Người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự".
3- Điểm d khoản 1 Điều 62 về việc bắt bị can, bị cáo
để tạm giam, được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"d)
Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ
quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các
cấp trong Quân đội nhân dân. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành".
"b)
Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy
và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn;
c)
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực
hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ
chứng cứ.
2.
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a)
Trưởng Công an, Phó trưởng Công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ
quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các
cấp trong Quân đội nhân dân;
b)
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;"
5- Khoản 2 Điều 68 về tạm giữ, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"2.
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 63 của Bộ
luật này có quyền ra lệnh tạm giữ".
6- Khoản 2 Điều 69 về thời hạn tạm giữ, được sửa đổi,
bổ sung như sau:
"2.
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ,
nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan ra lệnh tạm giữ có
thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp
gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn".
7- Khoản 1 Điều 70 về tạm giam, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"1.
Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong những trường
hợp nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội".
"Điều
93. Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm và các cơ quan
khác của lực lượng Cảnh sát nhân dân, lực lượng An ninh nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
2-
Trong lực lượng Cảnh sát nhân dân, lực lượng An ninh nhân dân, Quân đội nhân
dân, ngoài các cơ quan điều tra quy định tại Điều 92 của Bộ luật này, các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm
nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội, thì có quyền:
khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho
cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án.
3.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm và các cơ quan khác của Lực lượng Cảnh sát nhân dân, Lực lượng
An ninh nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, do Hội đồng Nhà nước quy định".
"a)
Kiểm sát việc khởi tố, tự mình khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và chuyển
đến cơ quan điều tra để yêu cầu tiến hành điều tra; trực tiếp điều tra trong
những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 92 của Bộ luật này;"
"Trong
trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thêm, nhưng
không quá ba mươi ngày."
"2.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay
đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn
quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng
Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không được quá ba mươi ngày."
11- Đoạn 2 khoản 2 Điều 151 về thời hạn chuẩn bị xét
xử, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Đối
với những vụ án phức tạp, Chánh án Toà án có thể quyết định kéo dài thời hạn
chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá ba mươi ngày."
12- Điều 152 về áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp ngăn chặn, được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"Sau
khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm
giam do Chánh án hoặc Phó chánh án Toà án quyết định.
Thời
hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy
định tại Điều 151 của Bộ luật này.
Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra
lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà."
13- Đoạn 1 Điều 205 về những người có quyền kháng cáo,
được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Bị
cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm".
14- Khoản 1 Điều 208 về thời hạn kháng cáo, kháng
nghị, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"1.
Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương
sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản sao bản án
được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án."
15- Điều 215 về thời hạn xét xử phúc thẩm, được sửa
đổi, bổ sung như sau:
"Toà
án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm
trong thời hạn không quá sáu mươi ngày; Toà án quân sự cấp cao, Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn không quá
chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án".
16- Khoản 2 Điều 217 về những người tham gia phiên toà
phúc thẩm được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"2.
Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập
tham gia phiên toà. Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng
xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử, nhưng không được ra bản án hoặc quyết định
không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt; trong các trường hợp khác thì
phải hoãn phiên toà.
Thời
hạn hoãn phiên toà theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này hoặc tại các
Điều 30, 31 và 33 của Bộ luật này không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra
quyết định hoãn phiên toà."
17- Khoản 1 Điều 232 về tạm đình chỉ thi hành án phạt
tù, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"1.
Theo đề nghị của Viện kiểm sát hoặc của Ban giám thị trại giam, Chánh án Toà án
đã ra quyết định thi hành án có thể cho người bị kết án không phải là phần tử
nguy hiểm được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp quy
định tại Điều 231 của Bộ luật này. Việc tạm đình chỉ để xét xử theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải do người đã kháng nghị hoặc do toà án cấp giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định."
18- Khoản 1 Điều 238 về thủ tục giảm thời hạn hoặc
miễn chấp hành hình phạt, được sửa đổi, bổ sung như sau:
"1.
Toà án có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Toà án
nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu, nơi người bị kết án chấp hành
hình phạt.
Toà
án có thẩm quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo ở
đơn vị kỷ luật của quân đội là Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp
quân khu, nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Việc
giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử
thách thuộc thẩm quyền quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự
khu vực, nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách."
19- Điều 247 về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm,
được bổ sung khoản 3 mới như sau:
"3.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự."
20- Điều 265 về thời hạn kháng nghị tái thẩm, được bổ
sung khoản 3 mới như sau:
"3.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự."
Điều 2. Bổ sung một số điều mới như sau:
1- "Điều 42a. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
1.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người
khác được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận, bảo vệ quyền lợi
cho mình.
2.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị
can.
3.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền cung cấp chứng cứ, đề đạt yêu cầu;
được đọc hồ sơ vụ án, ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra;
tham gia phiên toà; khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này.
Đối
với đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc
tâm thần, thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến
hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản
án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mình
bảo vệ.
4.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp
luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp
lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ."
2- "Điều 168a. Thời hạn hoãn phiên toà.
Trong
trường hợp phải hoãn phiên toà theo quy định tại các Điều 30, 31, 33, 162, 164,
165, 166, 167 và 168 của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không
được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà."
3- "Điều 215a. Việc Toà án cấp phúc thẩm áp dụng,
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.
Sau
khi nhận hồ sơ vụ án, toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng,
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.
Thời
hạn tạm giam không được quá thời hạn quy định tại Điều 215 của Bộ luật này.
Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra
lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà."
Luật
này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990.
|
Võ Chí Công (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét