QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 21-LCT/HĐNN7 |
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 1986 |
LUẬT
Hôn
nhân và gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Trong gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chống bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau
tiến bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, cùng nhau nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã hội.
Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, để tiếp tục xây dựng
và củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, tập quán tốt đẹp của dân
tộc, xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia
đình phòng kiến, chống ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình tư sản ;
Căn cứ vào Điều 64 và Điều 65 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ;
Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình.
Nhà nước bảo đảm thực sự chế độ hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng
gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững.
Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc
các dân tộc các tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không
theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ.
Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện sinh đẻ
có kế hoạch.
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành
những công dân có ích cho xã hội.
Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ.
Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ
em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi ; cấm cưỡng
ép ly hôn.
Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.
Cấm ngược đãi, hành hạ cha, mẹ, vợ,
chồng, con cái.
Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi
trở lên mới được kết hôn.
Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết
định, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
Cấm kết hôn trong những trường hợp sau
đây :
a) Đang có vợ hoặc có chồng ;
b) Đang mắc bệnh tâm thần không có khả
năng nhận thức hành vi của mình ; đang mắc bệnh hoa liễu ;
c) Giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha ;
giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời ;
d) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.
Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và
ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định.
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với
nhau ở ngoài nước do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam công nhận.
Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có
giá trị pháp lý.
Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều
5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật.
Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp
luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người
khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ
việc kết hôn trái pháp luật.
Tài sản của những người mà hôn nhân bị
huỷ được giải quyết theo nguyên tắc : tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền
sở hữu của người ấy ; tài sản chung được chia căn cứ vào công sức đóng góp của
mỗi bên ; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được
bảo vệ.
Quyền lợi của con được giải quyết như
trong trường hợp cha mẹ ly hôn.
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA VỢ, CHỒNG
Vợ, chồng có nghĩa vụ và quyền ngang
nhau về mọi mặt trong gia đình.
Vợ, chồng có nghĩa vụ chung thuỷ với
nhau, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng nhau thực
hiện sinh đẻ có kế hoạch.
Chồng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho vợ
thực hiện tốt chức năng của người mẹ.
Vợ, chồng có quyền tự do chọn nghề
nghiệp chính đáng, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.
Chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng lựa
chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán.
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản
do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được cho chung.
Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm
những nhu cầu chung của gia đình.
Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch
khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của
vợ, chồng.
Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có
trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản
chung của vợ chồng.
Khi một bên chết trước, nếu cần chia
tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia
theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của
nhau.
Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu
cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy
định ở Điều 42 của Luật này.
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA CHA MẸ VÀ CON
Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi
dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc hoặc tập và sự phát triển lành mạnh của con
về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa
các con.
Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về
mọi mặt, và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc
giáo dục con.
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã
thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi mình.
Các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau
trong gia đình.
Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ.
Con đã thành niên còn ở chung với cha
mẹ có quyền lựa chọn nghề nghiệp, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn
hoá và xã hội.
Con có quyền có tài sản riêng.
Con từ 16 tuổi trở lên còn ở chung với
cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, và nếu có thu nhập
riêng thì phải đóng góp vào nhu cầu của gia đình.
Cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên
trước pháp luật.
Cha mẹ quản lý tài sản của con chưa
thành niên.
Cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường các
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con dưới 16 tuổi gây ra. Trong trường
hợp cha mẹ không có khả năng mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để
bồi thường.
Con chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên
chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản riêng của mình đối với các thiệt hại
do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. Nếu con không có tài sản riêng thì
cha mẹ phải bồi thường.
Người cha, người mẹ nào bị xử phạt về
một trong các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm của con chưa thành niên, ngược
đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ con chưa thành niên, thì có thể bị Toà án nhân
dân quyết định không cho trông giữ, giáo dục con, quản lý tài sản của con hoặc
đại diện cho con trong thời hạn từ một năm đến năm năm. Đối với người đã sửa
chữa, Toà án nhân dân có thể rút ngắn thời hạn này.
Người cha, người mẹ nói trên vẫn có
nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi dạy con.
Ông, bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo
dục cháu chưa thành niên trong trường hợp cháu không còn cha mẹ. Cháu đã thành
niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con. Anh
chị em có nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau trong trường hợp không còn cha mẹ.
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc
do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp có yêu cầu xác định
lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác.
Người được khai là cha, là mẹ một đứa trẻ
có thể xin xác định đứa trẻ đó không phải là con mình.
Người không được khai là cha, là mẹ một
đứa trẻ có thể xin xác định đứa trẻ đó là con của mình.
Việc cha mẹ nhận con ngoài giá thú do
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người con công nhận và
ghi vào sổ khai sinh.
Con ngoài giá thú có quyền xin nhận
cha, mẹ kể cả trong trường hợp cha. mẹ đã chết.
Người mẹ, người cha hoặc người đỡ đầu
có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên.
Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có
quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên.
Con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận
hoặc được Toà án nhân dân cho nhận cha, mẹ có mọi quyền và nghĩa vụ như con
trong giá thú.
Các tranh chấp về nhận con, nhận cha,
mẹ do Toà án nhân dân nơi thường trú của người con xét xử.
Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm
giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người con
nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt.
Giữa người nuôi và con nuôi có những
nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con quy định ở các Điều từ 19 đến 25 của Luật
này.
Người từ 15 tuổi trở xuống mới được
nhận làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi là thương binh, người tàn tật hoặc
làm con nuôi người già yếu cô đơn thì con nuôi có thể trên 15 tuổi.
Người nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi
trở lên.
Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự
thoả thuận của hai vợ chồng người nuôi, của cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của
người con nuôi chưa thành niên. Nếu nhận nuôi người từ 9 tuổi trở lên thì còn
phải được sự đồng ý của người đó.
Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận
và ghi vào sổ hộ tịch.
Nhà nước và xã hội khuyến khích việc
nhận các trẻ em mồ côi làm con nuôi.
Con liệt sĩ được nhận làm con nuôi vẫn
hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ.
Việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt khi
người nuôi hoặc con nuôi hoặc cả hai người có hành vi nghiêm trọng xâm phạm
thân thể, nhân phẩm của nhau hoặc những hành vi khác làm cho tình cảm giữa
người nuôi và con nuôi không còn nữa.
Việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà án
nhân dân quyết định theo yêu cầu của con nuôi hoặc của người nuôi. Trong trường
hợp người con nuôi chưa thành niên thì cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của con
nuôi, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi
con nuôi.
Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng
có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải.
Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly
hôn, nếu hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly
hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn.
Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng
xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn.
Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ
có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm.
Điều hạn chế này không áp dụng đối với
việc xin ly hôn của người vợ.
Khi ly hôn, việc chia tài sản do hai
bên thoả thuận, và phải được Toà án nhân dân công nhận. Nếu hai bên không thoả
thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định.
Việc chia tài sản khi ly hôn, về nguyên
tắc, phải theo những quy định dưới đây:
a) Tài sản riêng của bên nào thì vẫn
thuộc quyền sở hữu của bên ấy;
b) Tài sản chung của vợ chồng được chia
đôi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể
của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên;
c) Trong trường hợp vợ chồng do còn
sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được
thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn
cứ vào công sức của người được chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển
khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Lao động trong
gia đình được coi như lao động sản xuất;
d) Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền
lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng
của sản xuất và nghề nghiệp.
Khi ly hôn, nếu bên túng thiếu yêu cầu
cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình.
Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng
do hai bên thoả thuận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án
nhân dân quyết định.
Khi hoàn cảnh thay đổi, người được cấp
dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức hoặc thời gian cấp
dưỡng. Nếu người cấp dưỡng kết hôn với người khác thì không được cấp dưỡng nữa.
Vợ chồng đã ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ
và quyền đối với con chung.
Khi ly hôn, việc giao con chưa thành
niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con. Về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ.
Người không nuôi giữ con có nghĩa vụ và
quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con.
Nếu trì hoãn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Toà án nhân dân quyết định khấu
trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí tổn đó.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có
thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục
con.
Việc đỡ đầu được thực hiện trong trường
hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa
thành niên mà cha mẹ đã chết, hoặc tuy cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện
để làm những nhiệm vụ đó.
Cha mẹ có thể cử người đỡ đầu cho con
chưa thành niên. Nếu cha mẹ không cử được thì những người thân thích có thể cử
người đỡ đầu cho người đó. Việc cử người đỡ đầu do Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn công nhận.
Trong trường hợp cha mẹ hoặc những
người thân thích không cử được người đỡ đầu thì cơ quan Nhà nước có chức năng
hoặc tổ chức xã hội đảm nhiệm việc đỡ đầu người con chưa thành niên.
Công dân làm người đỡ đầu phải là người
từ 21 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt và có điều kiện thực tế để làm người
đỡ đầu.
Công dân hoặc tổ chức làm người đỡ đầu
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
a) Chăm sóc, giáo dục người được đỡ
đầu;
b) Quản lý tài sản của người được đỡ
đầu;
c) Đại diện cho người được đỡ đầu trước
pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người đó.
Công dân làm người đỡ đầu chịu sự giám
sát của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn về công việc đỡ đầu.
Người thân thích của người được đỡ đầu,
Viện kiểm sát nhân dân,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn thay người đỡ đầu, nếu người này không làm tròn nhiệm
vụ, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của người đỡ đầu.
Công dân làm người đỡ đầu có thể yêu
cầu cử người thay, nếu thấy mình không còn đủ điều kiện làm người đỡ đầu.
Việc đỡ đầu chấm dứt khi người chưa
thành niên được giao lại cho cha mẹ, được nhận làm con nuôi, hoặc đủ 18 tuổi.
QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Trong việc kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, mỗi bên tuân theo những quy định của pháp luật nước
mình về kết hôn.
Nếu việc kết hôn giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài tiến hành ở Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân
theo các quy định ở Điều 5, Điều 6, Điều 7 của Luật này. Thủ tục kết hôn do Hội
đồng bộ trưởng quy định.
Những vấn đề về quan hệ vợ chồng, quan
hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi và
đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài do Hội đồng Nhà nước quy
định.
Trong trường hợp đã có hiệp định tương
trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì
tuân theo những quy định của các hiệp định đó.
Đối với dân tộc thiểu số, Hội đồng Nhà
nước căn cứ Luật này và tình hình cụ thể mà có những quy định thích hợp.
Hội đồng bộ trưởng, Toà án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi chức năng của
mình, có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật này.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam
giáo dục, vận động nhân dân thi hành nghiêm chỉnh Luật này.
Luật này thay thế Luật hôn nhân và gia
đình năm 1959.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 12, thông qua ngày 29 tháng 12
năm 1986.
|
Trường Chinh (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét