LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 19/LCT
NGÀY 26-7-1960 CÔNG BỐ LUẬT TỔ CHỨC TOÀ ÁN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Căn
cứ vào Điều 63 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà;
NAY CÔNG BỐ:
Luật
tổ chức Toà án nhân dân đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá
thứ II, kỳ họp thứ nhất, thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1960.
LUẬT
TỔ CHỨC TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Căn
cứ vào Điều 98, chương VIII của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, luật
này quy định tổ chức các Toà án nhân dân.
Các
Toà án nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Toà
án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân sự để trừng trị những kẻ phạm tội
và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân dân.
Mục
đích của việc xét xử là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản
công cộng và quyền lợi hợp pháp của nhân dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện
thống nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi.
Trong
mọi hoạt động của mình, Toà án nhân dân giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, với chế độ dân chủ nhân dân, tôn trọng tài sản công cộng, tự giác tuân
theo pháp luật, kỷ luật lao động và quy tắc sinh hoạt xã hội.
Toà
án nhân dân xử phạt về hình sự không những chỉ trừng trị phạm nhân mà còn nhằm
giáo dục và cải tạo họ.
Các
Toà án nhân dân gồm có:
-
Toà án nhân dân tối cao,
-
Các Toà án nhân dân địa phương,
-
Các Toà án quân sự.
Các
Toà án nhân dân địa phương gồm có: Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, Toà án nhân dân huyện, thành phố
thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, Toà án nhân dân ở các
khu vực tự trị.
Ở
các khu vực tự trị, tổ chức các Toà án nhân dân địa phương sẽ do Hội đồng nhân
dân khu vực tự trị quy định, căn cứ vào điều 95 của Hiến pháp và những nguyên
tắc tổ chức Toà án nhân dân định trong luật này.
Tổ
chức các Toà án quân sự sẽ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định riêng, căn cứ
vào những nguyên tắc tổ chức Toà án nhân dân định trong luật này.
Toà
án nhân dân xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt nam nữ, dân tộc, nòi giống, tôn giáo, tín ngưỡng, địa vị xã hội
và thành phần xã hội.
Khi
xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Các
Toà án nhân dân thực hành chế độ thẩm phán bầu.
Việc
xét xử tại các Toà án nhân dân đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt mà Toà án
nhân dân xét thấy cần xử kín để giữ gìn bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã
hội.
Quyền
bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Ngoài
việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo cũng
có thể nhờ người công dân được đoàn thể nhân dân giới thiệu hoặc được Toà án
nhân dân chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết, Toà án nhân dân chỉ định
người bào chữa cho bị cáo.
Toà
án nhân dân bảo đảm cho công dân thuộc các dân tộc thiểu số có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà án. Khi cần thiết, Toà án nhân dân
phải chỉ định người phiên dịch để bảo đảm thực hiện quyền đó.
Toà
án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử.
Đương
sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà
án nhân dân trên một cấp.
Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc
quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân.
Nếu
đương sự không chống án hoặc Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị trong thời
hạn do pháp luật quy định thì bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân
dân địa phương sẽ có hiệu lực pháp luật.
Bản
án và quyết định phúc thẩm của các Toà án nhân dân, bản án và quyết định sơ
thẩm của Toà án nhân dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật.
Các
bản án tử hình phải được Hội đồng toàn thể thẩm phán của Toà án nhân dân tối
cao duyệt lại trước khi thi hành. Phải có hai phần ba tổng số thẩm phán của Toà
án nhân dân tối cao tham dự phiên họp của Hội đồng và quá nửa tổng số thẩm phán
tán thành thì quyết nghị của Hội đồng mới có giá trị.
Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền tham dự phiên họp của Hội đồng
toàn thể thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao. Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao không đồng ý với quyết nghị của Hội đồng toàn thể thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao thì báo cáo lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét.
Những
bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu pháp hiện có sai lầm thì
được xét lại.
Đối
với những bản án và quyết định của các Toà án nhân dân địa phương đã có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì Toà án nhân dân tối cao có quyền
xét lại hoặc giao cho Toà án nhân dân cấp dưới xét lại.
Đối
với những bản án và quyết định của Toà án nhân dân tối cao đã có hiệu lực pháp
luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao đưa ra Uỷ
ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét định.
Đối
với những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án mình hoặc
của toà án cấp dưới, nếu phát hiện có sai lầm thì Toà án nhân dân địa phương có
quyền nêu lên để Toà án nhân dân tối cao xét định.
Khi
sơ thẩm, Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia. Hội thẩm nhân dân do
nhân dân bầu ra. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.
Toà
án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Khi
sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp
xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử
không có hội thẩm nhân dân.
Khi
phúc thẩm những bản án, những quyết định bị chống án hoặc bị kháng nghị, và khi
xét lại những bản án, những quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện
có sai lầm thì Toà án nhân dân địa phương phải có ba thẩm phán. Trong trường
hợp đặc biệt có thể có thêm hội thẩm nhân dân.
Khi
phúc thẩm những bản án, những quyết định bị chống án hoặc bị kháng nghị, và khi
xét lại những bản án, những quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện
có sai lầm, thì Toà án nhân dân tối cao gồm ba hoặc năm thẩm phán.
Chánh
án Toà án nhân dân chủ toạ phiên toà, hoặc chỉ định một thẩm phán chủ toạ phiên
toà.
Tại
Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, Toà án nhân dân khu tự trị, đều lập ra
Uỷ ban thẩm phán có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, thảo luận những vụ án
quan trọng hoặc phức tạp và những vấn đề liên quan đến công tác xét xử.
Uỷ
ban thẩm phán gồm có Chánh án, Phó chánh án và một số thẩm phán, Chánh án điều
khiển phiên họp của Uỷ ban thẩm phán. Uỷ ban thẩm phán quyết định theo đa số.
Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban
thẩm phán.
Đương
sự có quyền yêu cần toà án thay đổi thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân, nếu thấy
những người này có quan hệ với vụ án có thể làm cho việc xét xử không được công
bằng. Việc thay đổi này do Chánh án Toà án nhân dân xét và quyết định.
Toà
án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong
thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ
ban thường vụ Quốc hội. Các Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp.
Toà
án nhân dân cấp dưới chịu sự giám đốc của Toà án nhân dân cấp trên về công tác
xét xử.
Toà
án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương
đương xử sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm
quyền của các toà án đó.
Toà
án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương
đương có nhiệm vụ hoà giải những vụ tranh chấp về dân sự, phân xử những việc
hình sự nhỏ không phải mở phiên toà và hướng dẫn công tác hoà giải ở xã và khu
phố.
Toà
án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương
đương gồm có Chánh án và thẩm phán, nếu cần thiết thì có Phó chánh án.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH, THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG HOẶC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TƯƠNG ĐƯƠNG.
Toà
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương có thẩm quyền:
-
Sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền
của các toà án đó và những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp dưới
mà các toà án đó lấy lên để xử;
-
Phúc thẩm những bản án và quyết định của Toà án nhân dân cấp dưới bị chống án
hoặc bị kháng nghị.
Toà
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó chánh án và các thẩm phán.
Toà
án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa
phương và các Toà án quân sự.
Toà
án nhân dân tối cao có thẩm quyền:
-
Sơ thẩm những vụ án do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân
tối cao và những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp dưới mà Toà án
nhân dân tối cao lấy lên để xử;
-
Phúc thẩm những bản án và quyết định của Toà án nhân dân cấp dưới bị chống án
hoặc bị kháng nghị;
-
Xét lại hoặc giao cho Toà án nhân dân cấp dưới xét lại những bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật những phát hiện có sai lầm;
-
Duyệt lại các bản án tử hình trước khi các bản án đó được đem thi hành.
Toà
án nhân dân tối cao nghiên cứu những quy định về tổ chức tư pháp, thủ tục tố
tụng, luật hình sự, dân sự, phụ trách việc huấn luyện, đào tạo cán bộ Toà án
nhân dân và phụ trách việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án nhân dân cấp dưới áp dụng pháp luật,
đường lối, chính sách và thủ tục tố tụng trong việc xét xử.
Toà
án nhân dân tối cao có quyền trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự
án luật, dự án pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi công tác chuyên môn của
mình.
Toà
án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó chánh án, các thẩm phán
và thẩm phán dự khuyết.
Toà
án nhân dân tối cao có những Toà chuyên trách về hình sự, dân sự và quân sự.
Tổ
chức của Toà án nhân dân tối cao để xử phúc thẩm do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quy định.
Tổ
chức Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Bộ
máy làm việc và biên chế của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo quy định chung về bộ máy làm việc và
biên chế của các cơ quan Nhà nước.
Tại
các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành
những bản án và quyết định về dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản
trong các bản án và quyết định về hình sự.
Cơ
quan Công an có nhiệm vụ thi hành những khoản hình phạt trong những bản án và
quyết định về hình sự, trừ những khoản phạt tiền.
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
Công
dân có quyền bầu cử và ứng cử từ hai mươi ba tuổi trở lên có thể được bầu làm
thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân.
Chánh
án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra và bãi miễn.
Nhiệm
kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là năm năm.
Phó
chánh an, thẩm phán, thẩm phán dự khuyết và uỷ viên Uỷ ban thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị
của Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Chánh
án, Phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và
bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương là bốn
năm.
Uỷ
viên Uỷ ban thẩm phán của các Toà án nhân dân nói trên do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu ra và bãi miễn.
Chánh
án, Phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị
xã hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và
bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân
huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương là ba
năm.
Việc
bầu cử hội thẩm nhân dân, nhiệm kỳ và chế độ công tác của hội thẩm nhân dân sẽ
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Luật
này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ II, kỳ họp thứ nhất,
thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1960.
|
Hồ Chí Minh (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét