QUỐC HỘI ____________ Luật số:
59/2024/QH15 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ________________________ |
LUẬT
TƯ PHÁP NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
_______________
Căn cứ Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Điều 1. Phạm vi điều
chỉnh
Luật
này quy định về xử lý chuyển hướng, hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội; thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị
hại, người làm chứng; thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chưa thành niên; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, gia đình trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên.
Điều 2. Áp dụng Luật
Tư pháp người chưa thành niên và các luật có liên quan
Việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, giải quyết vụ án hình sự,
xử lý chuyển hướng, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Luật này và theo quy định của Bộ
luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, luật khác
không trái với quy định của Luật này.
Điều 3. Giải thích
từ ngữ
Trong
Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1.
Người chưa thành niên phạm tội là người
phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi.
2. Người chưa thành niên là người bị buộc tội gồm
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
3.
Người chưa thành niên là bị hại là người dưới 18 tuổi trực tiếp bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
4.
Người chưa thành niên là người làm chứng
là người dưới 18 tuổi biết được những
tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
5.
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng
gồm người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và người phải chấp
hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng.
6. Người đại diện của người chưa thành niên bao
gồm:
a)
Cha, mẹ;
b)
Người giám hộ;
c)
Người do Tòa án chỉ định.
7.
Tư pháp người chưa thành niên là các
quy định về chính sách, biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên; thủ tục
thân thiện trong xử lý chuyển hướng, tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng
đối với người chưa thành niên; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan.
8.
Biện pháp xử lý chuyển hướng là biện pháp giám sát, giáo
dục, phòng ngừa áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, bao gồm các biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng quy định từ khoản 1 đến khoản 11 Điều 36
của Luật này và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại khoản 12
Điều 36 của Luật này.
9.
Thủ tục xử lý chuyển hướng là trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo
theo quy định của Luật này.
10.
Người làm công tác xã hội trong hoạt động
tư pháp người chưa thành niên (sau đây gọi chung là người làm công tác xã hội)
bao gồm công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội, người làm
công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, công chức văn hóa - xã hội cấp xã và người làm
công tác xã hội khác theo quy định của pháp luật.
11.
Báo cáo điều tra xã hội là báo cáo do
người làm công tác xã hội xây dựng để cung cấp thông tin về nhân thân, hoàn cảnh
gia đình, môi trường sống, tình hình học tập, tình trạng sức khỏe, mức độ trưởng
thành của người chưa thành niên và thông tin khác có liên quan ảnh hưởng đến
hành vi phạm tội của người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
12.
Kế hoạch xử lý chuyển hướng là kế hoạch
do người làm công tác xã hội xây dựng để đề xuất việc áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng tại cộng đồng, việc tổ chức hỗ trợ, giám sát, giáo dục người chưa
thành niên chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
Điều 4. Kinh phí, chi phí, hỗ trợ hoạt động tư pháp người chưa thành
niên
1. Kinh phí cho hoạt động
tư pháp người chưa thành niên được bảo đảm từ ngân sách nhà nước và các nguồn
kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
2. Ngân sách nhà nước bảo
đảm các nội dung sau đây:
a) Cơ sở vật chất để thực
hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người chưa thành niên;
b) Tổ chức thi hành biện
pháp giám sát điện tử;
c) Tổ chức thi hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
d) Tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
đ) Cơ sở vật chất của trường
giáo dưỡng, trại giam riêng, phân trại, khu giam giữ dành riêng cho người chưa
thành niên; chế độ ăn, mặc, ở, đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc y tế, học văn hóa,
giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và vui
chơi giải trí đối với học sinh trường giáo dưỡng và phạm nhân là người chưa
thành niên;
e) Phần chi của Quỹ Bảo
trợ trẻ em cho hoạt động tư pháp người chưa thành niên;
g) Đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho người làm công tác xã hội, người trực tiếp giám sát
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
h) Chi phí cho người làm
công tác xã hội tham gia tố tụng, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, người được chỉ định giúp đỡ người chưa
thành niên tái hòa nhập cộng đồng; chi phí cho chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục,
xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại diện Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc, vụ án theo yêu
cầu của cơ quan, người có thẩm quyền;
i) Các nội dung khác cho
hoạt động tư pháp người chưa thành niên được ngân sách nhà nước bảo đảm theo
quy định của pháp luật có liên quan.
3. Trường giáo dưỡng được
tiếp nhận sự giúp đỡ về vật chất của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong nước, cá nhân, tổ chức nước ngoài để tổ chức dạy văn hóa, giáo dục
hướng nghiệp, dạy nghề, mua sắm đồ dùng học tập và sinh hoạt cho học sinh.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 5. Bảo đảm lợi
ích tốt nhất
1.
Khi giải quyết vụ việc, vụ án có người chưa thành niên phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của họ.
2.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội chỉ trong trường
hợp cần thiết và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
3.
Việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào hành vi phạm
tội, nhân thân, độ tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của họ về tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội
phạm và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4.
Bảo đảm an toàn cho người chưa thành niên trong quá trình tố tụng, thi hành biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, thi hành án phạt tù theo quy định của pháp
luật.
5.
Hỗ trợ kịp thời và nhanh nhất có thể đối với người chưa thành niên.
Điều 6. Bảo đảm thủ
tục tố tụng thân thiện
Thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên phải bảo đảm đơn giản, thân thiện,
phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành và khả năng nhận thức của người
chưa thành niên.
Điều 7. Đối xử
bình đẳng
1.
Bảo đảm công bằng, không kỳ thị, không phân biệt đối xử đối với người chưa
thành niên.
2.
Quan tâm đến nhu cầu chính đáng của người chưa thành niên về giới tính, người
chưa thành niên là người dân tộc thiểu số, đối tượng dễ bị tổn thương.
Điều 8. Quyền được
thông tin đầy đủ, kịp thời
Người
chưa thành niên có quyền được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn giản,
thân thiện, dễ hiểu về những nội dung liên quan đến việc giải quyết
vụ việc, vụ án.
Điều 9. Bảo đảm
quyền có người đại diện
Người
chưa thành niên được bảo đảm có người đại diện tham gia trong quá trình giải
quyết vụ việc, vụ án.
Điều 10. Giải quyết
nhanh chóng, kịp thời
Giải
quyết vụ việc, vụ án có người chưa thành niên phải nhanh nhất có thể, hạn chế
việc gia hạn và ưu tiên áp dụng thủ tục rút gọn.
Điều 11. Ưu tiên
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Biện pháp xử lý chuyển hướng được ưu tiên áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội trong tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
2.
Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải phù hợp với lợi ích của người
chưa thành niên phạm tội và cộng đồng.
Điều 12. Áp dụng
hình phạt
1.
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục
họ ý thức tôn trọng, tuân theo pháp luật và các chuẩn mực đạo đức, lối sống,
ngăn ngừa họ phạm tội mới, có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét thấy
việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không bảo đảm hiệu quả giáo dục,
phòng ngừa. Trường hợp phải áp dụng hình phạt thì ưu tiên áp dụng hình phạt cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
3.
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
4.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm
tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp khác không có tác dụng răn đe,
phòng ngừa.
5.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người thành niên phạm tội tương ứng và với
thời hạn thích hợp ngắn nhất.
6.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
7.
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội nếu thuộc trường hợp sau đây
thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm:
a)
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội;
b)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý.
Điều 13. Bảo đảm
giữ bí mật cá nhân
1.
Bí mật cá nhân của người chưa thành niên phải được tôn trọng, bảo vệ trong suốt
quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, xử lý chuyển hướng, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng.
2.
Tòa án xét xử kín đối với vụ án hình sự có người chưa thành niên bị xâm hại
tình dục hoặc trường hợp đặc biệt khác cần bảo vệ người chưa thành niên.
3.
Trường hợp người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia tố tụng
thì phải bố trí phòng cách ly hoặc các biện pháp bảo vệ khác.
Điều 14. Quyền
bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý, phiên dịch
1.
Người chưa thành niên là người bị buộc tội phải có người bào chữa.
2.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải
thích và bảo đảm cho người chưa thành niên là người bị buộc tội thực hiện đầy đủ
quyền bào chữa theo quy định của pháp luật.
3.
Người chưa thành niên khi tham gia tố tụng hình sự được trợ giúp pháp lý và
phiên dịch miễn phí.
Điều 15. Hạn chế tối
đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
1.
Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế chỉ được áp dụng đối với người
chưa thành niên trong trường hợp thật cần thiết.
2.
Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên khi có
căn cứ cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả.
Cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, rà
soát, kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên bị tạm giữ,
tạm giam; nếu phát hiện không còn căn cứ hoặc không còn cần thiết tạm giữ, tạm
giam thì phải kịp thời ra quyết định hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác.
Điều 16. Chuyên
môn hóa trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên
Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán giải quyết vụ việc, vụ án có người chưa
thành niên phải là người đã được đào tạo, bồi dưỡng hoặc có kinh nghiệm điều
tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người chưa thành niên hoặc có hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục người chưa thành niên.
Điều 17. Bảo đảm và tôn trọng quyền tham gia, trình
bày ý kiến
1.
Người chưa thành niên có quyền tham gia, trình bày ý kiến về những vấn đề liên
quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình tố tụng. Ý kiến trình
bày của người chưa thành niên phải được tôn trọng, không bị coi là không đáng
tin cậy chỉ vì lý do tuổi của họ. Việc người chưa thành niên không nhận tội
không được coi là căn cứ để xử lý trách nhiệm nặng hơn với họ.
2.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng,
quan tâm đến thái độ của người chưa thành niên phù hợp với lứa tuổi, giới tính,
mức độ trưởng thành và sự phát triển của họ.
Điều 18. Bảo đảm
hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật phải được
cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành.
2.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách
nhiệm phối hợp và thực hiện yêu cầu, đề nghị của cơ quan, người có thẩm quyền
trong thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Điều 19. Bảo đảm việc thi hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng và thi hành án phạt tù phù hợp
1. Việc thi hành
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và thi hành án phạt tù phải bảo đảm
người chưa thành niên được bảo vệ, giáo dục, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.
2. Trường giáo dưỡng,
trại giam phải bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất phù hợp với lứa tuổi, giới tính
và sự phát triển của người chưa thành niên.
3. Người chưa
thành niên chấp hành án phạt tù tại trại giam, phân trại hoặc khu giam giữ dành
riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân.
Điều 20. Bảo đảm việc tái hòa nhập cộng đồng
1.
Bảo đảm các
điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng, chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, ổn định
cuộc sống, phòng ngừa phạm tội mới.
2. Bảo đảm sự tham gia của
cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình trong tái hòa nhập cộng đồng theo quy định
của pháp luật.
3. Nghiêm cấm kỳ thị, phân biệt đối xử đối với
người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng,
chấp hành xong án phạt tù.
Chương II
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 21. Quyền và
nghĩa vụ của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội
1. Người chưa thành niên là người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội có các quyền và
nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự;
b) Có người đại diện tham gia tố tụng;
c) Được sự hỗ trợ của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo
dục, xã hội học trong trường hợp cần thiết;
d) Được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn
giản, thân thiện, dễ hiểu về những nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ việc,
vụ án;
đ) Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong suốt quá
trình giải quyết vụ việc, vụ án;
e) Được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật;
g) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
theo quy định của Luật này;
h) Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật
này.
2. Ngoài các quyền và nghĩa vụ quy định tại khoản 1
Điều này, người chưa thành niên là bị can, bị cáo còn có các quyền và nghĩa vụ
sau đây:
a) Đề nghị áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
b) Được sự hỗ trợ của người làm công tác xã hội
trong quá trình tố tụng;
c) Khiếu nại quyết định về việc áp dụng biện pháp xử
lý chuyển hướng.
Điều 22. Quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên
là bị hại, người làm chứng
1.
Người chưa thành niên là bị hại có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a)
Các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự;
b)
Có người đại diện tham gia tố tụng;
c)
Được sự hỗ trợ của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học trong trường hợp
cần thiết;
d)
Được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn giản, thân thiện, dễ hiểu về
những nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ việc, vụ án;
đ)
Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong suốt quá trình giải quyết vụ việc, vụ án;
e)
Được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật;
g)
Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này;
h)
Được sự hỗ trợ của người làm công tác xã hội trong quá trình tố tụng;
i)
Được bồi thường thiệt hại và hỗ trợ theo quy định của Luật này và các luật khác
có liên quan;
k)
Khiếu nại quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
l)
Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.
2.
Người chưa thành niên là người làm chứng có các quyền và nghĩa vụ quy định tại
các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 1 Điều này và các quyền, nghĩa vụ khác theo
quy định của Luật này.
Điều 23. Quyền và
nghĩa vụ của người chấp
hành biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng có các quyền sau đây:
a)
Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này;
b)
Được lao động, học tập, hướng nghiệp, học nghề; được
tham gia chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống;
c)
Được trình bày nguyện vọng, kiến nghị của mình với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng; với Hiệu trưởng, cán bộ, giáo viên của trường giáo dưỡng;
d)
Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong quá trình chấp hành biện pháp xử lý chuyển
hướng;
đ)
Được cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng;
e)
Được hướng dẫn thực hiện thủ tục khai báo tạm vắng, đăng ký thường trú, đăng ký
tạm trú khi chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng
đồng.
2.
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng có các nghĩa vụ sau đây:
a)
Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
b)
Tuân thủ pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
c)
Chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thời
gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
d)
Báo cáo tình hình chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng khi được yêu cầu;
đ)
Trình diện cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu trong thời gian chấp hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
3.
Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 24. Quyền và
nghĩa vụ của người chưa thành niên là phạm nhân
1.
Các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2.
Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong quá trình chấp hành án phạt tù.
3.
Được học văn hóa phù hợp với trình độ theo quy định của pháp luật về giáo dục.
4.
Được tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và vui chơi giải
trí khác do trại giam tổ chức phù hợp với lứa tuổi, giới tính.
5.
Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này.
6.
Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.
Điều 25. Xác định
tuổi của người chưa thành niên là người bị buộc tội, bị hại
1.
Việc xác định tuổi của người chưa thành niên là người bị buộc tội, bị hại do cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật.
Việc xác định tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu gồm: Giấy chứng
sinh, Giấy khai sinh, Chứng minh nhân dân, Thẻ căn cước công dân, Thẻ căn cước,
Giấy chứng nhận căn cước, Hộ chiếu hoặc thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác.
Trường
hợp các giấy tờ, tài liệu hoặc thông tin trong các cơ sở dữ liệu nêu trên có
mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu, thông tin này thì cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại
diện, người thân thích, cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người đó
học tập, lao động, sinh hoạt để xác minh, làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ,
tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của họ.
2.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính
xác thì ngày, tháng sinh được xác định như sau:
a)
Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối
cùng của tháng đó làm ngày sinh;
b)
Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh;
c)
Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì
lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh;
d)
Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
3.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định
tuổi.
Điều 26. Hội đồng
quốc gia về tư pháp người chưa thành niên
1.
Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên do Thủ tướng Chính phủ thành
lập. Thành viên Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên do Thủ tướng
Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của cơ quan thường trực của Hội đồng.
2.
Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên hoạt động theo cơ chế phối hợp
liên ngành. Thành viên Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công và làm việc theo chế độ kiêm nhiệm.
3.
Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên có các nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
a)
Chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành để giải quyết các vấn đề về tư pháp người chưa
thành niên;
b)
Đề xuất phương hướng, giải pháp để thực hiện các vấn đề liên quan đến tư pháp
người chưa thành niên;
c)
Phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong việc thực hiện hoạt
động tư pháp người chưa thành niên;
d)
Chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện nhiệm vụ
liên quan đến tư pháp người chưa thành niên trong báo cáo công tác hằng năm;
đ)
Chỉ đạo, đôn đốc hoạt động công tác xã hội về tư pháp người chưa thành niên; chỉ
đạo tổ chức việc công bố danh sách người làm công tác xã hội trong hoạt động tư
pháp người chưa thành niên, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho người
làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên;
e)
Chỉ đạo công tác thống kê, thông tin, báo cáo về hoạt động tư pháp người chưa
thành niên;
g)
Thực hiện nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm
quyền.
4.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều
27. Cơ quan thường trực của Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên
1. Cơ quan thường
trực của Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên là Bộ Công an.
2. Cơ quan thường
trực có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Giúp Hội đồng
quốc gia về tư pháp người chưa thành niên tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng;
b) Định kỳ hằng
năm báo cáo Chính phủ về hoạt động của Hội đồng;
c) Nhiệm vụ, quyền
hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
3. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 28. Trách nhiệm
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
1.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện đúng
quy định của pháp luật về xử lý chuyển hướng, hình phạt, thủ tục tố tụng, trách
nhiệm khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên.
2.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp thông tin cần thiết về
quá trình xử lý chuyển hướng, thủ tục tố tụng, về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
cho người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, người đại diện, người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Điều 29. Người tiến
hành tố tụng
1.
Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán tiến hành hoạt động tư pháp người
chưa thành niên phải đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
a)
Đã được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng giải quyết các vụ án liên quan đến người
chưa thành niên;
b)
Có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa
thành niên;
c)
Đã được đào tạo, bồi dưỡng về tâm lý học và khoa học giáo dục người chưa thành
niên.
2.
Hội thẩm tham gia xét xử sơ thẩm vụ án liên quan đến người chưa thành niên phải
có ít nhất một người là giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
hoặc người có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực tư pháp, quản lý, đào tạo, bảo
vệ, chăm sóc hoặc giáo dục đối với người chưa thành niên hoặc người được đào tạo
về tâm lý học và khoa học giáo dục người chưa thành niên.
Điều 30. Trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm
tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân thực hiện Luật
này; tham gia giám sát, phản biện xã hội trong lĩnh vực tư pháp người chưa thành
niên.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vận động các tổ chức
thành viên của Mặt trận hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên trong hoạt động tư pháp người
chưa thành niên.
Điều 31. Trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
1.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm sau đây:
a)
Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
b)
Hỗ trợ, tạo điều kiện để người chưa thành niên thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ;
c)
Phối hợp, trao đổi thông tin với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
d)
Hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng, đào tạo nghề, hỗ trợ việc
làm cho người chưa thành niên khi đủ tuổi lao động;
đ)
Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
2.
Người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên; đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác có liên quan phải có mặt, tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng và
các hoạt động khác theo quyết định hoặc yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền.
3. Trường giáo dưỡng, trại
giam có trách nhiệm bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật về thi hành
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng
đồng, trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên.
Trường
giáo dưỡng, trại giam có trách nhiệm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo
viên về kỹ năng quản lý, giáo dục phù hợp với người chưa thành niên.
4.
Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư có trách nhiệm bồi dưỡng, hướng
dẫn trợ giúp viên pháp lý, luật sư về kỹ năng bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người chưa thành niên, kỹ năng trợ giúp pháp lý cho người chưa
thành niên.
Điều 32. Người làm
công tác xã hội
1.
Người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên phải
đáp ứng các điều kiện sau đây:
a)
Có hiểu biết pháp luật về người chưa thành niên;
b)
Đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục người chưa
thành niên hoặc có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý người chưa thành niên hoặc
có kỹ năng giao tiếp đối với người chưa thành niên.
2.
Người làm công tác xã hội khi tham gia hoạt động tư pháp người chưa thành niên
có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a)
Xây dựng báo cáo điều tra xã hội, kế hoạch xử lý chuyển hướng;
b)
Tham gia hỗ trợ và can thiệp phù hợp đối với người chưa thành niên khi có yêu cầu;
c)
Tham gia phiên họp, phiên tòa theo quy định của Luật này;
d)
Tham gia công tác thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng, tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên theo quy định của
pháp luật;
đ)
Được thanh toán chi phí khi tham gia hoạt động tư pháp người chưa thành niên
theo quy định của pháp luật;
e)
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này.
3.
Người làm công tác xã hội tham gia hoạt động tư pháp người chưa thành niên theo
từng vụ việc, vụ án cụ thể.
4.
Một người làm công tác xã hội có thể tham gia hỗ trợ cho nhiều người bị buộc tội
hoặc nhiều bị hại nhưng không đồng thời hỗ trợ cho cả người bị buộc tội và bị hại
trong cùng một vụ án.
5.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố danh sách người làm công tác xã hội trong hoạt
động tư pháp người chưa thành niên tại địa phương.
Điều 33. Trách nhiệm
của gia đình
1.
Cha, mẹ, người chăm sóc người chưa thành niên và các thành viên khác trong gia
đình có trách nhiệm sau đây:
a)
Chấp hành quy định của pháp luật và quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên;
b)
Thường xuyên liên hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm để được hướng
dẫn, trợ giúp trong quá trình thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng và tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên;
c)
Chấp hành quyết định, biện pháp, quy định của cơ quan, người có thẩm quyền để bảo
đảm sự an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, bí mật
cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người chưa thành niên.
2.
Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có trách nhiệm tham gia
vào quá trình giải quyết vụ việc, vụ án; lựa chọn người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp hoặc tự mình bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người chưa thành niên trong quá trình tố tụng theo quy định của pháp
luật.
3. Cha, mẹ hoặc
người giám hộ của người chưa thành niên phạm tội có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại và thực hiện các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Chương III
CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG
Điều 34. Mục đích
xử lý chuyển hướng
1.
Xử lý kịp thời và hiệu quả đối với người chưa thành niên.
2.
Giúp người chưa thành niên thay đổi nhận thức, nhận biết, sửa chữa sai lầm đã
gây ra, tự rèn luyện khắc phục, ngăn ngừa nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội
và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội.
3.
Đẩy mạnh việc hòa giải giữa người chưa thành niên và bị hại bị ảnh hưởng bởi
hành vi phạm tội của người chưa thành niên.
4.
Nâng cao trách nhiệm của gia đình và cộng đồng tham gia trực tiếp vào hoạt động
xử lý chuyển hướng.
5.
Hạn chế tác động tiêu cực của thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành
niên.
6.
Ngăn ngừa người chưa thành niên phạm tội mới, tạo điều kiện tái hòa nhập cộng đồng.
Điều 35. Nguyên tắc
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải
căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; khả năng giáo dục,
phục hồi của người chưa thành niên phạm tội và sự an toàn của bị hại, cộng đồng.
2. Việc lựa chọn biện pháp xử lý chuyển hướng áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội phải phù hợp với hoàn cảnh, độ tuổi, đặc
điểm tâm sinh lý của họ.
3. Người chưa thành niên phạm tội có thể bị áp dụng
một hoặc nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng. Biện pháp xử lý chuyển
hướng quy định tại các khoản 6, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 36 của Luật này phải áp
dụng đồng thời với một hoặc nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các
khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 36 của Luật này.
Trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng
nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng khác nhau nhưng cùng phải thực
hiện nghĩa vụ quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 23 của Luật này
thì thời gian thực hiện nghĩa vụ không vượt quá mức thời hạn cao nhất quy định
đối với biện pháp được áp dụng.
4. Không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng đồng thời với các biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
5. Không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu tại
thời điểm xem xét người phạm tội đã đủ 18 tuổi.
Điều 36. Biện pháp
xử lý chuyển hướng
1.
Khiển trách.
2.
Xin lỗi bị hại.
3.
Bồi thường thiệt hại.
4.
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
5.
Quản thúc tại gia đình.
6.
Hạn chế khung giờ đi lại.
7.
Cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới.
8.
Cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới.
9.
Tham gia chương trình học tập, dạy nghề.
10.
Tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý.
11.
Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng.
12.
Giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Điều 37. Trường hợp
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
Người
chưa thành niên phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc
trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự thì
có thể được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng:
1.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo
quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3
Điều 38 của Luật này;
2.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý,
phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng theo quy định của Bộ
luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 38 của Luật
này;
3.
Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể
trong vụ án.
Điều 38. Trường hợp
không được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không được áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 của Luật này:
a)
Phạm tội rất nghiêm trọng về một trong các tội phạm sau đây: Tội giết người, Tội
hiếp dâm, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi, Tội sản xuất trái phép chất ma túy;
b)
Phạm tội rất nghiêm trọng 02 lần trở lên hoặc phạm nhiều tội rất nghiêm trọng
theo quy định của Bộ luật Hình sự;
c)
Phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự.
2.
Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không được áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 của Luật này:
a)
Phạm tội nghiêm trọng về một trong các tội phạm sau đây: Tội hiếp dâm, Tội sản
xuất trái phép chất ma túy, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tội mua bán
trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt chất
ma túy;
b)
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm;
c)
Phạm tội nghiêm trọng do cố ý 02 lần trở lên hoặc phạm nhiều tội nghiêm trọng
do cố ý theo quy định của Bộ luật Hình sự;
d)
Phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy
định của Bộ luật Hình sự.
3.
Người chưa thành niên đã được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng mà phạm tội
mới.
Điều 39. Điều kiện
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
Người
chưa thành niên phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 37 của
Luật này có thể được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng khi có đủ các điều
kiện sau đây:
1.
Có chứng cứ xác định người chưa thành niên đã thực hiện hành vi phạm tội;
2.
Người chưa thành niên thừa nhận mình đã thực hiện hành vi phạm tội;
3.
Người chưa thành niên đồng ý bằng văn bản về việc xử lý chuyển hướng.
Điều 40. Khiển
trách
1.
Khiển trách là việc phê bình nghiêm khắc đối với người chưa thành niên phạm tội,
trong đó giải thích về thiệt hại mà người chưa thành niên đã gây ra và hậu quả
nếu tiếp tục vi phạm. Việc khiển trách được thi hành ngay tại phiên họp xem
xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, tại phiên tòa hoặc được
thi hành tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú.
2.
Khiển trách có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:
a)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội
ít nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự;
b)
Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
3.
Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp khiển trách phải thực hiện
nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này từ 03 tháng đến 01 năm.
Điều 41. Xin lỗi bị
hại
1.
Xin lỗi bị hại là việc người chưa thành niên phạm tội nhận lỗi với bị hại và
mong muốn được tha thứ về hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Việc xin lỗi bị hại được
thi hành ngay tại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng hoặc tại phiên tòa.
2. Xin lỗi bị hại có thể
được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ
trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật
này;
b) Người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng theo quy định
của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 51 của Luật này;
c) Người chưa thành niên
là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
3. Xin lỗi bị hại được áp
dụng khi có sự đồng thuận của bị hại hoặc người đại diện của họ.
4. Người chưa thành niên
phạm tội bị áp dụng biện pháp xin lỗi bị hại phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại
khoản 2 Điều 23 của Luật này từ 03 tháng đến 01 năm.
Điều 42. Bồi thường
thiệt hại
1.
Bồi thường thiệt hại là việc người chưa thành niên phạm tội hoặc cha, mẹ của họ
khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội mà người chưa thành niên gây ra bằng
cách đền bù tổn hại về vật chất, tinh thần do xâm hại đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của bị hại.
2.
Bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau
đây:
a)
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của
Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm a khoản
2 Điều 51 của Luật này;
b)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong
các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật này;
c)
Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
3.
Bồi thường thiệt hại được áp dụng khi có sự đồng thuận của bị hại hoặc người đại
diện của họ. Cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại nhưng không quá 01 năm.
4.
Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại phải
thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này từ 03 tháng đến 01
năm.
Điều 43. Giáo dục tại xã,
phường, thị trấn
1.
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là việc buộc người chưa thành niên phạm tội
phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư
trú về việc tuân thủ pháp luật, thực hiện nghĩa vụ công dân, chấp hành nội quy,
quy chế của nơi cư trú, nơi học tập, nơi làm việc.
2.
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thể được áp dụng đối với một trong các trường
hợp sau đây:
a)
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của
Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 và phạm một trong
các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật này;
b)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản
3 Điều 37 và phạm một trong các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật
này.
3.
Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và thực hiện nghĩa
vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này là từ 06 tháng đến 02 năm.
Điều 44. Quản thúc tại gia
đình
1.
Quản thúc tại gia đình là việc buộc người chưa thành niên phạm tội ở nhà dưới sự
giám sát trực tiếp của gia đình và chỉ được rời khỏi nhà trong trường hợp cần
thiết với sự cho phép của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng.
2.
Quản thúc tại gia đình có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau
đây:
a)
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của
Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 và phạm một trong
các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật này;
b)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý; phạm tội
nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản
3 Điều 37 và phạm một trong các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật
này.
3.
Quản thúc tại gia đình được áp dụng khi có đề nghị và cam kết của cha, mẹ, ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột hoặc chị ruột là người thành niên ở
cùng nhà với người chưa thành niên phạm tội. Người đề nghị phải bảo đảm có nơi
cư trú rõ ràng, có điều kiện cơ sở vật chất, có khả năng chăm sóc, giáo dục và
trực tiếp giám sát người chưa thành niên phạm tội.
4.
Thời hạn áp dụng biện pháp quản thúc tại gia đình và thực hiện nghĩa
vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này là từ 03 tháng đến 01 năm.
Điều 45. Hạn chế khung giờ
đi lại
1.
Hạn chế khung giờ đi lại là việc giới hạn người chưa thành niên phạm tội ra khỏi
nhà vào khung giờ nhất định trong khoảng thời gian từ 18 giờ ngày hôm trước đến
06 giờ sáng ngày hôm sau, trừ trường hợp cần thiết được người trực tiếp giám
sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cho phép.
2.
Thời hạn áp dụng biện pháp hạn chế khung giờ đi lại là từ 03 tháng đến 06
tháng.
Điều 46. Cấm
tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới
1.
Cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới là
việc cấm người chưa thành niên phạm tội giao tiếp, liên lạc, tiếp cận với bị hại,
đồng phạm, người có ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi của người chưa thành niên có
nguy cơ thúc đẩy người chưa thành niên phạm tội mới.
2.
Thời hạn áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa
thành niên phạm tội mới là từ 06 tháng đến 01 năm.
Điều 47. Cấm đến địa điểm
có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới
1.
Cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới là việc
cấm người chưa thành niên phạm tội đến địa điểm đã thực hiện hành vi phạm tội
hoặc địa điểm có môi trường tương tự như nơi đã thực hiện hành vi phạm tội có
nguy cơ thúc đẩy người chưa thành niên phạm tội mới.
2.
Thời hạn áp dụng biện pháp cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành
niên phạm tội mới là từ 06 tháng đến 01 năm.
Điều 48. Tham gia chương
trình học tập, dạy nghề
1.
Tham gia chương trình học tập, dạy nghề là việc người chưa thành niên phạm tội
phải học tập về pháp luật, đạo đức, nghĩa vụ công dân, kỹ năng ứng xử, kỹ năng
sống hoặc học nghề.
2.
Cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp được cơ quan tiến hành tố tụng lựa
chọn có trách nhiệm đào tạo, giáo dục người chưa thành niên và phối hợp với người
trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thi
hành biện pháp này.
3.
Thời hạn áp dụng biện pháp tham gia chương trình học tập, dạy nghề là không quá
01 năm.
4.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 49.
Tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý
1.
Điều trị hoặc
tư vấn tâm lý là việc trị liệu, can thiệp y tế nhằm khắc phục những trở ngại về
tinh thần, cảm xúc, tâm trạng, tình trạng sức khỏe là nguyên nhân dẫn tới hành
vi phạm tội của người chưa thành niên.
2. Cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh và tổ chức khác có chức năng điều trị hoặc tư vấn tâm lý được cơ quan tiến
hành tố tụng lựa chọn có trách nhiệm thực hiện các biện pháp nghiệp vụ chuyên
môn để trị liệu, can thiệp cho người chưa thành niên và phối hợp với người trực
tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thi hành
biện pháp này.
3. Thời hạn áp dụng biện
pháp tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý là không quá 01 năm.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 50. Thực hiện công việc
phục vụ cộng đồng
1.
Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là thực hiện công việc trực tiếp phục vụ
cho lợi ích của cộng đồng nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú, bao gồm:
a)
Tham gia trồng, chăm sóc cây xanh ở khu vực công cộng; sửa chữa, làm sạch đường
làng, ngõ xóm, đường phố, ngõ phố, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc
công trình công cộng khác;
b)
Tham gia công việc khác nhằm cải thiện môi trường sống và cảnh quan của cộng đồng;
c) Tham gia hỗ trợ giúp đỡ
người cao tuổi, người khuyết tật, người có hoàn cảnh đặc biệt hoặc các hoạt động
tình nguyện khác nhằm tăng cường ý thức, trách nhiệm, sự gắn kết, chia sẻ với cộng
đồng.
2. Tổng thời gian thực hiện
biện pháp thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là từ 20 giờ đến 80 giờ. Việc
thực hiện công việc phục vụ cộng đồng không được quá 04 giờ trong 01 ngày,
không được quá 05 ngày trong 01 tuần, không được thực hiện vào thời gian từ 20
giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.
3. Việc tổ chức thi hành
biện pháp thực hiện công việc phục vụ cộng đồng phải bảo đảm an toàn, tránh bị
kỳ thị và ảnh hưởng đến việc học tập của người chưa thành niên.
4.
Thời hạn áp dụng biện pháp thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là không quá
03 tháng.
Điều 51. Giáo dục
tại trường giáo dưỡng
1.
Giáo dục tại trường giáo dưỡng là việc buộc người chưa thành niên phạm tội học
văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục trong một
tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
2.
Giáo dục tại trường giáo dưỡng có thể được áp dụng đối với một trong các trường
hợp sau đây:
a)
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng về một trong
các tội phạm sau đây: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, Tội mua bán người, Tội mua bán người dưới 16 tuổi, Tội cướp tài sản,
Tội cướp giật tài sản, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái
phép chất ma túy, Tội mua bán trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt chất ma
túy, trừ trường hợp người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không
đáng kể trong vụ án;
b)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng về một trong các tội
phạm sau đây: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, Tội cướp giật tài sản, trừ trường hợp người chưa thành niên là người đồng
phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án;
c)
Các trường hợp khác cần phải áp dụng, do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm
tội, do nhân thân và môi trường sống của người chưa thành niên phạm tội;
d)
Trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật này.
3.
Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là từ 06 tháng đến 02
năm.
Chương IV
THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG
Mục 1
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 52. Thẩm quyền
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, trừ
trường hợp vụ án có yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc phải giải
quyết vấn đề tịch thu tài sản.
2. Thẩm phán, Hội đồng
xét xử có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại Điều
36 của Luật này.
Điều 53. Yêu cầu
người làm công tác xã hội tham gia tố tụng
1.
Ngay sau khi khởi tố bị can là người chưa thành niên, Cơ quan điều tra phải có
văn bản yêu cầu người làm công tác xã hội trong danh sách quy định tại khoản 5
Điều 32 của Luật này tham gia tố tụng. Trường hợp cần thiết có thể yêu cầu trực
tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi
yêu cầu bằng văn bản.
2.
Việc lựa chọn người làm công tác xã hội theo thứ tự ưu tiên sau đây:
a)
Công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội cư trú cùng địa bàn
đơn vị hành chính cấp xã với người chưa thành niên;
b)
Công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội cư trú cùng địa bàn
đơn vị hành chính cấp huyện với người chưa thành niên;
c)
Người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã hoặc công chức văn hóa - xã hội cấp xã
nơi người chưa thành niên cư trú;
d)
Người làm công tác xã hội khác theo quy định của pháp luật.
3.
Trong thời hạn 01 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Cơ quan điều tra, người
làm công tác xã hội phải trả lời bằng văn bản về việc tham gia tố tụng. Trường
hợp cần thiết có thể thông báo trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện
tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi văn bản.
4.
Trong thời hạn 01 ngày kể từ ngày người làm công tác xã hội xác nhận tham gia tố
tụng, Cơ quan điều tra phải có văn bản thông báo về việc tham gia tố tụng và gửi
cho họ. Thông báo này phải có nội dung yêu cầu người làm công tác xã hội xây dựng
báo cáo điều tra xã hội về người chưa thành niên là bị can.
Văn
bản thông báo về việc tham gia tố tụng của người làm công tác xã hội có giá trị
trong suốt quá trình tố tụng.
5.
Người làm công tác xã hội là người tham gia tố tụng kể từ khi có văn bản thông
báo về việc tham gia tố tụng.
Điều 54. Xây dựng
báo cáo điều tra xã hội
1.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc tham gia tố tụng,
người làm công tác xã hội phải hoàn thành báo cáo điều tra xã hội về người chưa
thành niên là bị can và gửi cho Cơ quan điều tra.
2.
Báo cáo điều tra xã hội phải có các nội dung chính sau đây:
a)
Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của
người chưa thành niên;
b)
Họ và tên, nơi cư trú của người đại diện của người chưa thành niên;
c)
Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người làm công tác xã hội;
d)
Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống của người chưa thành niên;
đ)
Mức độ trưởng thành của người chưa thành niên;
e)
Tình trạng sức khỏe của người chưa thành niên;
g)
Tình hình học tập, trình độ văn hóa, nghề nghiệp của người chưa thành niên;
h)
Các yếu tố có thể là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành
niên;
i)
Địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới, người có ảnh hưởng
tiêu cực đến hành vi của người chưa thành niên (nếu có);
k)
Đề xuất áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng (nếu có).
3.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin về
người chưa thành niên là bị can khi người làm công tác xã hội đề nghị.
4.
Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người làm công tác xã hội xây dựng
báo cáo điều tra xã hội bổ sung trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Điều 55. Xem xét việc áp dụng thủ tục xử lý
chuyển hướng
1.
Trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận được báo cáo điều tra xã hội; trong thời
hạn 07 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố, Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và bản cáo trạng thì Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc
Thẩm phán phải căn cứ vào quy định tại các điều 35, 37, 38 và 39 của Luật này để
ra thông báo áp dụng hoặc không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng.
2. Thông báo áp dụng hoặc
không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:
a) Số, ngày, tháng, năm
ra thông báo;
b) Tên cơ quan ra thông
báo;
c) Họ và tên của Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc
Thẩm phán ra thông báo;
d) Họ và tên, ngày,
tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú, nghề nghiệp,
trình độ văn hóa của người chưa thành niên là bị can;
đ) Họ và tên, nơi làm việc
(nếu có) của người bào chữa;
e) Lý do, căn cứ ra thông
báo;
g) Áp dụng hoặc không áp
dụng thủ tục xử lý chuyển hướng;
h) Nơi nhận thông báo.
3. Thông báo áp dụng hoặc
không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng được gửi cho người chưa thành niên là
bị can, người đại diện của họ, người bào chữa, người làm công tác xã hội và Viện
kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra thông báo.
4. Ngay sau khi ra thông
báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
giải quyết như sau:
a) Nếu xét thấy người
chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng thì có văn bản yêu cầu người làm công tác xã hội xây dựng kế hoạch xử
lý chuyển hướng, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này.
Văn bản yêu cầu phải có
các thông tin về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của người chưa thành niên
và các thông tin khác cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng;
b) Nếu xét thấy người
chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng mà hồ sơ vụ án đã có kế hoạch xử lý chuyển hướng, thì Viện kiểm sát,
Tòa án xem xét mở phiên họp theo quy định tại Điều 59 của Luật này khi thấy
không cần thiết phải bổ sung hoặc xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng mới;
c) Nếu xét thấy người
chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có văn bản, kèm theo hồ sơ vụ án
đề nghị Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng.
Trường hợp tự xét thấy
người chưa thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng thì Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng.
5. Trong quá trình áp dụng
thủ tục xử lý chuyển hướng, nếu vụ án có yêu cầu về bồi thường thiệt hại hoặc
phải giải quyết vấn đề tịch thu tài sản thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có
văn bản, kèm theo hồ sơ vụ án đề nghị Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc tịch thu
tài sản.
6. Trường hợp Cơ quan điều
tra đề nghị Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
theo quy định tại điểm c khoản 4 và khoản 5 Điều này thì Cơ quan điều tra phải
thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
7. Việc áp dụng thủ tục xử
lý chuyển hướng không làm chấm dứt các hoạt động tố tụng cần thiết để giải quyết
vụ án.
Trường hợp vụ án hình sự
đang áp dụng thủ tục rút gọn mà có người chưa thành niên thuộc trường hợp được
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và giải quyết vụ án
theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.
8. Khi ra thông báo không
áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật
này.
9. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết tại các khoản 4,
5 và 7 Điều này.
Điều 56. Quyết định về việc áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng
1.
Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải có các nội dung
chính sau đây:
a)
Số, ngày, tháng, năm ra quyết định;
b)
Tên cơ quan ra quyết định;
c)
Họ và tên của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ra quyết định;
d)
Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú,
nghề nghiệp, trình độ văn hóa của người chưa thành niên;
đ)
Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người bào chữa;
e)
Tội danh, điều, khoản, điểm của Bộ luật Hình sự được áp dụng;
g)
Lý do, căn cứ ra quyết định;
h)
Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Trường
hợp áp dụng thì nêu tên biện pháp xử lý chuyển hướng, thời hạn áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng, thời hạn thực hiện nghĩa vụ, đình chỉ điều tra vụ án đối
với bị can hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can được áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng và việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu,
đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và các vấn đề khác có liên
quan;
i)
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành quyết định;
k)
Hiệu lực của quyết định;
l)
Nơi nhận quyết định.
2.
Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực thi hành kể
từ ngày công bố.
Quyết
định này có thể bị khiếu nại, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 151 của
Luật này; có thể bị kiến nghị, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này và
khoản 6 Điều 151 của Luật này.
b) Gửi quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và bản sao Báo cáo điều tra
xã hội cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên cư trú;
c) Gửi quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại cho cơ quan thi hành
án dân sự.
4.
Trường hợp quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của
Cơ quan điều tra không có căn cứ, trái pháp luật thì trong thời hạn 05 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định, Viện kiểm sát giải quyết như sau và nêu rõ lý do:
a)
Ra quyết định hủy quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và yêu cầu Cơ
quan điều tra tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố
tụng hình sự;
b)
Ra quyết định hủy quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và yêu cầu Cơ quan điều tra mở lại phiên họp
xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, trừ trường hợp quy định
tại điểm c khoản này.
Trong
thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định quy định tại điểm này, Cơ quan
điều tra phải mở lại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng;
c)
Trường hợp hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố đã chuyển cho
Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng theo quy định của Luật này.
5.
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Tòa án thực hiện như sau:
a)
Giao quyết định cho người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ; gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị hại; gửi cho cơ quan đề nghị áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng (nếu có);
b)
Gửi quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và bản
sao báo cáo điều tra xã hội cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
nơi người chưa thành niên cư trú;
c)
Trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã đề nghị trong trường hợp
Tòa án không chấp nhận đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Luật này.
Điều 57. Giải quyết trường hợp
người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng phạm tội khác
Trường hợp người
chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành
vi phạm tội khác thì không bị truy cứu về hành vi phạm tội đã bị áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng.
Mục 2
THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG TẠI CỘNG ĐỒNG
Điều 58. Xây dựng
kế hoạch xử lý chuyển hướng
1.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, người làm công tác xã hội phải xây dựng kế hoạch xử lý chuyển
hướng và gửi đến cơ quan đã yêu cầu.
2.
Kế hoạch xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:
a)
Biện pháp xử lý chuyển hướng đề xuất áp dụng;
b)
Thời gian, địa điểm thực hiện;
c)
Quyền, nghĩa vụ của người chưa thành niên theo quy định tại Điều 23 của Luật
này;
d)
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
3.
Trường hợp cần thiết, người làm công tác xã hội đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng
đang thụ lý vụ án cung cấp thông tin hoặc tổ chức cuộc họp để xây dựng kế hoạch
xử lý chuyển hướng. Cuộc họp do người làm công tác xã hội chủ trì, có sự tham
gia của người đại diện của người chưa thành niên là bị can và có thể có sự tham
gia của người chưa thành niên là bị can, bị hại hoặc người đại diện của bị hại.
Trường hợp đề xuất áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng tham gia chương trình học tập, dạy nghề, tham gia điều trị hoặc tư
vấn tâm lý đối với người chưa thành niên thì người làm công tác xã hội phải phối
hợp, thống nhất với cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan để xác định cụ thể nội dung,
chương trình học tập, học nghề, điều trị, tư vấn tâm lý phù hợp với người chưa
thành niên.
4.
Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người làm công tác xã hội xây dựng
kế hoạch xử lý chuyển hướng bổ sung trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Điều 59. Quyết định
mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng
đồng
1.
Trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày nhận được kế hoạch xử lý chuyển hướng hoặc kể từ ngày ra thông báo áp dụng thủ tục xử
lý chuyển hướng nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 55 của Luật
này, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
2.
Quyết định mở phiên họp phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết
định, tên cơ quan ra quyết định;
b) Ngày, tháng, năm,
địa điểm mở phiên họp trực tiếp hoặc trực tuyến;
c) Họ và tên, ngày,
tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của người chưa
thành niên là
bị can;
d) Họ và tên, nơi cư
trú của người đại diện của người chưa thành niên là bị can;
đ) Họ và tên của Thủ
trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát, Thẩm phán chủ trì phiên họp; Thư ký phiên họp;
e) Họ và tên của Kiểm
sát viên tham gia phiên họp trong trường hợp Cơ quan điều tra, Tòa án mở
phiên họp;
g) Họ và tên, nơi
làm việc (nếu
có) của người bào chữa;
h) Họ và tên, nơi làm việc
(nếu có) của người làm công tác xã hội;
i) Họ và tên người
phiên dịch (nếu có);
k) Họ và tên những
người khác được yêu cầu tham gia phiên họp (nếu có).
3.
Thành phần tham gia phiên họp gồm:
a)
Người tiến hành phiên họp: Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện
trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Thẩm phán; Thư ký phiên họp;
b)
Người tham gia phiên họp: Kiểm sát viên tham gia phiên họp trong trường hợp Cơ quan
điều tra, Tòa án mở phiên họp; Điều tra viên trong trường hợp Viện kiểm sát mở phiên họp;
c)
Người khác tham gia phiên họp: người chưa thành niên là bị can, người đại diện,
người bào chữa của họ; người làm công tác xã hội; bị hại (nếu có);
d) Trường hợp cần thiết,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu người giám định, người phiên dịch,
người dịch thuật, chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở
giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi người chưa thành niên là bị can học tập,
đại diện cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên là bị can làm việc, đại diện Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận nơi người
chưa thành niên cư trú và những người khác tham gia phiên họp.
4.
Quyết định mở
phiên họp phải được gửi cho những người quy định tại điểm c khoản 3 Điều
này, Viện kiểm sát cùng cấp, Cơ quan điều tra trong trường hợp Viện kiểm sát mở
phiên họp ngay sau khi ra quyết định. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng được tổ chức trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày ra
quyết định mở phiên họp.
Điều 60. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
1.
Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp kiểm tra sự có mặt của những người
được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu tham gia phiên họp; nếu có
người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo người chủ trì phiên họp để xem xét tiếp
tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp.
2.
Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:
a)
Người chủ
trì phiên họp khai mạc phiên họp;
b) Người làm công
tác xã hội trình bày kế hoạch xử lý chuyển hướng;
c) Người chưa thành
niên là bị
can, người đại diện của họ trình bày ý kiến;
d) Người bào chữa
trình bày ý kiến;
đ) Những người khác
tham gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ các vấn đề có liên quan;
e)
Người chủ
trì phiên họp điều hành việc hỏi để làm rõ các vấn đề có liên quan;
g)
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến;
h)
Người chủ
trì phiên họp quyết
định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và công bố nội
dung quyết định ngay tại phiên họp.
Nếu xét thấy người chưa
thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc
phát sinh yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc phải giải quyết vấn
đề tịch thu tài sản thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có văn bản, kèm theo hồ
sơ vụ án đề nghị Tòa án xem xét, quyết định.
Nếu xét thấy người chưa
thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
thì Thẩm phán ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
3.
Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
phải được tổ
chức thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên. Việc hỏi người chưa thành niên phải phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức và mức
độ trưởng thành của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, không hỏi
nhiều vấn đề cùng một lúc. Người đại diện của người chưa thành niên có thể hỗ
trợ họ tại phiên họp.
4.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xem xét hoãn phiên họp khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Người phiên dịch
vắng mặt mà không có người khác thay thế ngay được;
b) Người chưa thành
niên là bị
can, người đại diện của họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng.
5.
Thời hạn hoãn phiên họp là không quá 05 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn. Quyết định
hoãn phiên họp phải được thông báo ngay cho những người có mặt tại phiên họp; gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên họp trong thời hạn
03 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Điều 61. Biên bản
phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
1.
Biên bản phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp; thành phần tham gia phiên
họp; nội dung, diễn biến phiên họp; quyết định của người chủ trì phiên họp.
2.
Sau khi kết thúc phiên họp, người chủ trì phiên họp phải kiểm tra biên bản, cùng với Thư ký
phiên họp ký vào biên bản.
Điều
62. Thủ tục Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng theo đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
1.
Ngay sau khi nhận được văn bản đề nghị, kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 5 Điều 55 và điểm h khoản 2 Điều 60
của Luật này, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán giải quyết. Trong thời
hạn 03 ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán giải quyết như sau:
a)
Trường hợp hồ sơ vụ án đã có kế hoạch xử lý chuyển hướng thì ra quyết định mở
phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng,
trừ trường hợp phải yêu cầu bổ sung tài liệu;
b)
Trường hợp hồ sơ vụ án chưa có kế hoạch xử lý chuyển hướng thì yêu cầu người
làm công tác xã hội xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng theo quy định tại Điều
58 của Luật này. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được kế hoạch xử lý
chuyển hướng, Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
2.
Trường hợp bị
can đang bị tạm giam thì Chánh án, Phó Chánh án xem xét, quyết định việc tiếp tục
tạm giam hoặc hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của
Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thời hạn áp dụng biện
pháp ngăn chặn là cho đến khi Tòa án công bố quyết định về việc áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng.
3.
Quyết định mở phiên họp, thành phần phiên họp, thời gian mở phiên họp, hoãn
phiên họp, biên bản phiên họp và việc yêu cầu bổ sung tài liệu được thực hiện
theo quy định tương ứng tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 64, Điều 65, khoản 4, khoản
5 Điều 66 và Điều 67 của Luật này.
4.
Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp phải kiểm tra sự có mặt của những
người được Tòa án yêu cầu tham dự phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm
rõ lý do và báo cáo Thẩm phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn
phiên họp. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:
a) Thẩm phán khai mạc
phiên họp;
b) Đại diện cơ quan đề
nghị trình bày nội dung đề nghị;
c) Người làm công tác xã
hội trình bày kế hoạch xử lý chuyển hướng;
d) Người chưa thành niên
là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ trình bày ý kiến;
đ) Những người khác tham
gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ các vấn đề có liên quan;
e) Thẩm phán hỏi đại diện
cơ quan đề nghị, người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ và những
người khác tham gia phiên họp để làm rõ các vấn đề có liên quan;
g) Người chưa thành niên
là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ tranh luận các vấn đề có liên
quan. Việc tranh luận được tiến hành theo sự điều hành của Thẩm phán. Người
tham gia tranh luận có quyền đối đáp lại ý kiến của người khác. Thẩm phán không
được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho họ tranh luận, trình
bày hết ý kiến; có quyền yêu cầu dừng những ý kiến không liên quan và ý kiến lặp
lại;
h) Kiểm sát viên phát biểu
ý kiến;
i) Thẩm phán quyết định
áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng hoặc áp dụng
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc
trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, giải quyết vấn đề
bồi thường thiệt hại hoặc tịch thu tài sản và công bố nội dung quyết định ngay tại phiên
họp.
Việc quyết định tạm giam
đối với người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 66 của Luật này.
5. Phiên họp xem xét, quyết
định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải được tổ chức thân thiện
theo quy định tại khoản 3 Điều 60 của Luật này.
6.
Trong thời hạn
05 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử
lý chuyển hướng, Tòa án thực hiện như sau:
a)
Giao quyết định cho người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ; gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp, bị hại, cơ quan đề nghị;
b) Gửi quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và bản sao báo cáo điều tra xã hội
cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên cư trú;
c) Gửi quyết định cho
cơ quan thi
hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng;
d) Gửi quyết định áp dụng
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và bản sao báo cáo điều tra xã hội cho
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú;
đ) Trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát đã đề nghị trong trường hợp không chấp nhận đề nghị áp dụng biện pháp
xử lý chuyển hướng để tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự và Luật này.
Mục 3
THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Điều 63. Xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.
Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
trong các trường hợp sau đây:
a)
Theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát quy định tại điểm c khoản
4 Điều
55 và điểm h
khoản 2 Điều 60 của Luật này;
b) Tòa án tự mình
xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng theo quy định của Luật này.
2. Ngay sau khi nhận
được văn bản đề nghị, kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm
phán giải quyết.
3. Trường hợp bị can đang
bị tạm giam thì Chánh án, Phó Chánh án xem xét, quyết định việc tiếp tục tạm
giam hoặc hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Luật
này và Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thời hạn áp dụng biện
pháp ngăn chặn là cho đến khi Tòa án công bố quyết định về việc áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Điều 64. Quyết định
mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.
Trong thời hạn 07
ngày kể từ ngày
được phân công theo quy định tại khoản 2 Điều 63 của Luật này hoặc trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 63 của Luật này
thì Thẩm phán phải ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Luật này.
2.
Quyết định mở phiên họp phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra
quyết định, tên Tòa án ra quyết định;
b) Ngày, tháng, năm,
địa điểm mở phiên họp trực tiếp hoặc trực tuyến;
c)
Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của
người chưa thành niên là bị can;
d)
Họ và tên, nơi cư trú của người đại diện của người chưa thành niên là bị can;
đ)
Tên cơ quan đề nghị;
e) Họ và tên Thẩm
phán, Thư ký phiên họp;
g) Họ và tên Kiểm
sát viên tham
gia phiên họp;
h) Họ và tên, nơi
làm việc (nếu
có) của người bào chữa;
i) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có)
của người làm công tác xã hội;
k) Họ và tên người phiên
dịch (nếu có);
l) Họ và tên những
người khác được yêu cầu tham gia phiên họp (nếu có).
3.
Thành phần phiên họp gồm:
a)
Người tiến hành phiên họp: Thẩm phán, Thư ký phiên họp;
b)
Người tham gia phiên họp: đại diện cơ quan đề nghị, Kiểm sát viên tham gia phiên
họp;
c)
Người khác tham gia phiên họp: người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa
của họ;
người làm công tác xã hội; bị hại (nếu có);
d)
Trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định, người phiên dịch, người dịch
thuật, chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục,
cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi người chưa thành niên học tập, đại diện cơ quan,
tổ chức nơi người chưa thành niên làm việc, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận nơi người chưa thành niên cư
trú và những người khác tham gia phiên họp.
Điều 65. Yêu cầu bổ sung tài liệu
1.
Thẩm phán yêu cầu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát bổ sung tài liệu
trong trường hợp hồ sơ vụ án có tài liệu chưa rõ hoặc có mâu thuẫn
cần bổ sung, làm rõ.
2.
Văn bản yêu cầu phải nêu rõ tài liệu cần bổ sung và lý do của việc yêu cầu bổ
sung.
3.
Trong thời hạn
05
ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, cơ quan được yêu cầu phải gửi tài
liệu bổ sung cho Tòa án. Trường hợp không bổ sung được tài liệu thì phải trả lời
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 66. Phiên họp
xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.
Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp phải kiểm tra sự có mặt của những
người được Tòa án yêu cầu tham dự phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm
rõ lý do và báo cáo Thẩm phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn
phiên họp.
2.
Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:
a)
Thẩm phán khai mạc phiên họp;
b) Đại diện cơ quan
đề nghị trình bày nội dung đề nghị;
c) Người chưa thành
niên là bị
can, người đại diện, người bào chữa của họ trình bày ý kiến;
d) Người làm công
tác xã hội tham gia phiên họp trình bày báo cáo điều tra xã hội;
đ) Những người khác
tham gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ các vấn đề có liên quan;
e) Thẩm phán hỏi đại
diện cơ quan đề nghị, người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ và
những người khác tham gia phiên họp để làm rõ các vấn đề có liên quan;
g) Người chưa thành
niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ tranh luận các vấn đề có
liên quan với đại diện cơ quan đề nghị. Việc tranh luận được tiến hành theo sự
điều hành của Thẩm phán. Người tham gia tranh luận có quyền đối đáp lại ý kiến
của người khác. Thẩm phán không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều
kiện cho họ tranh luận, trình bày hết ý kiến; có quyền yêu cầu dừng những ý kiến
không liên quan và ý kiến lặp lại;
h) Kiểm sát viên
phát biểu ý kiến;
i) Thẩm phán quyết định
áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và công bố
nội dung quyết định ngay tại phiên họp.
3.
Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
phải được tổ chức thân thiện theo quy định tại khoản 3 Điều 60 của Luật này.
4. Tòa án xem xét hoãn phiên họp khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a)
Đại diện cơ
quan đề nghị vắng mặt;
b)
Người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế ngay được;
c)
Người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng.
5.
Thời hạn hoãn phiên họp là không quá 05 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn. Quyết định
hoãn phiên họp phải được thông báo ngay cho những người có mặt tại phiên họp; gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên họp trong thời hạn
03 ngày kể từ ngày ra quyết định.
6. Thẩm phán quyết định tạm
giam người chưa thành niên cho đến khi cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện bàn giao họ vào trường giáo dưỡng nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Người chưa thành niên
đang bị tạm giam nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
b) Người chưa thành niên
không bị tạm giam nhưng có căn cứ cho thấy họ có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
Điều 67. Biên bản
phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.
Biên bản phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp; thành phần tham
gia phiên họp; nội dung, diễn biến phiên họp; quyết định của Thẩm phán.
2.
Sau khi kết thúc phiên họp, Thẩm phán phải kiểm tra biên bản, cùng với Thư ký
phiên họp ký vào biên bản.
Điều 68. Giải quyết
trường hợp Tòa án không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1. Trường hợp Tòa án
không chấp nhận đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát để tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự và Luật này.
2. Trường hợp Tòa án tự mở phiên họp xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mà người chưa thành
niên là bị can không được áp dụng biện pháp này thì Tòa án tiếp tục giải quyết
vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này.
Mục 4
KHIẾU NẠI, KIẾN NGHỊ QUYẾT ĐỊNH VỀ VIỆC
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG
Điều 69. Người có
quyền khiếu nại, kiến nghị quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng
1. Khi có căn cứ cho rằng
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng trái pháp luật thì thẩm quyền kiến nghị được thực hiện
như sau:
a) Cơ quan điều tra tham
gia phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có quyền kiến nghị
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng của Viện kiểm sát, Tòa án;
b) Viện kiểm sát cùng cấp
có quyền kiến nghị quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng của Tòa án, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều
151 của Luật này.
2. Bị can là
người chưa thành niên, bị hại, người đại diện của họ có quyền khiếu nại quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Điều 70. Thời hạn
khiếu nại, kiến nghị
Thời
hạn khiếu nại, kiến nghị là 05 ngày kể từ ngày công bố hoặc nhận được quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Trường
hợp vì lý do
bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà người có quyền khiếu nại không thực hiện
được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan đó không tính vào thời hạn khiếu nại.
Điều 71. Thẩm quyền
và thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị
1.
Khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định
không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được khiếu nại.
Khiếu
nại đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra do Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được khiếu nại.
2.
Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng,
quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét, giải quyết trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
Khiếu
nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định
không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết trong thời hạn 05
ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
Khiếu
nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định
không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
3.
Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng,
quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Thẩm phán do Chánh án
Tòa án xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
Khiếu nại, kiến nghị đối
với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng của Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án do Chánh án Tòa
án trên một cấp xem xét, giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được
khiếu nại, kiến nghị.
Điều 72. Giải quyết
khiếu nại, kiến nghị
1.
Trong thời hạn
quy định tại Điều 71 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, kiến nghị phải ra một trong các quyết định sau đây:
a)
Chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và hủy quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng để tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật
này;
b)
Chấp nhận
khiếu nại, kiến nghị và hủy quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và yêu cầu cơ quan, người có thẩm
quyền mở lại phiên họp xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Trong thời hạn 05 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị thì cơ quan, người
có thẩm quyền phải mở lại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng;
c) Không chấp nhận
khiếu nại, kiến nghị và giữ nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc quyết
định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
2. Trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày ra quyết định, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị phải
gửi quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị cho người đã khiếu nại, kiến nghị, Viện kiểm sát
cùng cấp, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; người
chưa thành niên và người đại diện của họ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú
trong trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
3. Quyết định giải quyết
khiếu nại, kiến nghị có hiệu lực pháp luật và là quyết định cuối cùng.
4. Trường hợp hồ sơ vụ án
và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố đã chuyển cho Viện kiểm sát thì người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quy định tại khoản 1 Điều 71 của Luật này ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại.
Trường hợp hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đã
chuyển cho Tòa án thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị quy định
tại khoản 2 Điều 71 của Luật này ra quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại,
kiến nghị.
Chương V
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG
Mục 1
BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG TẠI CỘNG ĐỒNG
Điều 73. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc thi hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng
1.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng
cư trú có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a)
Tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
b)
Quyết định danh
sách người giám sát thi hành
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại địa phương; phân
công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng;
c)
Chỉ đạo tổ chức các chương trình dạy nghề, tìm việc làm, các chương trình tham vấn,
phát triển kỹ năng sống, các dịch vụ y tế, xã hội, hoạt động cộng đồng trên địa
bàn để tạo điều kiện cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng tham
gia;
d)
Hỗ trợ cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng được hưởng đầy đủ quyền
ưu tiên và
các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người chưa thành niên theo
quy định;
đ)
Phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức
nơi người chấp
hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng học tập, làm việc giám
sát, giáo dục người đó;
e)
Chỉ đạo lập dự toán kinh phí cho việc thực hiện các biện pháp xử lý chuyển hướng,
trình cấp có thẩm quyền quyết định;
g)
Báo cáo cơ quan tiến hành tố tụng đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng về kết quả chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng;
h)
Tổ chức tập huấn cho người giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng hoặc
cử họ tham gia các chương trình tập huấn;
i) Nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.
2.
Công an xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Công an cấp xã) làm đầu mối, tham mưu giúp
Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều
này và có
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Lập và quản lý hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử
lý chuyển hướng;
b) Đề xuất Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã quyết định danh sách người giám
sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại địa phương theo thứ tự ưu tiên sau đây: người làm công tác
xã hội; cộng tác viên công tác xã hội cấp xã; đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có uy tín trong cộng đồng
dân cư có đạo đức tốt, có điều kiện, khả năng và kinh nghiệm trong việc giáo dục,
giúp đỡ người chưa thành niên;
c) Đề xuất Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã quyết định phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng;
d) Phối hợp với người
trực tiếp
giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, gia đình và các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành
biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
đ) Hướng dẫn, giúp đỡ người
chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện các thủ
tục đăng ký thường trú, tạm trú, lưu trú, khai báo tạm vắng, cấp mới, cấp đổi
hoặc cấp lại thẻ căn cước; theo dõi việc vắng mặt tại nơi cư trú, chuyển nơi cư
trú của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
e) Tiếp nhận người chấp
hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng từ nơi khác chuyển đến lưu trú hoặc tạm trú
trong thời gian vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú và nhận xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật
trong thời gian người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng lưu trú, tạm trú tại
địa phương;
g) Định kỳ hoặc khi có
yêu cầu, tổng hợp số liệu, đánh giá tình hình, kết quả thi hành quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng trong phạm vi thẩm quyền, báo cáo Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã và cơ quan có thẩm quyền;
h) Nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Phối hợp với cơ quan,
người có thẩm quyền, gia đình trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp
xử lý chuyển hướng;
b) Triển khai biện pháp xử
lý chuyển hướng đã được áp dụng hoặc cung cấp các dịch vụ cần thiết để hỗ trợ
người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
c) Giúp đỡ và tạo điều kiện
cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện và
hoàn thành nghĩa vụ;
d) Đánh giá tình hình chấp
hành, hiệu quả của các biện pháp xử lý chuyển hướng mà mình triển khai đối với
người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và đề xuất giải
pháp (nếu có) gửi người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng.
4. Việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng bồi thường thiệt hại của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát được quy
định như sau:
a) Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện thi hành quyết
định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp;
b) Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thi hành quyết
định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Cơ quan điều tra Bộ Công
an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
c) Thủ tục thi hành quyết định quy định tại khoản
này được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
5.
Cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có trách nhiệm
theo dõi việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
6. Chính phủ quy định
chi tiết các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
Điều
74. Tính thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Thời hạn chấp hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8 và 11 Điều 36 của Luật này được tính từ ngày người chấp hành biện pháp
xử lý chuyển hướng tại cộng đồng có mặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã để
nghe thông báo về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
2. Thời hạn chấp hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại khoản 9 và khoản 10 Điều
36 của Luật này được tính từ ngày cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp hoặc
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc tổ chức có chức năng điều trị hoặc tư vấn tâm
lý tiếp nhận họ.
Điều 75.
Lựa chọn, thay thế người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng
1. Ngay sau khi nhận
được quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã chuyển
quyết định này cho Công an cấp xã để thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền.
2. Trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng,
Công an cấp xã, căn cứ vào điều kiện,
hoàn cảnh của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, năng lực, khối lượng
công việc của các cá nhân thuộc danh sách quy định tại điểm b khoản 1 Điều
73 của Luật này, đề xuất người trực tiếp giám sát thi hành
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo thứ tự ưu tiên sau đây:
a) Người làm công tác xã hội;
b) Cộng tác viên công tác xã hội cấp xã;
c) Đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có uy tín trong cộng đồng dân cư có đạo
đức tốt, có điều kiện, khả năng và kinh nghiệm trong việc giáo dục, giúp đỡ người
chưa thành niên.
3. Ngay sau khi nhận
được đề xuất của Công an cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định
phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng. Một
người có thể được phân công trực tiếp giám sát nhiều người nhưng không quá 03
người trong cùng một thời điểm.
Quyết định này phải được gửi ngay cho Công an
cấp xã, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng và người đại diện của họ.
4. Trong quá trình giám sát thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, nếu người trực tiếp giám sát thi hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không có điều kiện để tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ được phân công thì Công an cấp xã
phải kịp thời đề xuất người khác thay thế, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã xem xét, quyết định.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 76. Thông báo
về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Trong thời hạn 02 ngày
làm việc kể từ ngày phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã triệu tập người
chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; mời người đại diện của
người đó, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng, Công an cấp xã và đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
để thông báo về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
2. Việc thông báo gồm các
nội dung sau đây:
a) Quyền và nghĩa vụ của
người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
b) Người trực tiếp giám
sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và trách nhiệm của
họ;
c) Trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và gia đình trong việc thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
3. Thông báo về việc thi
hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải được lập thành biên bản
và lưu vào hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Điều
77. Cam kết của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
1.
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải làm bản cam kết
về việc chấp hành các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này và gửi
cho người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng.
2.
Cam kết của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải có
ý kiến của cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ.
Điều 78. Trách nhiệm
của gia đình trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Động viên, khuyến
khích người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng chấp hành pháp luật,
thực hiện nghĩa vụ.
2. Có biện pháp cụ thể quản
lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng trong sinh hoạt, học
tập, làm việc; khuyến khích, tạo điều kiện cho họ tham gia các phong trào, hoạt
động đoàn thể, hoạt động cộng đồng, các chương trình tham vấn, phát triển kỹ
năng sống (nếu có) tại nơi cư trú.
3. Phối hợp với Ủy ban
nhân dân cấp xã, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp
xử lý chuyển hướng, các tổ chức, đoàn thể ở địa phương để quản lý, giáo dục,
giúp đỡ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
4. Thông báo kết quả thi
hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cho người trực tiếp giám
sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và Ủy ban nhân dân
cấp xã khi có yêu cầu.
5. Phối hợp với cơ sở
giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tổ chức nơi người chấp hành biện pháp xử
lý chuyển hướng tại cộng đồng đang học tập, học nghề, làm việc để quản lý, động viên, giúp đỡ họ.
6. Cha, mẹ hoặc người
giám hộ của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật.
7. Phải có mặt khi người
có thẩm quyền lập biên bản vi phạm nghĩa vụ của người chấp hành biện pháp xử lý
chuyển hướng tại cộng đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 82 của Luật này.
Điều 79. Trách nhiệm
và quyền của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử
lý chuyển hướng
1.
Người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
có trách nhiệm sau đây:
a)
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử
lý chuyển hướng;
b)
Yêu cầu người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng viết cam kết
theo quy định tại Điều 77 của Luật này;
c)
Hướng dẫn người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của họ;
d)
Liên hệ với các cơ quan, tổ chức liên quan để tạo điều kiện cho người chấp hành
biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng tham gia các chương trình học văn
hóa, học nghề, lao động phù hợp, ổn định cuộc sống;
đ)
Liên hệ, giới thiệu người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
tham gia các lớp kỹ năng sống, các hoạt động văn hóa, xã hội, thể thao sẵn có tại
địa phương;
e)
Phối hợp với cơ quan, tổ chức và gia đình trong việc giám sát thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
g)
Phối hợp với Công an cấp xã và người có liên quan trong việc tham mưu cho Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng;
h)
Theo dõi, giám sát, đôn đốc việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng;
i)
Định kỳ hằng tháng nhận xét, đánh giá tình hình, kết quả thi hành quyết định áp
dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
k)
Báo cáo kịp thời cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về những biểu hiện, hành
vi vi phạm pháp luật của người chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng tại cộng đồng để có biện pháp ngăn ngừa, quản lý, giáo dục phù hợp;
l)
Báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc người chấp hành quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vi phạm nghĩa vụ và phối hợp với
Công an cấp xã lập biên bản vi phạm;
m)
Báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, lập hồ sơ đề nghị gia hạn thời
hạn thực hiện nghĩa vụ, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng, chấm dứt trước
thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng; nếu xét thấy biện pháp xử
lý chuyển hướng không phù hợp hoặc việc thực hiện gặp khó khăn thì đề xuất hướng
giải quyết hoặc điều chỉnh kế hoạch, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
quyết định;
n)
Báo cáo kết quả việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;
o)
Trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
2.
Người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
có quyền tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm giáo dục,
giúp đỡ người chưa thành niên.
3.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 80. Xây dựng kế hoạch thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Trong thời hạn 05 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được quyết định phân công, người trực tiếp giám sát
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng xây dựng dự thảo kế hoạch
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng để Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã phê duyệt.
2. Kế hoạch thi hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:
a) Biện pháp xử lý chuyển
hướng được áp dụng;
b) Dịch vụ hỗ trợ cần thực
hiện để khắc phục các yếu tố nguy cơ, nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật
của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
c) Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ cần thiết; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm
phối hợp;
d) Thời điểm bắt đầu, thời
điểm kết thúc chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, dịch vụ
hỗ trợ;
đ) Các hoạt động khác để
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
3. Trong thời hạn 05 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được dự thảo kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phê duyệt kế hoạch.
Kế hoạch phải được gửi
cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện
của họ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và gửi Công an cấp xã để lưu
vào hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
1. Người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý
do chính đáng, phải
có đơn xin phép và được sự đồng ý của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã; phải thực
hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
không đồng ý thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Thời gian vắng mặt tại
nơi cư trú mỗi lần không quá 10 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư
trú không được vượt quá một phần ba thời hạn thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó.
2.
Trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vì lý do
chính đáng mà phải thay đổi nơi cư trú thì phải làm đơn và được sự đồng ý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã được giao thi hành quyết định áp
dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn của người
chấp
hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với các đơn vị có liên quan, Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi chuyển đến kiểm tra, xác minh và
quyết định việc thay đổi nơi cư trú của người đó. Trường hợp chấp nhận
cho thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã được giao thi hành quyết định áp
dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải có văn bản thông báo cho người có đơn đề nghị và văn bản chuyển hồ sơ thi hành
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chuyển đến để tiếp tục tổ chức thi hành
theo quy định của Luật này; trường hợp không chấp nhận thì thông báo bằng
văn bản và nêu rõ lý do.
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng đến nơi cư trú mới phải
trình báo ngay với Công an cấp xã nơi
mình đến cư trú.
3. Văn bản chuyển hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng quy định tại khoản 2 Điều này phải đồng thời gửi cơ quan đã ra quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng.
Điều 82. Giải quyết
trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vi phạm nghĩa vụ
1. Trường hợp người
chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vi phạm nghĩa vụ quy định tại
khoản 2 Điều 23 của Luật này thì người trực tiếp giám sát thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phối hợp với Công an cấp xã lập biên bản vi phạm.
Việc lập biên bản phải có sự tham gia của
người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và người đại diện của họ.
Biên bản
phải gửi
ngay cho
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để đề nghị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc thay đổi
biện pháp xử lý chuyển hướng.
2. Người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng mà cố ý vi phạm nghĩa vụ 01 lần trong thời
gian thực hiện nghĩa vụ thì có thể bị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ, trừ
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 3 Điều 42 của Luật này.
3. Người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng mà cố ý vi phạm nghĩa vụ 01 lần trong thời
gian gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên trong
thời gian thực hiện nghĩa vụ thì có thể bị thay đổi từ biện pháp xử lý chuyển
hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
4. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 83. Gia hạn
thời hạn thực hiện nghĩa vụ
Việc
gia hạn thời
hạn thực hiện nghĩa vụ được thực hiện 01 lần như sau:
1.
Thời hạn gia hạn đối với người chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm vi phạm không quá
một phần hai của thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã áp dụng;
2.
Thời hạn gia hạn đối với người từ đủ 18 tuổi tại thời điểm vi phạm bằng thời hạn
thực hiện nghĩa vụ đã áp dụng.
Điều 84. Thủ tục
gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ
1.
Trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được biên bản vi phạm nghĩa vụ, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã phải lập hồ sơ đề nghị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ
và gửi cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
2. Hồ sơ đề nghị gia hạn
thời hạn thực hiện nghĩa vụ bao gồm:
a) Văn bản đề nghị của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã;
b) Báo cáo của người trực
tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
c) Biên bản vi phạm nghĩa
vụ;
d) Tài liệu khác có liên
quan.
3.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải xem
xét, quyết định gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể
kéo dài nhưng không quá 05 ngày làm việc. Trường hợp không gia hạn thì phải trả lời bằng
văn bản và nêu rõ lý do.
4. Quyết định gia hạn
thời hạn
thực hiện
nghĩa vụ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. Quyết định này
không bị khiếu nại, kiến nghị và phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử
lý chuyển hướng
tại cộng đồng, người đại diện của họ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã đề nghị.
Điều 85. Thay đổi
biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Các trường hợp
thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng gồm:
a) Người chấp hành
biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng có thể được thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng khác tại cộng
đồng nếu xét thấy biện pháp đang áp dụng không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh khách quan;
b) Người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều
82 của Luật này.
2. Việc thay đổi biện
pháp xử lý chuyển hướng tại điểm a khoản 1 Điều này được thực hiện 01 lần.
Điều 86. Thủ tục
thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp xử lý chuyển
hướng khác tại cộng đồng
1. Ngay sau khi có căn cứ
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 của Luật này thì người trực tiếp giám sát
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng báo cáo Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã. Trong
thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã lập
hồ sơ đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp xử lý chuyển
hướng khác tại cộng đồng và gửi cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng.
2. Hồ sơ đề nghị thay
đổi biện pháp xử lý chuyển hướng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã;
b) Báo cáo của người trực
tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
c) Tài liệu khác có liên
quan.
3. Trong thời hạn 03
ngày làm việc
kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán Tòa án đã ra quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải xem xét, quyết định thay đổi biện pháp xử lý
chuyển hướng.
Trường hợp không thay đổi thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
4. Khi quyết định
thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng xem xét, quyết định thời hạn thực hiện biện pháp xử lý
chuyển hướng, thời hạn thực hiện nghĩa vụ phù hợp.
5. Quyết định thay đổi
biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và thay thế quyết
định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trước đó. Quyết định này không
bị khiếu nại, kiến nghị và phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử lý
chuyển hướng
tại cộng đồng, người đại diện của họ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã đề nghị.
Điều
87. Thủ tục thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng
1. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được biên bản vi phạm nghĩa vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã phải lập hồ sơ đề nghị xem xét, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và gửi Tòa án nhân
dân cấp huyện nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng cư
trú.
2. Hồ sơ đề nghị thay đổi
biện pháp xử lý chuyển hướng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;
b) Báo cáo của người trực
tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
c) Biên bản về việc vi phạm
nghĩa vụ;
d) Bản sao hồ sơ thi hành
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
đ) Tài liệu khác có liên
quan.
3. Ngay sau khi nhận được
hồ sơ đề nghị, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán giải quyết. Trong
thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán xem xét, giải
quyết như sau:
a) Trường hợp hồ sơ đề
nghị đã đầy đủ thì ra quyết định mở phiên họp;
b) Trường hợp hồ sơ đề
nghị chưa rõ ràng, đầy đủ thì yêu cầu người đề nghị bổ sung tài liệu. Người đề
nghị bổ sung tài liệu trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu
cầu. Trường hợp không bổ sung được tài liệu thì phải trả lời bằng văn bản và
nêu rõ lý do.
Trong thời hạn 05 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được tài liệu bổ sung hoặc kể từ ngày hết thời hạn quy
định tại khoản này mà người đề nghị không bổ sung được tài liệu, Thẩm phán ra
quyết định mở phiên họp xem xét, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng
đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
4. Quyết định mở phiên họp
phải có các nội dung chính sau đây: ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án
ra quyết định; họ và tên, chức vụ, tên cơ quan của người đề nghị; họ và tên Thẩm
phán, Thư ký phiên họp; ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp trực tiếp hoặc
trực tuyến; họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân,
nơi cư trú của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; tên
cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; biện pháp xử lý
chuyển hướng đã được áp dụng.
Quyết định này phải gửi
cho những người quy định tại điểm c khoản 5 Điều này, người đề nghị và Viện kiểm
sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.
5. Thành phần phiên họp
gồm:
a) Người tiến hành phiên
họp: Thẩm phán, Thư ký phiên họp;
b) Người tham gia phiên họp:
người đề nghị hoặc người được ủy quyền, Kiểm sát viên tham gia phiên họp;
c) Người khác tham gia
phiên họp: người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; người đại
diện của họ; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (nếu có); người trực
tiếp giám sát thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng;
d) Trường hợp cần thiết,
Tòa án yêu cầu người phiên dịch, người dịch thuật, chuyên gia y tế, tâm lý,
giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại
diện cơ quan, tổ chức, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ
chức thành viên của Mặt trận nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng học tập, làm việc, cư trú và những người khác tham gia phiên họp.
6. Phiên họp xem xét,
thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng được tổ chức trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra
quyết định mở phiên họp.
7. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:
a) Trước khi khai mạc
phiên họp, Thư ký phiên họp phải kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án
yêu cầu tham dự phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo
cáo Thẩm phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp;
b) Thẩm phán khai mạc
phiên họp;
c) Người đề nghị hoặc người
được ủy quyền trình bày đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng
đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
d) Những người khác tham
gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ những vấn đề có liên quan;
đ) Thẩm phán hỏi người đề
nghị hoặc người được ủy quyền và những người khác tham gia phiên họp để làm rõ
những vấn đề có liên quan;
e) Kiểm sát viên phát biểu
ý kiến;
g) Thẩm phán quyết định
chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại
cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và công bố nội dung quyết
định tại phiên họp.
8. Mọi diễn biến tại
phiên họp được ghi vào biên bản và lưu hồ sơ. Biên bản phiên họp phải có chữ ký
của Thẩm phán và Thư ký phiên họp.
9. Tòa án xem xét
hoãn phiên họp khi người đề nghị hoặc người được ủy quyền vắng mặt. Thời hạn hoãn
phiên họp là không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định hoãn. Quyết định
hoãn phiên họp phải được thông báo ngay cho những người có mặt tại phiên họp; gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên họp trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định.
10. Quyết định về việc
thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng phải có các nội dung chính sau đây:
a) Số, ngày, tháng, năm
ra quyết định;
b) Tên Tòa án ra quyết định;
c) Họ và tên của Thẩm
phán ra quyết định;
d) Họ và tên, ngày,
tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú, nghề nghiệp,
trình độ văn hóa của người chưa thành niên;
đ) Lý do, căn cứ ra quyết
định;
e) Quyết định thay đổi hoặc
không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng. Trường hợp quyết định thay đổi thì phải có nội dung đình
chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng đã
được áp dụng;
g) Trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân thi hành quyết định;
h) Hiệu lực của quyết định;
i) Nơi nhận quyết định.
11. Quyết định về việc
thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng có hiệu lực thi hành kể từ ngày công bố.
12. Trong thời hạn 07
ngày kể từ ngày công bố, Tòa án phải giao quyết định cho người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ và gửi cho người đề
nghị, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng tại cộng đồng; gửi cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng cư trú đối với
trường hợp ra quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
13. Trường hợp không chấp
nhận đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng thì người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng tiếp tục thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng đã được áp dụng.
Điều
88. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định
về việc thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng
1. Trong thời hạn 05 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng thì người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại
diện của họ có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết
định này.
2. Khiếu nại, kiến nghị đối
với quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng của Thẩm phán do
Chánh án Tòa án xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được khiếu nại, kiến nghị.
Khiếu nại, kiến nghị đối
với quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng của Thẩm phán giữ
chức vụ Chánh án do Chánh án Tòa án trên một cấp xem xét, giải quyết trong thời
hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
3. Trong thời hạn quy định
tại khoản 2 Điều này, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải ra một trong các quyết
định sau đây:
a) Chấp nhận khiếu nại,
kiến nghị và hủy quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng để tiếp tục thi hành biện pháp xử
lý chuyển hướng tại cộng đồng;
b) Chấp nhận khiếu nại,
kiến nghị và hủy quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng
đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và ra quyết định thay đổi biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng;
c) Không chấp nhận khiếu
nại, kiến nghị và giữ nguyên quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng.
4. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày ra quyết định, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến
nghị phải gửi quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị cho người đã khiếu nại,
kiến nghị; người đã đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng; cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú đối với trường
hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều này.
5. Quyết định giải quyết
khiếu nại, kiến nghị có hiệu lực pháp luật và là quyết định cuối cùng.
Điều 89. Trường hợp
chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng
1. Người chấp hành biện pháp xử
lý chuyển hướng tại cộng đồng quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 36 của
Luật này, đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời hạn áp dụng biện pháp xử
lý chuyển hướng và có nhiều tiến bộ thì có thể được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển
hướng này.
2. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 90. Thủ tục
chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thuộc trường hợp quy định
tại Điều 89 của Luật này thì người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ
đề nghị chấm dứt trước thời hạn việc
chấp hành biện pháp xử lý chuyển
hướng và gửi cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
2.
Hồ sơ đề nghị
chấm dứt trước thời hạn việc chấp
hành biện
pháp xử lý chuyển hướng bao gồm:
a) Đơn đề nghị của người
chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;
b) Văn bản đề nghị của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã;
c) Báo cáo của người trực
tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;
d) Tài liệu khác có liên
quan.
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề
nghị chấm dứt trước thời hạn việc chấp
hành biện pháp xử lý chuyển hướng, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng phải xem xét, quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển
hướng. Trường
hợp không chấp nhận thì
phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
4. Quyết định chấm dứt
trước thời hạn việc chấp hành
biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và
không bị khiếu nại, kiến nghị.
5. Quyết định chấm
dứt trước thời hạn việc chấp hành
biện pháp xử lý chuyển hướng phải gửi ngay cho người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng,
người đại diện
của họ, Chủ
tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã đã đề nghị.
Điều 91. Chứng nhận
chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng
1. Trong thời
hạn 05 ngày làm việc trước khi hết thời hạn thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng hoặc ngay sau khi nhận được
quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý
chuyển hướng, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng xây dựng báo cáo tổng hợp kết quả thi hành
xong biện pháp xử lý chuyển hướng gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
2.
Vào
ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành biện pháp xử lý chuyển
hướng,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp xử
lý chuyển hướng tại cộng đồng cho người
chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.
3.
Giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng được gửi cho người đại diện
của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, cơ quan đã ra quyết định áp dụng
biện pháp xử lý chuyển hướng.
Cơ
quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng lưu giấy chứng nhận chấp
hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng
tại cộng đồng trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 92. Đình chỉ
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
1.
Các trường hợp đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
gồm:
a)
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm
tội khác mà bị bắt tạm giam hoặc phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù;
b)
Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng chết;
c) Người chấp hành biện pháp
xử lý chuyển
hướng tại cộng đồng bị mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi;
d) Người chấp hành biện
pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng bị thay đổi sang biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng.
2.
Việc đình chỉ
thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không làm chấm dứt
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (nếu có).
3. Khi người chấp
hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại điểm
a, b và c khoản 1 Điều này, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để thông
báo cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
4. Ngay sau khi nhận
được thông báo, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng
ra quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
5. Quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp
dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử
lý chuyển hướng tại cộng đồng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, người đại
diện của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.
Mục 2
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Điều 93. Điều kiện
cơ sở vật chất của trường giáo dưỡng
1.
Trường giáo dưỡng phải bảo đảm có các khu vực nhà ở,
bệnh
xá, học văn hóa, học nghề, vui chơi, sinh hoạt chung, luyện tập thể dục,
thể thao, thư viện, các cơ
sở vật chất cần thiết khác và được bố trí, thiết kế phù hợp với người
chưa thành niên.
2. Phòng ở phải bảo đảm thoáng mát về mùa hè, kín
gió về mùa đông, hợp vệ sinh môi trường. Diện tích chỗ nằm tối thiểu cho mỗi học
sinh
trường
giáo dưỡng là 2,5 m2.
3.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 94. Thủ tục
thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1. Trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng,
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú
phải báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an để ra quyết định
đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng.
2. Trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định
đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng và gửi cho cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện.
3. Trong thời hạn 05
ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định của cơ quan quản lý thi hành án
hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải lập
hồ sơ và bàn giao người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng. Hồ sơ bao gồm:
a)
Bản sao quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
b)
Quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng;
c)
Sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã;
d)
Danh bản;
đ)
Bản sao báo cáo điều tra xã hội (nếu có);
e)
Tài liệu khác có liên quan (nếu có).
4. Khi tiếp nhận học sinh,
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải kiểm tra hồ sơ và lập biên bản giao nhận, tổ
chức khám sức khỏe cho học sinh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày tiếp
nhận học sinh, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải thông báo việc đã tiếp nhận học
sinh cho người đại diện của người đó.
5.
Sau khi tiếp nhận học sinh, trường giáo dưỡng phải lập hồ sơ học sinh. Hồ sơ
bao gồm:
a)
Các tài liệu quy định tại khoản 3 Điều này;
b)
Biên bản giao nhận học sinh;
c)
Tài liệu phản ánh kết quả chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
d)
Tài liệu khác có liên quan trong quá trình học sinh chấp hành biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng.
Điều 95. Hoãn, tạm
đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.
Người phải chấp
hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có thể được hoãn chấp hành biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)
Bị bệnh nặng, đang cấp cứu hoặc vì lý do sức khỏe khác mà không thể đi lại được
và được bệnh viện xác nhận;
b)
Có lý do chính đáng khác được Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện nơi
người đó cư trú xác nhận.
2.
Đối với trường hợp hoãn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú lập hồ sơ đề nghị Tòa án đã ra quyết định áp
dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng xem xét, quyết định. Hồ sơ bao gồm:
a)
Đơn đề nghị của người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc người đại diện
của họ;
b)
Kết luận của bệnh viện về tình trạng bệnh của người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này hoặc xác nhận của
Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện đối với trường hợp quy
định tại điểm b khoản 1 Điều này;
c)
Giấy bảo lãnh của người đại diện của người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng.
3.
Trường hợp học sinh trường giáo dưỡng bị bệnh nặng thì Hiệu trưởng trường giáo
dưỡng lập hồ sơ và có văn bản đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trường
giáo dưỡng xem xét, quyết định tạm đình chỉ.
Hồ
sơ đề nghị tạm đình chỉ thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.
4.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị hoãn hoặc tạm đình
chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải
xem xét, quyết định.
5.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc hoãn hoặc tạm
đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Tòa án đã ra quyết
định phải gửi quyết định đó cho cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây:
a)
Người được
hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người đại diện
của họ;
b) Cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú;
c) Viện kiểm sát cùng
cấp;
d) Trường giáo dưỡng, Tòa án đã ra quyết
định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng trong trường hợp tạm đình
chỉ.
6. Cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú có trách nhiệm quản lý họ trong thời gian
được hoãn hoặc tạm đình chỉ.
Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng cư trú phải yêu cầu người đó cam kết bằng văn bản về việc
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và trình diện khi có yêu cầu, trừ trường hợp
người đó bị bệnh nặng, đang cấp cứu hoặc vì lý do sức khỏe khác mà không thể đi
lại được.
Trường hợp
người
được hoãn, tạm
đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng bỏ trốn thì cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú ra quyết định truy
tìm và tổ chức truy tìm, đưa người đó vào trường giáo dưỡng và thông
báo cho Tòa án đã ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ để ra quyết định hủy quyết
định hoãn hoặc tạm đình chỉ.
7. Trường hợp người được
hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng vì lý do
bị bệnh nặng, nếu xét thấy có dấu hiệu phục hồi sức khỏe mà vẫn lấy lý do về sức
khỏe để trốn tránh việc chấp hành hoặc người đó có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần,
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú có trách nhiệm
trưng cầu giám định y khoa hoặc trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Chi phí
giám định do cơ quan trưng cầu giám định chi trả.
8. Khi không còn lý
do hoãn hoặc
tạm đình chỉ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm
đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú phải
thông báo cho Tòa án đã ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ để ra quyết định hủy
quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ và đưa người đó vào trường giáo dưỡng.
9. Trường hợp người được
hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng chết thì
gia đình người đó phải thông báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
cư trú. Ngay sau khi nhận được thông báo, Ủy ban nhân dân cấp xã phải báo cáo
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.
Điều
96. Đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1. Các trường hợp đình chỉ
thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng gồm:
a) Người phải chấp hành biện pháp
giáo dục tại
trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội khác mà bị bắt tạm
giam hoặc phải chấp hành hình
phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù;
b) Người phải chấp hành biện pháp
giáo dục tại
trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng chết;
c) Người phải chấp hành biện pháp
giáo dục tại
trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng bị mắc bệnh tâm thần, bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi;
d) Quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển
hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng bị hủy.
2. Việc đình chỉ thi hành
quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không làm chấm dứt
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (nếu có).
3. Khi có một trong các
căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng cư trú, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng thông báo cho Tòa án có thẩm
quyền quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 95 của Luật này để ra quyết định
đình chỉ thi hành.
4. Ngay sau khi nhận được
thông báo, Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành quyết
định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
5. Quyết định đình chỉ
thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải gửi
ngay cho người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng quy định tại điểm a và điểm d khoản 1 Điều
này, người đại diện của họ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường
giáo dưỡng, Viện kiểm sát cùng cấp và Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Điều 97. Giải quyết
trường hợp người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học
sinh trường giáo dưỡng bỏ trốn
1.
Trường hợp
người phải
chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo
dưỡng bỏ trốn thì giải quyết như sau:
a)
Trường hợp người
phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng bỏ trốn thì cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú phải ra quyết định
truy tìm và
tổ chức truy tìm;
b)
Trường hợp học sinh trường giáo dưỡng bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
phải ra
quyết định truy
tìm và tổ chức truy tìm.
2.
Ủy ban nhân dân và cơ quan công an các cấp có trách nhiệm phối hợp trong việc
truy tìm, bắt giữ người bỏ trốn.
3.
Khi phát hiện người bỏ trốn đang bị truy tìm thì giải quyết như sau:
a)
Người phát hiện có trách nhiệm báo cho cơ quan công an hoặc Ủy ban nhân dân nơi
gần nhất hoặc bắt giữ và đưa đến các cơ quan này để đưa đến cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện nơi gần nhất. Khi tiếp nhận, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải
lập biên bản tiếp nhận, ghi lời khai và quản lý người bỏ trốn, đồng thời thông
báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết và cử người đến nhận. Trường hợp phải
lưu giữ người bỏ trốn, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
ra quyết định lưu giữ trong buồng lưu giữ của Công an cấp huyện. Thời hạn lưu
giữ là không quá 03 ngày kể từ ngày lưu giữ và được tính vào thời hạn chấp hành biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Việc
lấy lời khai phải bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, có thể có sự tham gia của người đại diện của
họ hoặc người làm công tác xã hội;
b)
Ngay sau
khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến nhận
người
bỏ trốn, đưa
ngay họ vào trường giáo dưỡng và báo cáo với cơ quan quản lý thi
hành án hình sự thuộc Bộ Công an;
c)
Việc giao, nhận người bỏ trốn phải lập biên bản.
4.
Thời gian học sinh bỏ trốn không được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng. Người bỏ trốn phải chấp hành phần thời hạn
áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng còn lại.
5.
Chính phủ quy định chi tiết khoản 4 Điều này.
Điều 98. Chế độ quản
lý học sinh
1.
Học sinh phải chịu sự giám sát, quản lý của cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng
và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường. Cán bộ, giáo viên trường giáo
dưỡng phải là người am hiểu tâm sinh lý hoặc có kinh nghiệm giải quyết các vấn
đề liên quan đến người chưa thành niên.
2.
Căn cứ vào độ tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ học vấn, tính chất và mức độ
vi phạm, trường giáo dưỡng bố trí học sinh thành các đội, lớp, tổ, nhóm và phân
công giáo viên trực tiếp phụ trách.
3.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 99. Thực hiện
lệnh trích xuất học sinh
1.
Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc
trích xuất học sinh thì cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra
lệnh trích xuất.
2.
Trường hợp cần trích xuất học sinh phục vụ yêu cầu giáo dục hoặc khám bệnh, chữa
bệnh thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra lệnh trích xuất.
3.
Lệnh trích xuất học sinh phải có các nội dung chính sau đây:
a) Cơ quan, họ và tên, chức vụ, cấp bậc của người ra lệnh;
b) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú
của học sinh;
c) Mục đích và thời hạn trích xuất;
d) Cơ quan, tổ chức, người nhận học
sinh được trích xuất (nếu có);
đ) Ngày, tháng, năm ra lệnh; chữ
ký của người ra lệnh và đóng dấu.
4.
Cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm đưa và trả học sinh được trích xuất đến
trường giáo dưỡng đúng thời gian đã ghi trong lệnh trích xuất; khi giao, nhận
phải lập biên bản. Chi phí cho việc đi lại, ăn, ở của học sinh được trích xuất
do ngân sách nhà nước bảo đảm, trừ trường hợp học sinh được đưa về gia đình chữa
bệnh theo quy định của pháp luật.
5.
Thời gian trích xuất được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng.
6.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 100. Chế độ học
văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề và lao động của học sinh
1.
Học sinh ở
trường giáo dưỡng được học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề theo quy định
của Chính phủ.
Trường
giáo dưỡng có trách nhiệm bố trí giáo viên và tổ chức dạy học văn hóa cho học sinh. Trường
hợp không thể bố trí giáo viên dạy học văn hóa theo quy định thì trường
giáo dưỡng phối
hợp với cơ sở giáo dục khác để tổ chức, liên kết lớp học trực tuyến cho học sinh. Việc
mở lớp học trực tuyến phải bảo đảm an toàn, tránh kỳ thị, ảnh hưởng tới tất cả
các học sinh.
2.
Trường giáo
dưỡng phối hợp với cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo nghề cho học sinh.
3.
Ngoài giờ học tập, học sinh từ đủ 15 tuổi phải tham gia lao động theo kế hoạch do trường giáo dưỡng tổ chức.
Trường giáo dưỡng có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp với lứa tuổi và sức
khỏe của học sinh để bảo đảm sự phát triển bình thường về thể chất; không bố
trí những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại; bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.
Thời
gian lao động của học sinh không được nhiều hơn thời gian học tập. Thời gian học
tập và lao động không quá 07 giờ trong 01 ngày và không quá 35 giờ trong 01 tuần.
Kết
quả lao động của học sinh được sử dụng phục vụ sinh hoạt, học tập và bổ sung
vào chế độ
ăn, quỹ hòa nhập cộng đồng, quỹ khen thưởng của học sinh.
4.
Học sinh được nghỉ ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, tết theo quy định của pháp
luật.
5.
Chính phủ
quy định chi tiết Điều này.
Điều 101. Chế độ
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí của học sinh
1.
Ngoài giờ học văn hóa, học nghề, lao động, học sinh được tham gia các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, đọc sách báo, xem truyền hình và các hoạt
động vui chơi giải trí khác do trường giáo dưỡng tổ chức.
2.
Ngoài thời gian tham gia các hoạt động giáo dục, học tập, lao động, sinh hoạt
chung, học sinh theo tôn giáo được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức
sách in, phát hành hợp pháp và được bày tỏ niềm
tin tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
3.
Khuyến khích học sinh phát huy năng lực, sở trường về âm nhạc, hội họa, văn học,
nghệ thuật, thể
dục, thể thao.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 102. Kiểm
tra, đánh giá, xếp loại học sinh và tổ chức thi
1.
Trường giáo dưỡng có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh
và tổ chức thi học kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, thi tuyển chọn học sinh giỏi
hoặc hình thức thi khác.
2.
Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu mẫu liên quan đến việc học tập của học sinh
phải theo mẫu thống nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.
Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo nơi có trường giáo dưỡng cấp
chứng chỉ học văn hóa cho học sinh; cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp chứng chỉ học
nghề cho học sinh.
4. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 103. Chế độ
ăn, mặc của học sinh
1.
Học sinh được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau xanh, thịt, cá, trứng, đường,
nước mắm, dầu ăn, bột ngọt, muối, chất đốt và một số nhu yếu phẩm cần thiết khác.
Ngày
lễ, tết theo quy định của pháp luật, học sinh được ăn thêm nhưng mức ăn không
quá 05 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Học
sinh được bảo đảm ăn, uống hợp vệ sinh. Chế độ ăn đối với học sinh ốm đau, bệnh
tật, thương tích do y sỹ hoặc bác sỹ chỉ định.
2.
Hằng năm, học sinh được cấp quần áo và các đồ dùng sinh hoạt khác; học sinh nữ
được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh cá nhân. Học sinh tham gia lao động và học nghề được cấp thêm quần áo, đồ bảo hộ
lao động, học nghề.
3. Chính phủ
quy định chi tiết Điều này.
Điều 104. Chế độ ở
và đồ dùng sinh hoạt của học sinh
1.
Căn cứ vào giới tính, độ tuổi, đặc điểm nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội của
học sinh, trường giáo dưỡng sắp xếp chỗ ở, sinh hoạt phù hợp trong các phòng tập
thể.
2.
Học sinh được bố trí giường nằm có chiếu trải, màn, gối, chăn đắp và được phép
sử dụng đồ dùng sinh hoạt cá nhân của mình, trừ những đồ vật bị cấm sử dụng
trong trường giáo dưỡng. Đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của học sinh được trường
cho mượn hoặc cấp.
3.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 105. Chế độ
chăm sóc y tế đối với học sinh
1.
Học sinh được khám sức khỏe định kỳ; trường hợp học sinh bị ốm đau, bệnh tật,
thương tích được điều trị tại bệnh xá của trường giáo dưỡng; trường hợp ốm
đau, bệnh tật, thương tích nặng vượt quá khả năng điều trị của trường thì Hiệu
trưởng trường giáo dưỡng quyết định đưa học sinh đến điều trị tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh của Nhà nước. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh do trường giáo dưỡng chi
trả.
Trường
hợp có cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ khả năng điều trị mà tự nguyện khám bệnh, chữa
bệnh miễn phí cho học sinh thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định.
2.
Chi phí khám bệnh, chữa bệnh quy định tại khoản 1 Điều này do ngân sách nhà nước
cấp. Kinh phí tổ chức cai nghiện ma túy, điều trị HIV/AIDS cho học sinh theo
quy định của pháp luật. Trường hợp học sinh được nghỉ học để đưa về gia đình chữa
bệnh thì gia đình học sinh phải chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
3.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 106. Thủ tục
giải quyết trường hợp học sinh chết
1.
Trường hợp học sinh chết, Hiệu trưởng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi có trường giáo dưỡng để xác định nguyên nhân chết;
đồng thời phải báo ngay cho thân nhân của người chết biết.
2.
Sau khi Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cho phép mai táng, trường giáo dưỡng
có trách nhiệm tổ chức mai táng, báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự
thuộc Bộ Công an và thông báo cho Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng. Kinh phí cho việc mai táng do ngân sách nhà nước
cấp. Trường hợp thân nhân của người chết có đơn đề nghị nhận tử thi, tro cốt hoặc hài cốt
để mai táng và tự chịu chi phí thì trường giáo dưỡng giao cho thân nhân của người
chết thực hiện. Việc tổ chức mai táng phải bảo đảm an ninh, trật tự, vệ sinh
môi trường.
3. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 107. Chế độ gặp
thân nhân, liên lạc, nhận quà của học sinh trường giáo dưỡng
1.
Học sinh được gặp thân nhân tại nơi tiếp đón của trường giáo dưỡng và phải chấp
hành đúng quy định về thăm gặp.
2. Học sinh được liên lạc
bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với
thân nhân ở trong nước, có sự giám sát của giáo viên trường giáo dưỡng và tự chịu
chi phí.
3. Học sinh được gửi
và nhận thư, nhận quà là tiền, đồ vật, trừ rượu, bia, thuốc lá, các chất kích
thích khác, đồ vật và các loại văn hóa phẩm thuộc danh mục cấm. Trường giáo dưỡng
có trách nhiệm kiểm tra thư, quà trước khi học sinh gửi hoặc nhận. Học sinh có
tiền hoặc giấy tờ có giá thì phải gửi trường giáo dưỡng để quản lý và sử dụng
theo quy định của trường giáo dưỡng.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 108. Giải quyết
trường hợp học sinh có việc tang
1.
Khi có việc tang của gia đình gồm:
cha,
mẹ, con đẻ, người trực tiếp nuôi dưỡng và có đơn xin bảo lãnh của thân nhân được
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học sinh cư trú xác nhận thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
có thể xem xét cho học sinh về gia đình không quá 05 ngày, không kể thời gian
đi đường. Thời gian về gia đình được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng.
2.
Khi giải quyết cho học sinh về gia đình, đại diện thân nhân đến nhận học sinh
và viết cam kết quản lý học sinh trong thời gian được về nhà và chịu trách nhiệm
đưa học sinh trở lại trường giáo dưỡng đúng thời gian quy định.
3.
Hết thời gian được về gia đình, học sinh phải tự giác trở lại trường giáo dưỡng để tiếp tục chấp
hành, nếu không tự giác thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng tổ chức đưa học sinh
đó trở lại trường; nếu học sinh bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra
quyết định truy tìm.
Điều 109. Xếp loại
thi đua
cho học sinh
1. Việc xếp loại thi đua
cho học sinh được đánh giá theo 04 mức: tốt, khá, trung bình, kém.
2. Trường giáo dưỡng phải
xếp loại thi đua cho học sinh theo tháng, quý, năm.
3. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 110. Chấm dứt
trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.
Học sinh đã chấp hành được một phần hai thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng và xếp loại thi đua từ loại khá trở lên có thể được chấm dứt trước thời
hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a)
Tích cực học tập, có nhiều tiến bộ;
b)
Đã lập công.
2. Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng lập hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trường giáo dưỡng xem
xét, quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng. Hồ sơ đề nghị phải có các tài liệu sau đây:
a)
Đơn đề nghị
của học sinh trường giáo dưỡng;
b) Văn bản đề nghị của
trường giáo dưỡng;
c) Bản sao quyết định về việc
áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
d) Kết quả xếp loại
thi đua;
đ) Bản nhận xét về việc
tích cực học tập, có nhiều tiến bộ hoặc văn bản, tài liệu thể hiện việc học sinh lập công
có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền;
e) Tài liệu khác có liên
quan.
3. Trong thời hạn
03 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng,
Chánh án Tòa án xem xét, quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với học sinh. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì trả lời
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
4. Quyết định chấm dứt
trước thời hạn việc
chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày ra quyết định và không bị khiếu nại, kiến nghị. Quyết định này phải
gửi ngay cho
học sinh, người
đại diện của họ, trường giáo dưỡng, Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan quản lý
thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an.
5. Ngay sau khi nhận
được quyết định, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải công bố và làm thủ tục cho học sinh ra
trường.
Điều 111. Khen thưởng,
xử lý vi phạm đối với học sinh
1.
Học sinh chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nội quy của trường giáo dưỡng, có kết
quả học tập đạt từ loại khá trở lên hoặc lập công thì được Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
quyết định khen thưởng bằng một hoặc một số hình thức sau đây:
a)
Biểu dương, tặng giấy khen, tặng quà;
b)
Đi tham quan do trường giáo dưỡng tổ chức;
c)
Được sum họp gia đình tại trường trong thời gian 01 ngày;
d) Tăng số lần được liên
lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với
thân nhân ở trong nước.
2.
Học sinh vi phạm kỷ luật học tập, lao động hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy
của trường giáo dưỡng, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
quyết định xử lý bằng một trong các hình thức sau đây:
a)
Nhắc nhở;
b)
Phê bình;
c)
Tạm dừng một số hoạt động giải trí trong thời gian không quá 03 ngày.
3.
Quyết định khen thưởng hoặc xử lý vi phạm được lưu vào hồ sơ học sinh.
4. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 112. Thủ tục
cho học sinh ra trường
1.
Hai tháng trước khi học sinh hết thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng hoặc
ngay sau khi nhận được quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải
thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú và gia
đình họ biết ngày ra trường.
Trường
hợp học sinh dưới 18 tuổi chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
mà không rõ cha, mẹ và người giám hộ thì trường giáo dưỡng có trách nhiệm liên hệ với
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trường để đề nghị giúp đỡ, sắp xếp chỗ ăn, ở và tạo
việc làm, học tập; trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không thể bố trí được chỗ ăn, ở đối với
học sinh thì trường giáo dưỡng lập hồ sơ đưa vào
cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương nơi có trường giáo dưỡng.
2.
Vào ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng,
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải tổ chức khám sức khỏe và cấp giấy chứng nhận
đã chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cho học sinh ra trường
và gửi giấy chứng nhận này cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Công an, Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú.
3.
Học sinh khi ra trường được nhận lại tiền, giấy tờ có giá, tài sản và đồ vật gửi
trường quản lý, các chứng chỉ học văn hóa, học nghề được cấp trong thời gian chấp hành biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng; được cấp tiền tàu xe, tiền ăn trong thời
gian đi đường trở về nơi cư trú; được cấp 01 bộ quần áo. Trường hợp hết thời
hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mà học sinh vẫn chưa tiến
bộ thì Hiệu trưởng phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các biện pháp giáo dục
tiếp theo gửi Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện nơi người đó về cư trú.
4.
Đối với học sinh dưới 16 tuổi hoặc bị ốm đau, bệnh tật đến ngày được ra trường
mà không có thân nhân đến đón thì trường giáo dưỡng phải cử người đưa về giao
cho gia đình hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú.
5.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra trường, học sinh đã chấp hành xong biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải trình báo Ủy ban nhân dân cấp xã nơi về
cư trú, trừ
trường hợp học sinh được đưa vào
cơ sở bảo trợ xã hội.
6.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều
113. Kiểm sát thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1. Khi kiểm sát thi hành
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú, trường
giáo dưỡng tự
kiểm tra việc thi hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng và
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; yêu cầu cung
cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi
hành;
b) Trực tiếp kiểm sát việc
thi hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng của
cơ quan thi hành án hình
sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng; kiểm sát hồ sơ thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
c) Đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện,
trường giáo dưỡng lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc
đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng thông
báo cho Tòa án có thẩm quyền để đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng;
d) Kiến nghị Tòa án khi
phát hiện có vi phạm liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án trong quá trình thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện, trường
giáo dưỡng
trong thi hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng khi phát hiện có vi phạm; yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ
quyết định có vi phạm pháp luật trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật;
e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo
quy định tại khoản 2 Điều này;
g) Khởi tố hoặc yêu cầu
cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm
trong thi hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng
theo quy định của pháp luật;
h) Thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
2. Viện
kiểm sát trực tiếp kiểm sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án, cơ quan quản lý thi hành án hình sự,
cơ quan thi hành án hình sự.
Khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong thi hành biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng, Viện
kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan
thi hành án hình sự cùng cấp hoặc cấp dưới thực hiện nhiệm vụ sau đây: ra văn bản giải quyết
khiếu nại, tố cáo; kiểm tra việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và của cấp dưới; thông báo kết quả giải quyết
cho Viện kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu
liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.
3. Trách nhiệm thực hiện
yêu cầu, đề nghị, kháng nghị, kiến nghị
của Viện kiểm sát về thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được
quy định như sau:
a) Đối với yêu cầu quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng phải thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu, trừ trường hợp yêu cầu
lập hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều 94 của Luật này và yêu cầu cung cấp hồ
sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án thì phải thực hiện ngay;
b) Đối với đề nghị, kiến nghị, yêu cầu quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này, Tòa án, cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện, trường
giáo dưỡng phải trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
đề nghị, kiến nghị, yêu cầu;
c) Đối với kháng nghị
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này, cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện, trường
giáo dưỡng có
trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì các cơ quan này có quyền
khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp; Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định
của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải được thi hành.
Điều
114. Khiếu nại, tố cáo trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1. Việc khiếu nại, tố cáo
được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
quy định chi tiết Điều này.
HÌNH PHẠT VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
Chương VI
HÌNH PHẠT
Mục 1
CÁC HÌNH PHẠT
Điều 115. Các hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Người
chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với
mỗi tội phạm:
1.
Cảnh cáo;
2.
Phạt tiền;
3.
Cải tạo không giam giữ;
4.
Tù có thời hạn.
Điều 116. Cảnh cáo
Cảnh
cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm
trọng do vô ý, phạm tội ít nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa
đến mức miễn hình phạt.
Điều 117. Phạt tiền
1.
Phạt tiền được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu người đó có
thu nhập hoặc có tài sản riêng.
2.
Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một
phần hai mức tiền phạt mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.
3.
Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một
phần ba mức tiền phạt mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.
Điều 118. Cải tạo
không giam giữ
1.
Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.
2.
Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm
tội thì không khấu trừ thu nhập của họ.
3. Thời hạn cải tạo
không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời
hạn mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.
Điều 119. Tù có thời
hạn
Mức
phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định
như sau:
1.
Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình
sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần năm mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự
quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này;
2.
Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự
quy định khi phạm một trong các tội sau đây:
a)
Tội giết người;
b)
Tội hiếp dâm;
c)
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;
d)
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
đ)
Tội sản xuất trái phép chất ma túy;
3.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá hai phần năm mức phạt tù mà điều luật
của Bộ luật
Hình sự quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này;
4.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự
quy định khi phạm một trong các tội sau đây:
a)
Tội giết người;
b)
Tội hiếp dâm;
c)
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;
d)
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
đ) Tội sản xuất
trái phép chất ma túy.
Mục 2
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT, TỔNG HỢP HÌNH PHẠT,
MIỄN GIẢM HÌNH PHẠT, XÓA ÁN TÍCH
Điều 120. Quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
1.
Tòa án quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo các điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm
tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ
thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực
hiện được đến cùng.
2.
Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm
tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối
với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng.
Mức hình phạt cao
nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một
phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn
bị phạm tội trong điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng.
3.
Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm
tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại các điều 117, 118
và 119 của Luật này.
Mức hình phạt cao
nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt
không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các điều 117, 118 và 119 của
Luật này.
Điều 121. Tổng hợp
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
1.
Khi xét xử cùng
một lần người chưa thành niên phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với
từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Nếu
hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 03 năm.
Nếu
hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không
được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.
2.
Đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ
16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, việc tổng hợp hình phạt
chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3.
Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội
được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, việc tổng hợp hình phạt chung áp dụng như đối
với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
Điều 122. Tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án
Việc tổng hợp hình phạt
trong trường hợp một
người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc
sau khi có bản án này thì được thực hiện theo
quy định của Bộ luật Hình sự.
Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản
án đã có hiệu lực pháp luật mà các
hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp thì việc tổng hợp được thực hiện theo quy định của Bộ
luật Hình sự.
Hình
phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 121 của
Luật này.
Điều 123. Giảm mức
hình phạt đã tuyên
1.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu
có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn thì được Tòa án xét giảm;
riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm
đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
2.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu
lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp
hành phần hình phạt còn lại.
3.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế
đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc
lập công thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định
giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Điều 124. Án treo
Khi
xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người chưa thành niên phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt
tù thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 03 năm
và thực hiện
các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành
án hình sự.
Điều 125. Hoãn chấp
hành hình phạt tù
Người
chưa thành niên bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù trong các
trường hợp sau đây:
1.
Các trường hợp có
thể được hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy định của Bộ luật Hình sự;
2.
Trường hợp người chưa thành niên bị xử phạt tù đã đăng ký và đủ điều kiện
tham gia hoặc đang tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ
thông, thi tốt nghiệp trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, được cơ sở giáo dục,
cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi người đó học tập xác nhận thì có thể được
hoãn cho đến khi thực hiện xong kỳ thi.
Điều 126. Tha tù
trước thời hạn có điều kiện
1.
Người chưa thành niên đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù trước thời hạn
khi có đủ các điều kiện sau đây:
a)
Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
b)
Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;
c)
Có nơi cư trú rõ ràng.
2.
Thời điểm xét tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện ngay khi có đủ các điều
kiện quy định tại khoản 1 Điều này.
Cơ
quan thi hành án hình sự có thẩm quyền phải lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời
hạn có điều kiện và chịu trách nhiệm về tính chính xác và tính hợp pháp của hồ
sơ đề nghị.
3.
Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định
tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù
trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử
thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.
4. Người được tha tù
trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt
vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách thì Tòa án có thể hủy
bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải
chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.
Nếu
người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tòa án buộc
người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù
chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 122 của Luật này.
5. Người được tha tù
trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời gian thử
thách và có
nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền,
Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Điều 127. Xóa án
tích
1.
Người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a)
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b)
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý.
2.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ
khi chấp hành xong hình phạt hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết
thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong
thời hạn sau đây:
a)
03 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b)
06 tháng trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c)
01 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d)
02 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm.
THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NGƯỜI BỊ TỐ
GIÁC,
NGƯỜI BỊ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ, NGƯỜI BỊ GIỮ TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP,
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
Mục 1
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 128. Những
vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị buộc tội
1.
Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người chưa thành niên.
2.
Ðiều kiện sinh sống và giáo dục.
3.
Có hay không có người thành niên xúi giục.
4.
Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.
Điều 129. Thời hạn
điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
1.
Thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với vụ án có người chưa thành
niên là người bị buộc tội không quá một phần hai thời hạn tương ứng được quy định
tại Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường
hợp vụ án có tính chất đặc biệt phức tạp hoặc trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm, Viện
kiểm sát, Tòa án ra thông báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng thì được áp dụng
quy định tương ứng về thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố,
thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết Điều này.
Điều 130. Bào chữa
1.
Người chưa thành niên là người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa.
2.
Người đại diện của người chưa thành niên là người bị buộc tội có quyền lựa chọn
người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người chưa thành niên là người bị buộc
tội.
3. Trường hợp người chưa
thành niên là người
bị buộc tội
không đồng ý người bào chữa do người đại diện lựa chọn thì phải lựa chọn theo ý
kiến của người chưa thành niên là người bị buộc tội.
4.
Trường hợp người chưa thành niên là người bị buộc tội không nhờ người
bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải
chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp người chưa
thành niên từ chối người bào chữa theo chỉ định thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng vẫn chỉ định người bào chữa cho họ.
Điều 131. Thông
báo về hoạt động tố tụng
1.
Trước khi tiến hành hoạt động tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải thông báo trước trong thời gian hợp lý cho người đại diện, người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên là người
bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị buộc tội biết về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có
quyền tham gia theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Việc thông báo phải bằng văn bản, trong đó phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, điện
thoại của người ra thông báo và người được thông báo. Trường hợp cần bảo đảm sự
có mặt kịp thời của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội thì cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thông báo trực tiếp, qua điện thoại hoặc
phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng văn bản.
3.
Người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội khi nhận được thông báo phải
thông tin kịp thời về việc có mặt và tham gia tố tụng của họ cho cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng biết.
4. Việc thông báo các hoạt
động tố tụng khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 132. Việc
tham gia tố tụng của người đại diện
1.
Người đại diện của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội có quyền và nghĩa vụ
tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2.
Những trường hợp sau đây không được làm người đại diện của người chưa thành niên
là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị buộc tội:
a)
Việc tham gia tố tụng của người này gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý của người chưa
thành niên, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án;
b)
Hành vi của người này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi phạm tội của người
chưa thành niên.
3.
Người đại diện của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội được tham gia việc lấy
lời khai, hỏi cung, đối chất, khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể của
người chưa thành niên, tham gia việc người chưa thành niên nhận dạng, nhận biết giọng
nói và những hoạt động tố tụng khác theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng
hình sự; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố
cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người chưa
thành niên trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra.
4.
Người đại diện của người chưa thành niên là bị cáo khi tham gia phiên tòa có quyền
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng; phát biểu ý kiến, tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án.
5.
Ngay sau khi thụ lý vụ việc, vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
thông báo bằng văn bản cho người đại diện của người chưa thành niên là người bị
tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị buộc tội để tham gia tố tụng; trường hợp cần thiết có thể báo tin trực tiếp,
qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông
báo bằng văn bản.
6.
Người đại diện phải có mặt đúng thời gian, địa điểm nêu trong thông báo.
Điều 133. Việc
tham gia tố tụng của tổ chức
1.
Đại diện cơ
sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người chưa thành niên học tập,
lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2.
Những người quy định tại khoản 1 Điều này khi tham gia phiên tòa có quyền đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; phát biểu ý kiến, tranh luận.
Điều 134. Giữ bí mật thông tin của người chưa
thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội
1. Các thông tin có liên
quan đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên không được công khai, trừ
trường hợp người đó bị truy nã theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
2.
Các tài liệu, chứng cứ, thông tin có liên quan đến nhân thân, hành vi phạm tội
của người chưa thành niên chỉ được sử dụng cho việc giải quyết vụ việc,
vụ án, nghiêm cấm sử dụng vào mục đích khác.
3.
Trong trường hợp đặc biệt cần bảo vệ người chưa thành niên, Tòa án có thể xét xử
kín nhưng phải tuyên công khai phần quyết định của bản án.
Mục 2
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
Điều 135. Các biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
1.
Các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm:
a)
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
b)
Bắt người theo các trường hợp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;
c)
Tạm giữ;
d)
Tạm giam;
đ)
Giám sát điện tử;
e)
Giám sát bởi
người đại diện;
g)
Bảo lĩnh;
h)
Đặt tiền để bảo đảm;
i)
Cấm đi khỏi nơi cư trú;
k)
Tạm hoãn xuất cảnh.
2.
Các
biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm:
a)
Áp giải, dẫn giải;
b)
Kê biên tài sản;
c)
Phong tỏa tài khoản.
3.
Sau khi
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ người, lệnh
hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo ngay bằng văn bản cho
gia đình của
họ, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc, học tập biết; trường hợp cần thiết có thể báo tin trực tiếp, qua
điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng
văn bản.
Trong thời hạn 12 giờ
kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt là người chưa thành niên, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, bị bắt phải
thông báo cho gia đình người bị giữ, bị bắt, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị giữ,
bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt
Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị giữ, bị
bắt.
Nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác
hoặc cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ người,
lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt
phải thông báo ngay.
Điều 136. Áp dụng
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
1.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về
tội phạm mà họ phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định của Bộ luật Hình sự nếu thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về
tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu
thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định
tại Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 137. Áp dụng
biện pháp tạm giữ
1.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ về tội phạm mà họ phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự nếu thuộc trường hợp
áp dụng biện pháp tạm giữ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ về tội nghiêm trọng do cố
ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu thuộc trường hợp áp dụng
biện pháp tạm giữ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.
Người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ về tội nghiêm trọng do vô ý, tội
ít nghiêm trọng nếu họ tiếp tục
phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
3.
Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt
hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ
quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú. Trường hợp cần
thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ một lần nhưng không
quá 03 ngày.
Trong
thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát có thẩm quyền phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn.
Điều 138. Áp dụng
biện pháp tạm giam
1.
Tạm giam có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật
Hình sự khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)
Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b)
Không có nơi cư trú rõ ràng;
c)
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
d)
Tiếp tục phạm tội hoặc có căn cứ xác định người này tìm kiếm, sửa soạn công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để tiếp tục phạm tội;
đ)
Có hành vi tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống
chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân
thích của những người này.
2.
Tạm giam có
thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi về tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự khi có căn
cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)
Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng;
c)
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
d)
Tiếp tục phạm tội;
đ)
Có hành vi tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống
chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân
thích của những người này.
3.
Tạm giam có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự khi có căn cứ xác định người đó
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)
Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b)
Không có nơi cư trú rõ ràng;
c)
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có căn cứ xác định người này sẽ
bỏ trốn;
d)
Tiếp tục phạm tội hoặc có căn cứ xác định người này tìm kiếm, sửa soạn công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để tiếp tục phạm tội;
đ)
Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống
chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân
thích của những người này.
4. Có thể áp dụng biện
pháp tạm giam đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng nếu họ tiếp tục phạm tội
hoặc bỏ trốn và
bị bắt theo quyết định truy nã.
5. Thời hạn tạm giam
đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo không quá một phần hai thời hạn
tạm giam tương ứng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, trừ trường hợp quy định
tại khoản 8 Điều 151 của Luật này. Khi không còn căn cứ để tạm giam thì cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác.
6. Trường hợp người
chưa thành niên là bị can, bị cáo đang bị tạm giam mà có thông báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển
hướng thì cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tiếp tục tạm giam hoặc hủy bỏ, thay thế bằng
biện pháp ngăn chặn khác.
7. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết khoản 5 Điều
này.
Điều
139. Áp dụng biện pháp giám sát điện tử
1. Giám sát điện tử là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của người chưa thành niên là bị
can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định
cho họ được giám sát điện tử.
2. Bị can, bị cáo được giám sát điện tử
phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Không đi khỏi phạm vi
giám sát, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này;
b) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc
do trở ngại khách quan;
c) Không bỏ trốn hoặc không tiếp tục phạm tội;
d) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của
vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù
người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những
người này;
đ) Không tháo, phá hủy thiết bị giám sát điện tử hoặc gây rối loạn hoạt động của thiết bị giám sát điện tử.
3. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định
giám sát điện tử đối với người chưa
thành niên là bị can, bị cáo và phải ghi rõ phạm vi giám sát. Quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi
thi hành.
4. Thời hạn giám sát điện tử không quá thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo quy định
của Luật này. Thời hạn giám sát điện tử đối với người bị kết án
phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp
hành án phạt tù.
5. Người ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát điện
tử phải gửi ngay quyết định này cho người chưa thành niên
là bị can, bị cáo, người đại diện của họ; thông báo ngay việc áp dụng biện pháp này cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên là bị can, bị cáo
cư trú và giao người chưa thành niên là bị
can, bị cáo cho Ủy ban nhân dân cấp xã đó để thi hành.
Trường hợp người chưa thành niên là bị can, bị cáo
vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi phạm vi giám sát thì phải có sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của người đã ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát điện tử. Giấy phép này phải gửi cho Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người đó cư trú.
6. Bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại
khoản 2 Điều này thì bị tạm giam. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị can, bị cáo cư trú phải báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định áp
dụng biện pháp giám sát điện tử biết về việc vi phạm
để xử lý theo thẩm quyền.
7. Việc hủy
bỏ hoặc thay thế biện pháp giám sát điện
tử được thực hiện theo quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn
chặn của Luật này và Bộ luật Tố
tụng hình sự.
8. Chính phủ
quy định chi tiết Điều này.
Điều 140. Áp dụng
biện pháp giám sát bởi người đại diện
1.
Giám sát bởi
người đại diện có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị
cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án.
2.
Bị can, bị
cáo bị
giám sát bởi
người đại diện phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau
đây:
a)
Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan;
b)
Không bỏ trốn hoặc không tiếp tục
phạm tội;
c)
Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài
liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; không tẩu tán tài sản
liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa
án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định giám sát bởi người
đại diện và giao người chưa thành niên là bị can, bị cáo cho người đại diện
của họ để thực hiện việc giám sát.
Người đại diện được
giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo
đức và giáo dục người đó.
Trường hợp người đại diện
không có điều kiện để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ
được giao thì người có thẩm quyền quy định tại khoản này quyết định thay đổi
người đại diện.
4.
Thời hạn giám sát bởi người đại diện không
quá thời hạn điều tra, thời hạn quyết
định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử
phúc thẩm theo quy định của Luật này. Thời hạn giám sát bởi người đại diện đối với người chưa thành niên bị kết
án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi
chấp hành án phạt tù.
5.
Người ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện phải gửi ngay quyết định này cho người chưa
thành niên là bị can, bị cáo, người đại diện của họ; thông báo ngay việc
áp dụng biện pháp này cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên là bị can, bị cáo
cư trú để quản lý, theo dõi họ.
Trường
hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm
thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và phải có
giấy cho phép của người đã ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện. Giấy phép này phải
gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.
6.
Bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản 2 Điều này có thể bị tạm giam. Người đại diện được giao nhiệm vụ
giám sát phải kịp thời thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã về việc vi phạm và phối hợp với cơ
quan có thẩm quyền để có biện pháp ngăn
chặn, xử lý kịp thời. Ủy
ban nhân dân
cấp xã
nơi người
chưa thành niên là bị can, bị cáo cư trú phải báo ngay cho cơ quan đã ra
quyết định áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện biết để xử lý theo thẩm
quyền.
7.
Việc
hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp giám sát bởi người đại diện được thực hiện theo quy định
về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 141. Áp dụng
biện pháp áp giải, dẫn giải
1.
Áp giải có thể áp dụng đối với người chưa thành niên thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)
Người chưa thành niên là bị can, bị cáo đã có giấy triệu tập đến lần thứ hai
nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan;
b) Người chưa thành niên
là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị can, bị cáo đang bị tạm giam từ
nơi bị giam, giữ đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án.
2.
Dẫn giải chỉ
có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó
liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng
mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
3.
Khi áp giải, dẫn giải người chưa thành niên thì không còng tay hoặc áp dụng các
biện pháp mang tính cưỡng chế khác, trừ trường hợp người chưa thành niên có biểu hiện trốn,
hành vi chống đối, gây rối trật tự công cộng.
Mục 3
THỦ TỤC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA, TRUY TỐ
Điều 142. Tiếp nhận,
giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố
1.
Mọi hoạt động
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án có người chưa thành niên là người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị buộc tội phải được tiến hành trong môi trường thuận lợi cho việc bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, bí mật cá nhân, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi
ích hợp pháp khác của họ.
2.
Các thủ tục tố tụng thân thiện phải được áp dụng đối với người chưa thành niên là người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị buộc tội ngay từ giai đoạn khởi tố.
3. Khi tiến hành tố
tụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
có thái độ thân thiện, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi,
giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của họ.
4. Trường hợp cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thụ lý vụ án có người
chưa thành niên là người bị buộc tội thì phải đề nghị Viện kiểm sát có thẩm
quyền ra quyết định chuyển toàn bộ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
5. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết khoản 4 Điều
này.
Điều
143. Tách vụ án hình sự có người chưa thành niên
1. Trong vụ án
hình sự có bị
can là người chưa thành niên và người thành niên thì Cơ quan điều tra
tách vụ án hình sự để giải quyết vụ án độc lập đối với bị can là người chưa thành niên.
2. Tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá
trình giải quyết vụ án có người chưa thành niên và vụ án có người thành niên
theo quy định tại khoản 1 Điều này được sử dụng trong quá trình giải quyết các
vụ án này.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an và
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết Điều này.
Điều 144. Lấy lời
khai, hỏi cung
1.
Trường hợp lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên tại nơi tiến hành điều
tra, truy tố thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai, hỏi cung bảo đảm thân
thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ.
2.
Khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số
lượng lần lấy lời khai, hỏi cung và phải tạm dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi
cung khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng
khai báo chính xác, đầy đủ.
3.
Việc lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên phải có mặt người đại diện hoặc người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp cần
giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì thực hiện
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp cần thiết khi lấy lời khai, hỏi
cung, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể mời người làm công tác xã hội, chuyên gia y
tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học tham gia.
4.
Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người đại
diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người làm công tác
xã hội có thể hỏi người chưa thành niên nếu được Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý.
Điều tra viên, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu không được hỏi và phải dừng ngay
việc hỏi trong trường hợp câu hỏi của những người này có tính chất gợi ý, định
hướng liên quan đến vụ việc, vụ án.
5.
Việc
lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên không quá 02 lần trong 01 ngày và
mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp sau đây:
a)
Phạm tội có tổ chức;
b)
Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn;
c)
Ngăn chặn người khác phạm tội;
d)
Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án;
đ) Vụ việc, vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp.
6. Không lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành
niên vào ban đêm, trừ trường hợp sau đây:
a) Người chưa thành niên bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp;
b) Để truy bắt người phạm
tội khác đang bỏ trốn;
c) Ngăn chặn người khác
phạm tội.
7. Biên bản lấy lời
khai, hỏi cung người chưa thành niên chỉ có giá trị pháp lý khi có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người đại diện
hoặc người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Điều 145. Nhận dạng,
nhận biết giọng nói
1.
Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho người chưa thành niên là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can nhận dạng, nhận biết giọng nói.
Trường
hợp cho
người chưa thành niên nhận dạng hình ảnh tử thi có
hình dạng gây sợ hãi thì phải chuẩn bị kỹ tâm lý cho họ hoặc sử dụng các thiết bị điện tử,
hình ảnh mô phỏng phù hợp để nhận dạng.
2. Trong quá trình
tiến hành nhận dạng, nhận biết giọng nói, Điều tra viên tạo không khí thoải
mái, động viên người chưa thành niên đưa ra nhận diện chính xác nhất có thể.
Sau khi người
được yêu cầu nhận dạng, nhận biết giọng nói đã xác nhận được một người,
một vật, một ảnh hoặc tiếng nói trong số những người, vật, ảnh
hoặc giọng
nói được đưa ra, Điều tra viên có thể không cần yêu cầu người chưa thành niên
giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được
người, vật, ảnh, giọng nói đó.
3. Không tiến hành nhận
dạng, nhận biết giọng nói vào ban đêm, trừ trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 6 Điều 144 của Luật này.
4. Việc cho người
chưa thành niên nhận dạng, nhận biết giọng nói phải có mặt người đại diện hoặc
người bào chữa của họ.
Điều 146. Đối chất
1.
Việc đối chất với người chưa thành niên chỉ được thực hiện trong trường hợp nếu
không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.
2.
Việc đối
chất đối với người chưa thành niên chỉ được tiến hành 01 lần trong một
ngày và không quá 02 giờ. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải tạm dừng ngay việc đối chất khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, căng thẳng.
3.
Khi tiến
hành việc đối chất, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể bố trí cho
người tham gia đối chất ngồi ở phòng cách ly và sử dụng thiết bị điện tử, màn che hoặc các
biện pháp bảo vệ khác để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của người chưa
thành niên.
4.
Việc cho người chưa thành niên đối chất phải có mặt người đại diện hoặc người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Điều 147. Khám xét
người, xem xét dấu vết trên thân thể
1.
Việc khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể của người chưa thành niên phải
có sự tham gia của người đại diện của họ.
2. Bảo đảm thời
gian khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể người chưa thành niên được
tiến hành nhanh nhất.
Mục 4
THỦ TỤC XÉT XỬ
Điều 148. Thẩm quyền
xét xử vụ án hình sự
Tòa
gia đình và người chưa thành niên có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự có người
chưa thành niên là người bị buộc tội. Đối với Tòa án chưa tổ chức Tòa gia đình
và người chưa thành niên thì việc xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên
là người bị buộc tội do Thẩm phán quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này thực
hiện.
Điều 149. Phòng xử
án thân thiện
1. Tòa án xét xử bị cáo
là người chưa thành niên tại phòng xử án thân thiện.
2.
Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự
phiên tòa trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt phẳng.
Người
chưa thành niên là bị cáo tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người
bào chữa, người đại diện của họ.
3. Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao quy định chi tiết Điều này.
Điều 150. Sự có mặt của người làm công tác xã hội
Người
làm công tác xã hội tham gia phiên tòa khi được Tòa án triệu tập. Nếu người làm
công tác xã hội vắng mặt thì tùy từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Điều 151. Thủ tục xét xử thân thiện
1.
Phiên tòa phải được tổ chức xét xử thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên. Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa mặc trang phục hành
chính của Tòa án; Kiểm sát viên mặc trang phục phù hợp, không mặc trang phục Kiểm
sát nhân dân.
2.
Khi xét xử không còng tay hoặc áp dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế
khác, trừ trường hợp người chưa thành niên có biểu hiện chống đối, gây mất trật
tự tại phiên tòa hoặc hành động tiêu cực khác.
3.
Người đại diện
của người chưa thành niên có thể hỗ trợ người chưa thành niên tại phiên tòa.
4.
Chủ tọa phiên tòa đề nghị người làm công tác xã hội có mặt tại phiên tòa trình bày báo cáo
điều tra xã hội và báo cáo điều tra xã hội bổ sung (nếu có), đề nghị áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng (nếu có) và những vấn đề khác có liên quan.
5.
Việc xét hỏi, tranh luận đối với người chưa thành niên tại phiên tòa được tiến
hành phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của họ.
Câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
6.
Khi xét xử, nếu xét thấy người chưa thành niên có đủ điều kiện áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng thì Hội đồng xét xử xem xét, ra quyết định áp dụng biện
pháp xử lý chuyển hướng đối với bị cáo. Quyết định này phải có các nội dung quy
định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này, trừ nội dung đình chỉ vụ án đối với bị cáo. Quyết định
này có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Trường
hợp xét thấy
cần xây dựng hoặc bổ sung kế hoạch xử lý chuyển hướng thì Hội đồng xét xử
quyết định tạm ngừng phiên tòa và đề nghị người làm công tác xã hội xây dựng hoặc bổ
sung kế hoạch xử lý chuyển hướng. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 10 ngày kể
từ ngày quyết
định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, Hội đồng
xét xử tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
7. Sau khi tuyên án hoặc
công bố quyết định, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam người chưa thành niên nếu
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người chưa thành niên
đang bị tạm giam nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành bản
án, quyết định;
b) Người chưa thành niên
không bị tạm giam nhưng có căn cứ cho thấy họ có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm
tội.
8. Thời hạn tạm giam
đối với người chưa thành niên được thực hiện như sau:
a)
Không quá 45 ngày kể từ ngày tuyên án;
b)
Không quá 25 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng.
Điều 152. Tuyên án
Khi
tuyên án, Hội đồng xét xử đọc phần quyết định trong bản án. Sau khi đọc xong có
thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án, quyền kháng cáo và những nội dung
khác theo quy định của pháp luật.
Chương VIII
THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
LÀ BỊ HẠI, NGƯỜI LÀM CHỨNG
Điều
153. Bảo vệ, hỗ trợ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng
1.
Việc tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm
chứng phải được tiến hành trong môi trường thuận lợi cho việc bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, bí mật cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của họ. Hạn chế đến mức thấp nhất số lần tiếp xúc giữa người
chưa thành niên là bị hại, người làm chứng với người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người
bị buộc tội.
2.
Cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm
thiểu sự lo lắng, căng thẳng của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng
khi tham gia tố tụng.
3.
Cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với người làm công tác xã hội,
cơ quan bảo vệ trẻ em và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan nhằm hỗ trợ,
chăm sóc, bảo vệ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng trong quá
trình tố tụng.
4.
Ưu tiên giải quyết các vụ việc, vụ án có người chưa thành niên là bị hại, người
làm chứng trong thời gian sớm nhất.
5.
Cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết
theo quy định của pháp luật để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người chưa thành niên là bị hại, người làm
chứng và người thân thích của họ khi bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại.
6.
Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng không bị dẫn giải.
7. Người chưa thành niên
là bị hại có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ từ nguồn kinh phí của Quỹ Bảo trợ
trẻ em.
Điều 154. Việc
tham gia tố tụng của người đại diện và người hỗ trợ khác
1.
Người chưa thành niên là bị hại có quyền có người đại diện, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, người chưa thành niên là người làm chứng có quyền có người đại diện
cùng tham gia các hoạt động tố tụng. Trường hợp sự tham gia của người đại diện
không bảo đảm
lợi ích của
người chưa thành niên thì phải chỉ định người đại diện khác cho họ theo quy định của
pháp luật.
2. Ngay sau khi thụ
lý vụ việc, vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo bằng
văn bản cho người đại diện của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng
để tham gia tố tụng; trường hợp cần thiết có thể thông báo trực tiếp, qua điện
thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng
văn bản. Người đại diện phải có mặt đúng thời gian, địa điểm nêu trong thông
báo.
3. Trước khi tiến
hành hoạt động tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
thông báo cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên là bị hại, người đại diện của người làm chứng theo quy định của
Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Theo đề nghị của
người chưa thành niên là bị hại, người đại diện của họ hoặc khi xét thấy cần thiết, cơ
quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đề nghị người làm công tác xã hội tham gia tố tụng
để hướng dẫn, hỗ trợ cho người chưa thành niên và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác của
người làm công tác xã hội theo quy định của pháp luật.
5. Trường hợp cần
thiết, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể yêu cầu chuyên gia y tế, tâm lý,
giáo dục, xã hội học hỗ trợ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng
khi tham gia tố tụng.
Điều 155. Giữ bí mật thông tin của người chưa thành
niên là bị hại, người làm chứng
1.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp phù hợp
nhằm giữ
bí mật cá nhân của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.
2.
Nghiêm cấm tiết lộ thông tin về họ và tên, nơi cư trú, học tập, làm việc, hình ảnh,
thông tin nhận dạng khác của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.
Khi
tuyên án, Thẩm phán không được nêu họ và tên, nơi cư trú, học tập, làm việc của
người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.
3.
Tòa án xét xử
kín đối với vụ án hình sự có người chưa thành niên bị xâm hại tình dục hoặc trường
hợp đặc biệt khác cần bảo vệ người chưa thành niên.
4.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kịp thời đề nghị các cơ
quan báo
chí, thông tấn không đăng tải, gỡ các thông tin, hình ảnh liên quan đến
vụ việc, vụ án ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên là bị hại, người
làm chứng.
5.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp nghiệp vụ
hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kỹ thuật để bảo vệ
thông tin cá nhân, danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên là bị hại, người
làm chứng bị phát tán trên không gian mạng.
6.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan xử lý theo thẩm quyền đối với người cố tình phát
tán, truyền đưa thông tin cá nhân của người chưa thành niên là bị hại trong các
vụ việc, vụ án xâm hại người chưa thành niên, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm
của họ.
Điều 156. Lấy lời
khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra
1.
Việc lấy lời khai người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng có thể thực
hiện tại nơi tiến hành điều tra, truy tố, nơi cư trú hoặc nơi học tập, nơi làm việc,
nơi sinh hoạt của người đó hoặc cơ sở chăm sóc người chưa thành niên. Ưu tiên địa
điểm lấy lời khai tại nơi cư trú của họ. Trường hợp lấy lời khai của người chưa
thành niên là bị hại, người làm chứng tại nơi tiến hành điều tra, truy tố thì
phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý,
lứa tuổi của họ.
Trường
hợp cần thiết, việc lấy lời khai của người chưa thành niên là bị hại, người làm
chứng có thể được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
2.
Khi tiến hành lấy lời khai người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ thân thiện, sử dụng ngôn
ngữ dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành, đặc điểm riêng về
hoàn cảnh gia đình, tình trạng tâm lý, sức khỏe và những đặc điểm khác của người
chưa thành niên.
3.
Cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải hạn chế tối đa số lần lấy lời khai
của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng và chỉ lấy lời khai khi thực
sự cần thiết để phục vụ hoạt động tố tụng.
4.
Không hỏi người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng nhiều lần về cùng
một nội dung. Việc
lấy lời khai không quá 02 lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ
trường hợp vụ
việc, vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Việc lấy lời khai phải tạm dừng
ngay khi người
chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo
chính xác, đầy đủ.
5.
Khi tiến hành lấy lời khai, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể sử dụng
sơ đồ, mô hình, thiết bị điện tử hoặc công cụ khác để hỗ trợ việc lấy lời khai
người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.
6.
Không tiến hành đối chất giữa người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng
với người bị buộc tội, trừ trường hợp nếu không đối chất thì không thể giải quyết
được vụ án.
Khi
tiến hành đối chất, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bố trí cho người tham gia đối chất ngồi ở phòng cách
ly và sử dụng thiết bị điện tử, màn che hoặc các biện pháp bảo vệ khác để không
làm ảnh hưởng đến tâm lý của người chưa thành niên.
Việc đối chất đối với
người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng chỉ được tiến hành 01 lần trong một
ngày và không quá 02 giờ. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tạm dừng ngay việc đối chất
khi bị hại,
người làm chứng có biểu hiện mệt mỏi, căng thẳng.
7.
Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng có quyền từ chối tham gia vào hoạt động thực
nghiệm điều tra, nếu hoạt động đó có thể làm tổn thương tâm lý, tinh thần của
họ.
8. Việc lấy lời
khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra phải có mặt của
người đại diện hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
9. Khi lấy lời khai,
đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, Điều tra viên,
Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên mặc trang phục phù hợp, không mặc
trang phục Công an nhân dân, Kiểm sát nhân dân.
Điều 157. Xem xét
dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám định
1.
Việc xem xét dấu vết trên thân thể của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng
phải có sự tham gia của người đại diện của họ.
Trường
hợp cần thiết có thể mời bác sỹ tham gia việc xem xét dấu vết trên thân thể của
người chưa thành niên là bị hại. Việc khám bộ phận sinh dục của người chưa
thành niên là bị hại phải do bác sỹ thực hiện.
2.
Bảo đảm
thời gian xem xét dấu vết trên thân thể người chưa thành niên là bị hại, người
làm chứng được tiến hành nhanh nhất.
3.
Chỉ được trưng cầu giám định hoặc lấy mẫu trên cơ thể đối với người chưa thành
niên là bị hại, người làm chứng nếu có căn cứ cho rằng việc đó là cần thiết để
giải quyết vụ
việc, vụ án. Khi tiến hành việc giám định và lấy mẫu trên cơ thể phải
tôn trọng quyền riêng tư của người chưa thành niên.
4.
Đối với những vụ việc, vụ án phạm tội quả tang hoặc diễn ra vừa kết thúc thì bị
phát hiện hoặc có căn cứ, tài liệu xác định có hành vi xâm hại người chưa thành
niên hoặc thuộc các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cơ quan đang
thụ lý vụ việc, vụ án phải tiến hành trưng cầu giám định trong thời hạn 24 giờ
kể từ khi có căn cứ. Trường hợp cần phải đưa bị hại đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
để sơ cứu, cấp cứu, cơ quan đang thụ lý vụ việc, vụ án phải phối hợp với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
để thu mẫu giám định.
Điều 158. Hạn chế
tiếp xúc với bị cáo
1.
Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa người chưa thành niên là bị hại,
người làm chứng với bị cáo khi họ trình bày lời khai tại phiên tòa.
2.
Trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phải cách ly người chưa thành
niên là bị hại, người làm chứng với bị cáo trong trường hợp sau đây:
a)
Vụ án có người
chưa thành niên là bị hại bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua
bán;
b)
Vụ án có bị hại là người dưới 10 tuổi;
c)
Vụ án khác có yêu cầu của người chưa thành niên hoặc người đại diện của họ và Hội
đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly để bảo đảm lợi ích tốt nhất của người
chưa thành niên.
Điều 159. Thủ tục
xét xử
1.
Hạn chế việc triệu tập người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham
gia phiên tòa nếu không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa sử dụng lời khai của họ trong hồ sơ vụ án hoặc áp dụng các biện
pháp thay thế khác để xét xử vụ án.
Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa có thể quyết định xét xử trực tuyến theo quy định của
pháp luật để người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia
phiên tòa tại điểm cầu thành phần.
2.
Trường hợp người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia phiên tòa
thì bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử; trường
hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải bố
trí khu vực ngăn cách với bị cáo.
3.
Khi xét xử phải
bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a)
Khi xét hỏi, câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dùng ngôn ngữ phù hợp với lứa tuổi,
giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của người chưa thành
niên, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc. Việc xét hỏi cần chú ý đặc điểm riêng về
hoàn cảnh gia đình, tình trạng tâm lý, sức khỏe và những đặc điểm khác của họ;
b) Trường hợp cần thiết,
có thể sử dụng sơ đồ, mô hình cơ thể, thiết bị điện tử hoặc công cụ khác để hỗ trợ
người chưa thành niên trả lời câu hỏi. Không được yêu cầu người chưa thành niên
là bị hại, người làm chứng chỉ vào bộ phận trên cơ thể của họ;
c)
Không hỏi những câu mang tính công kích, đe dọa, làm xấu hổ hoặc xúc phạm người
chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.
4.
Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng được tạo điều kiện để làm
quen, tiếp xúc với quy trình và thủ tục xét xử.
5. Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao quy định chi tiết Điều này.
Điều 160. Bồi thường
cho người chưa thành niên là bị hại
1.
Việc xác định
thiệt hại và bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân
sự.
2.
Việc bồi thường cho người chưa thành niên là bị hại phải thực hiện nhanh chóng,
kịp thời.
3.
Trường hợp người chưa thành niên là bị hại bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe cần phải cứu
chữa kịp thời nhưng người bồi thường chưa thể thực hiện bồi thường ngay
thì có thể sử dụng kinh phí từ Quỹ Bảo Trợ trẻ em cho họ. Người có nghĩa vụ bồi
thường phải thực hiện hoàn trả Quỹ theo quy định.
4. Chính phủ quy định
chi tiết khoản 3 Điều này.
Điều 161. Hỗ trợ
chăm sóc phục hồi cho người chưa thành niên là bị hại
1.
Bị hại là người dưới 16 tuổi có quyền được hỗ trợ và can thiệp theo quy định của
Luật Trẻ em.
2. Bị hại là người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền được bố trí nơi tạm trú an toàn, được
tư vấn tâm lý, điều trị y tế, trợ giúp pháp lý, đào tạo kỹ năng, chăm sóc thay
thế và hoạt động hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật.
Phần thứ tư
THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ, TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
Chương IX
THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Điều
162. Điều kiện cơ sở vật chất của trại giam riêng, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa
thành niên là phạm nhân trong trại giam
1. Trại giam
riêng, phân
trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân trong trại giam phải được bố trí, thiết kế phù hợp với lứa tuổi,
giới tính và bảo đảm có các khu vực, công trình sau đây:
a) Khu giam giữ
theo tính chất của tội phạm, mức hình phạt, giới tính;
b) Buồng giam;
c) Công trình phục vụ việc học tập, sinh hoạt,
chăm sóc y tế;
d) Khu thể thao, vui chơi;
đ) Khu lao động, dạy nghề;
e) Khu thăm gặp;
g) Các công trình khác theo quy định của Luật
Thi hành án hình sự.
2. Buồng giam phải bảo
đảm thoáng
mát về mùa hè, kín gió về mùa đông, hợp vệ sinh môi trường. Diện tích chỗ
nằm tối thiểu cho mỗi người chưa thành
niên là phạm nhân là 2,5
m2.
3. Trại giam
riêng, phân
trại hoặc khu giam giữ dành riêng
cho người chưa thành niên là phạm
nhân trong trại giam phải
lắp đặt thiết bị để người chưa thành niên có thể tham gia các hoạt động thể dục,
thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, nghe đài, đọc sách, báo, xem truyền hình
và các hình thức vui chơi giải trí khác phù hợp.
4. Việc bố trí
giam riêng người
chưa thành niên là phạm nhân được thực hiện theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự.
5. Căn cứ vào độ
tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ văn hóa, tính chất của tội phạm, mức hình
phạt, trại giam bố trí người chưa thành niên là phạm nhân thành các đội, tổ để học tập,
lao động, sinh hoạt và phân công cán bộ trại giam có cùng giới tính trực tiếp phụ
trách.
6. Căn cứ vào điều kiện thực tế, Bộ trưởng Bộ
Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức trại giam riêng, phân trại
hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là
phạm nhân.
7. Chính phủ quy định chi tiết các khoản 1, 2,
3, 4 và 5 Điều này.
Điều 163. Chế độ
chăm sóc y tế
1. Người chưa thành
niên là phạm nhân được chăm sóc y tế, bao gồm:
a) Tư vấn tâm lý và
sức khỏe tâm thần;
b) Chăm sóc sức khỏe
sinh sản;
c) Các chế độ chăm sóc y
tế khác theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2. Người chưa thành
niên là phạm nhân khi đến trại giam được khám sức khỏe và được khám tổng quát
sức khỏe định
kỳ 01 lần trong 01 năm.
3. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 164. Chế độ học
văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động
1.
Trại giam có
trách nhiệm giáo dục người chưa thành niên là phạm nhân về văn hóa, pháp luật, giáo dục hướng
nghiệp và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính, sức khỏe của
họ. Người
chưa thành niên là phạm nhân được học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề
theo quy định của Chính phủ.
2. Trường hợp không thể bố trí giáo viên dạy học văn hóa
theo quy định thì trại giam phải phối hợp với cơ sở giáo dục để tổ chức, liên kết lớp
học trực tuyến cho người chưa thành niên là phạm nhân. Việc mở lớp học trực tuyến phải bảo đảm
an toàn, tránh kỳ thị, ảnh hưởng tới người chưa thành niên là phạm nhân và học sinh khác.
3.
Người chưa thành niên là phạm nhân được lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe;
không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại;
bảo đảm an
toàn, vệ sinh lao động.
4. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 165. Chế độ
ăn, mặc, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí
1. Người chưa thành
niên là phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm
nhân là người thành niên và được tăng thêm thịt, cá nhưng không quá
20% so với định lượng.
2. Ngoài tiêu chuẩn mặc
và tư trang như phạm nhân là người thành niên, mỗi năm người chưa thành niên là
phạm nhân được cấp thêm quần áo theo mẫu thống nhất và đồ dùng cá nhân khác
theo quy định.
3. Trại giam có
trách nhiệm tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, nghe đài,
đọc sách, báo, xem truyền hình và các hình thức vui chơi giải trí khác phù hợp
với đặc điểm của người chưa thành niên.
4. Khuyến khích người chưa thành
niên là phạm nhân phát huy năng lực, sở trường, năng khiếu cá nhân.
5. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 166. Chế độ gặp,
liên lạc với thân nhân
1.
Người chưa thành niên là phạm nhân được gặp thân nhân không quá 04 lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp
không quá 04 giờ. Căn cứ kết quả xếp loại chấp hành án, yêu cầu giáo dục
cải tạo, thành tích lao động, học tập, người chưa thành niên là phạm nhân có thể được
kéo dài thời gian gặp nhưng không quá 24 giờ trong 01 lần.
2.
Người chưa
thành niên là phạm nhân được liên lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm
thanh bằng phương tiện điện tử với thân nhân ở trong nước không quá 04 lần
trong 01 tháng, mỗi lần không quá 15 phút, trừ trường hợp cấp bách. Việc liên lạc
phải có sự giám sát của cán bộ trại giam. Chi phí cho việc liên lạc tại khoản
này do phạm nhân chi trả.
3.
Nhà nước khuyến khích thân nhân của người chưa thành niên là phạm nhân quan tâm
gửi sách vở, đồ dùng học tập, dụng cụ thể dục, thể thao, vui chơi giải trí cho
phạm nhân.
Điều 167. Cán bộ
trại giam
Cán
bộ trại giam phải là người đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục người chưa thành
niên hoặc đã từng tham gia giải quyết các vụ việc liên quan đến người
chưa thành niên.
Điều 168. Khen thưởng
người chưa thành niên là phạm nhân
1.
Trong thời gian chấp hành án phạt tù, người chưa thành niên là phạm nhân chấp
hành tốt nội quy trại giam, có thành tích trong học tập, lao động hoặc lập công
thì được khen thưởng theo một hoặc nhiều hình thức sau đây:
a)
Biểu dương;
b)
Tặng giấy khen;
c) Thưởng tiền hoặc hiện
vật;
d) Tăng số lần được
liên lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với
thân nhân ở
trong nước;
đ) Tăng số lần và kéo dài thời
gian gặp thân nhân;
e) Tăng số lần và số
lượng quà được nhận.
2. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 169. Xử lý
người chưa thành niên là phạm nhân vi phạm
1. Người chưa thành niên
là phạm nhân vi phạm nội quy trại giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp
luật về thi hành án hình sự. Không áp dụng biện pháp giam tại buồng kỷ luật đối
với người chưa thành niên là phạm nhân.
2. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 170. Chuyển
phạm nhân đến trại giam, phân trại, khu
giam giữ khác để tiếp tục thi hành án
1. Khi phạm nhân đủ 18 tuổi
thì chuyển sang trại giam, phân trại, khu giam giữ cho
người thành niên và thực hiện chế độ quản lý giam giữ, giáo dục đối với
người thành niên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
2. Người chưa thành
niên là phạm nhân có thể được xem xét
chuyển đến trại
giam khác nếu xét thấy việc giáo dục, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng
của họ hiệu quả hơn hoặc khi xét thấy cần thiết.
Điều 171. Chuẩn bị
trả tự do
1. Hai tháng trước
khi người chưa thành niên là phạm nhân hết thời hạn chấp hành án phạt tù, trại giam phải
thông báo cho họ,
người đại diện của họ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Ủy ban
nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên chấp hành xong án
phạt tù về cư trú, học tập, làm việc, thông báo cho Bộ Ngoại giao trong trường
hợp người chưa thành niên là phạm nhân là người nước ngoài.
2. Nội dung thông
báo bao gồm: ngày được trả tự do, kết quả chấp hành án phạt tù và thông tin cần
thiết khác có liên quan để xem xét, sắp xếp, tạo lập cuộc sống bình thường cho
người đó.
3. Trường hợp
người chưa thành niên là phạm nhân đã chấp hành xong án phạt tù mà đến ngày được
trả tự do không rõ cha, mẹ và người giám hộ thì trại giam có trách nhiệm liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trại
giam để đề nghị giúp đỡ, sắp xếp chỗ ăn, ở và tạo việc làm, học tập; trường hợp
Ủy ban nhân dân cấp xã không thể bố trí được chỗ ăn, ở đối với họ thì trại giam
lập hồ sơ đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương đó.
4. Đối với phạm nhân là người
dưới
16 tuổi hoặc là
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị ốm đau, bệnh tật đến ngày được trả tự do
mà không có thân nhân đến đón thì trại giam phải cử người đưa về giao cho gia
đình hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Chương X
TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
Điều 172. Chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng
1.
Trường giáo dưỡng, trại giam có trách nhiệm tổ chức chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng
cho người
chưa thành niên trước khi chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng, người
chưa thành niên được chấm dứt
trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành
niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành
niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện. Nội dung chuẩn bị tái hòa
nhập cộng đồng bao gồm:
a) Tư vấn tâm lý,
hỗ trợ các thủ tục pháp lý;
b) Định hướng nghề
nghiệp, tìm kiếm việc làm;
c)
Hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hòa nhập cộng đồng của trường giáo dưỡng, trại
giam.
2.
Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tạo điều kiện, giúp đỡ
người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành
niên được chấm dứt trước thời hạn
việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong
án phạt tù, người
chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời
hạn có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng bằng các biện pháp sau đây:
a)
Thông tin, truyền thông, giáo dục về tái hòa nhập cộng đồng;
b)
Dạy nghề, giải quyết việc làm;
c) Trợ giúp về tâm
lý và hỗ trợ các thủ tục pháp lý;
d)
Các biện pháp hỗ trợ khác.
3. Chính phủ quy định
chi tiết Điều này.
Điều 173. Tiếp nhận, hỗ trợ người chưa thành niên tái
hòa nhập cộng đồng
1.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên về cư trú có trách
nhiệm tổ chức,
hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên. Thời gian hỗ trợ
tối thiểu là
06 tháng kể từ khi tiếp nhận người chưa thành niên.
2.
Nội dung hỗ
trợ tái
hòa nhập cộng đồng bao gồm:
a) Chỉ định người
giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng từ những người sau đây:
người làm công tác xã hội, cộng tác viên công tác
xã hội cấp xã, đại diện Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có uy tín trong cộng
đồng dân cư có điều kiện, khả năng và kinh nghiệm trong giáo dục, giúp đỡ người chưa
thành niên;
b)
Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện và vận động nhân dân trong khu vực dân cư phối
hợp chặt chẽ với gia đình trong việc giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập
cộng đồng;
c) Trợ giúp về tâm
lý, hỗ trợ thủ tục pháp lý cần thiết cho người chưa thành niên;
d) Tạo điều kiện
thuận lợi để người chưa thành niên tham gia các chương trình học tập, lao động,
hướng nghiệp, học nghề, phát triển kỹ năng sống;
đ) Tuyên truyền, vận
động nhân dân và thực
hiện các biện pháp khác để xóa bỏ định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử đối với
người chưa thành niên;
e)
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục,
cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp, cá nhân tiếp nhận, giúp đỡ về học tập,
lao động, hướng nghiệp, dạy nghề, tìm kiếm việc làm cho người chưa thành niên.
3. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này.
Điều 174. Trợ giúp về tâm lý
1.
Trợ giúp về tâm lý nhằm hỗ trợ, giúp đỡ người chưa thành niên chấp hành xong biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành
niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện
xây dựng niềm tin, nghị lực, ý chí phấn đấu tái hòa nhập cộng đồng và phòng
tránh các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật.
2.
Nội dung trợ giúp về tâm lý gồm: tư vấn xóa bỏ mặc cảm tự ti; rèn luyện kỹ năng
sống, kỹ năng hòa nhập cộng đồng; nâng cao khả năng tự giải quyết những khó
khăn, vướng mắc trong các quan hệ xã hội và các nội dung hỗ
trợ khác.
3.
Trợ giúp về tâm lý được thực hiện thông qua các hình thức sau đây:
a)
Tổ chức tư vấn riêng, tư vấn nhóm;
b)
Cung cấp thông tin, tài liệu trên cơ sở nhu cầu cần được trợ giúp;
c)
Thông qua các buổi nói chuyện, sinh hoạt cộng đồng, diễn đàn;
d)
Tư vấn thông qua mạng xã hội, trang thông tin điện tử, thư điện tử, điện thoại
và các phương tiện thông tin, truyền thông khác.
Điều 175. Đào tạo nghề, tạo việc làm
1.
Người chưa
thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành
niên được chấm dứt trước thời hạn
việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong
án phạt tù, người
chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời
hạn có điều kiện được ưu tiên đào tạo nghề và hỗ trợ vay vốn để tạo việc làm
theo quy định của pháp luật.
2.
Căn cứ nhu cầu của người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng, người
chưa thành niên được chấm dứt
trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong
án phạt tù, người
chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời
hạn có điều kiện và thực tiễn thị trường lao động, trung tâm dịch vụ việc làm tổ
chức tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho họ; theo dõi, báo
cáo tình trạng việc làm của họ do trung tâm giới thiệu với cơ quan quản
lý nhà nước về dịch vụ việc làm.
3.
Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân không được phân biệt đối xử, kỳ thị khi tuyển dụng,
sử dụng người lao động là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên vì lý do
trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đã bị kết án
phạt tù.
Điều 176. Trách
nhiệm của người được chỉ định giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng
1.
Hỗ trợ
về tâm lý cho người chưa thành niên.
2.
Đề xuất các biện pháp hỗ trợ, can thiệp, bảo vệ phù hợp với người chưa thành
niên trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp luật.
3.
Hỗ
trợ kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình giúp đỡ người chưa thành niên.
4. Thực hiện các nhiệm
vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 177. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số chương, điều của luật có liên quan
1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số chương, điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 như sau:
a) Bãi bỏ chương XII;
b)
Bỏ từ “tư pháp” tại điểm g khoản 1 Điều 134.
2.
Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số chương, điều của Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Luật số 02/2021/QH15 và Luật số 34/2024/QH15 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 7 như sau:
“Điều
7. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Mọi
hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Đối với việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
liên quan đến người chưa thành niên thì còn phải thực hiện theo quy định của Luật
Tư pháp người chưa thành niên.”;
b)
Bỏ cụm từ “quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18
tuổi phạm tội;” tại điểm đ khoản 1 Điều 37 và điểm h khoản 1 Điều 42;
c)
Bãi bỏ điểm đ khoản 1 Điều 39;
d)
Bỏ cụm từ “thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;” tại điểm e
khoản 2 Điều 45;
đ)
Thay thế cụm từ “hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc
khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự” bằng cụm từ “hoặc có căn cứ quy định
tại Điều 16 hoặc Điều 29 của Bộ luật Hình sự hoặc người chưa thành niên
được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật Tư pháp người
chưa thành niên” tại điểm a khoản 1 Điều 230 và khoản 1 Điều 248;
e)
Bổ sung cụm từ “hoặc người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển
hướng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên” vào sau cụm từ “của
Bộ luật này” tại điểm a khoản 1 Điều 282;
g)
Bỏ cụm từ “hoặc khoản 2 Điều 91” tại Điều 285;
h) Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều
330 như sau:
“2. Quyết định sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án,
quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ
án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy
định của Bộ luật này, Luật Tư pháp người chưa thành niên.”;
i)
Bãi bỏ chương XXVIII;
k)
Bổ sung cụm từ “và quyết định tố tụng quy định tại chương VII và chương VIII của
Luật Tư pháp người chưa thành niên” vào sau cụm từ “của Bộ luật này” tại khoản
1 Điều 470;
l)
Bổ sung cụm từ “và hành vi tố tụng quy định tại chương VII và chương VIII của
Luật Tư pháp người chưa thành niên” vào sau cụm từ “của Bộ luật này” tại khoản
2 Điều 470.
3. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Luật Thi hành án hình sự số 41/2019/QH14 như sau:
a) Bỏ cụm từ “, giáo dục tại trường giáo dưỡng” tại khoản
4 Điều 2;
b)
Bãi bỏ khoản 15 Điều 3, điểm b khoản 1 Điều 132, khoản 2 Điều 133,
khoản 2 Điều 135, mục 4 chương III và mục 3 chương X;
c)
Bỏ cụm từ “hoặc người chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng”
tại khoản 17 Điều 3.
4. Thay thế cụm từ “biện pháp khiển trách, hòa giải
tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn trách
nhiệm hình sự” bằng cụm từ “biện pháp xử lý chuyển
hướng tại cộng đồng”
tại khoản 1 Điều 71 của Luật Trẻ em số 102/2016/QH13 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Luật số 28/2018/QH14.
5.
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều
theo Luật số 64/2014/QH13, Luật số 23/2018/QH14, Luật số 67/2020/QH14, Luật số
03/2022/QH15, Luật số 31/2024/QH15 và Luật số 43/2024/QH15 như sau:
a)
Bổ sung cụm từ “của Tòa án, biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại
trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án” vào sau cụm từ “quyết định hình sự” tại Điều 1;
b)
Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 2 như sau:
“3.
Quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có hiệu lực pháp luật.”.
6. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số khoản của Điều 7
của Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 5 như sau:
“5. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố, người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm
chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân.”;
b) Bãi bỏ điểm đ khoản 7.
7.
Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 31 của Luật Cư trú số 68/2020/QH14 như
sau:
“a)
Đi khỏi phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi đang cư trú từ 01 ngày trở lên đối
với bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết
định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại hoặc được
hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt tù được hưởng
án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án phạt quản chế,
cải tạo không giam giữ; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang
trong thời gian thử thách; người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng
đồng, người chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nhưng đang được
hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ chấp hành;”.
Điều 178. Hiệu lực
thi hành
1.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2026, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều này.
2.
Quy định tại Điều 139, khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Luật này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2028.
Điều 179. Quy định chuyển tiếp
1. Kể từ ngày 01
tháng 01 năm 2026:
a) Đối với vụ việc, vụ án
đang trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử sơ thẩm mà đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa kết thúc thì áp dụng
các quy định của Luật này để giải quyết vụ việc, vụ án, trừ thời hạn điều tra,
thời hạn quyết định việc truy tố hoặc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn
tạm giữ, thời hạn tạm giam, việc tách vụ án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử mà chưa có sự tham gia tố tụng của
người làm công tác xã hội thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu
người làm công tác xã hội tham gia tố tụng theo quy định của Luật này.
Trường hợp thời hạn điều
tra, thời hạn quyết định việc truy tố hoặc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm còn
lại không đủ thời gian để áp dụng đầy đủ thủ tục xử lý chuyển hướng nhưng có
các căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các điều 35, 37
và 39 của Luật này thì cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án xem xét, ra
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên;
b) Đối với vụ án đang
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm mà đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa kết thúc
thì Toà án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào các quy định của Luật này để tiếp tục
giải quyết vụ án, trừ thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam được
thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp xét thấy người
chưa thành niên có căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại
các điều 35, 37 và 39 của Luật này thì Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm và
quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trong bản án phúc thẩm;
c) Đối với vụ án do Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang thụ lý, giải
quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng đến ngày 01
tháng 01 năm 2026 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự cho đến khi kết thúc điều tra;
d) Đối với những bị can,
bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng đến
ngày 01 tháng 01 năm 2026 không bị tạm giam theo quy định của Luật này thì Viện
kiểm sát, Tòa án quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế
bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng
hình sự;
đ) Đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa
được thi hành hoặc chưa thi hành xong thì áp dụng các quy định của Luật này và
pháp luật có liên quan để thi hành.
2. Các điều khoản của Luật
này quy định về hình
phạt cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, án treo, hoãn chấp
hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định
khác có lợi cho người phạm tội quy định tại chương VI của Luật này được áp dụng
kể từ ngày Luật này được công bố.
3. Các điều khoản của Luật
này quy định về biện pháp xử lý chuyển hướng, hình phạt cảnh
cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, án treo, hoãn chấp hành
hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội
quy định tại chương III và chương VI của Luật này thì được áp dụng đối với cả
những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2026 mà
sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với
người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, hoãn chấp hành hình phạt
tù, xóa án tích.
4. Đối với những hành vi
phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước
ngày 01 tháng 01 năm 2026 thì không được căn cứ
vào những quy định của Luật này có nội dung khác
so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm, trừ trường hợp vi phạm quy định tại khoản 2
Điều này; trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước
ngày 01 tháng 01 năm 2026 thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
5. Trường hợp người phạm
tội đã bị kết án phạt tù trước ngày Luật này được công bố theo đúng các văn bản
trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi có mức hình phạt tù cao hơn 09 năm và không thuộc trường hợp quy định
tại khoản 4 Điều 119, Điều 121 và Điều 122 của Luật này hoặc người phạm tội từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có mức hình phạt tù cao hơn 15 năm và không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119, Điều 121 và Điều 122 của Luật này thì
kể từ ngày Luật này được công bố giải quyết như sau:
a) Trường hợp họ đã chấp
hành bằng hoặc quá mức hình phạt tù cao nhất quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều
119 của Luật này thì trại giam rà soát, có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi họ đang chấp hành án quyết
định miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại;
b) Trường hợp họ đã chấp
hành được một phần hình phạt nhưng chưa đến mức hình phạt tù cao nhất quy định
tại khoản 1 và khoản 3 Điều 119 của Luật này thì trại giam rà soát, có văn bản
đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu
nơi họ đang chấp hành án quyết định giảm mức hình phạt tù đã tuyên xuống còn 09
năm đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc 15 năm đối với
người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
c) Trường hợp họ đang được
hoãn chấp hành hình phạt tù thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu rà soát, có văn bản đề nghị Chánh
án Tòa án đã ra quyết định thi hành án quyết định giảm mức hình phạt tù đã
tuyên xuống còn 09 năm đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc
15 năm đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
6. Trường hợp người
chưa thành niên bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo trước ngày Luật này được
công bố theo đúng các văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu
họ có thời gian thử thách trên 03 năm thì kể từ ngày Luật này được công bố giải
quyết như sau:
a) Trường hợp họ đã chấp
hành thời gian thử thách bằng hoặc quá 03 năm thì cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh
án Tòa án quân sự khu vực nơi họ cư trú quyết định rút ngắn hết thời gian thử
thách còn lại;
b) Trường hợp họ đã chấp
hành được một phần thời gian thử thách nhưng chưa đến 03 năm thì cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp
huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi họ cư trú quyết định rút ngắn thời
gian thử thách xuống còn 03 năm.
7. Khi thực hiện quy định
tại khoản 5 và khoản 6 Điều này, Tòa án cần giải thích cho người được miễn chấp
hành phần hình phạt tù còn lại, giảm mức hình phạt tù đã tuyên, rút ngắn thời
gian thử thách của án treo biết là việc miễn, giảm, rút ngắn là do chính sách
hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, mà không phải oan sai do cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
______________________________________________________________
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 30 tháng 11 năm 2024.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI Trần Thanh Mẫn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét