CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 74-CP |
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 1993 |
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 74-CP NGÀY 25-10-1993 QUY ĐỊNH CHI
TIẾT THI HÀNH LUẬT THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
CHÍNH PHỦ
Căn
cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp được Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10 tháng 7 năm 1993;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
NGHỊ ĐỊNH:
PHẠM VI ÁP DỤNG THUẾ SỬ
DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Điều 1. Tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp
có nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp (gọi chung là hộ nộp thuế) gồm:
1.
Các hộ gia đình nông dân, hộ tư nhân và cá nhân;
2.
Các tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất dành cho nhu cầu
công ích của xã;
3.
Các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản bao gồm nông trường, lâm
trường, xí nghiệp, trạm trại và các doanh nghiệp khác, cơ quan Nhà nước, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức xã hội và các đơn vị khác sử dụng
đất vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Điều 2. Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp gồm:
1.
Đất trồng trọt là đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất trồng cỏ.
Đất
trồng cây hàng năm là đất trồng các loại cây có thời gian sinh trưởng (từ khi
trồng đến khi thu hoạch) không quá 365 ngày như lúa, ngô, rau, lạc... hoặc cây
trồng một lần cho thu hoạch một vài năm nhưng không trải qua thời kỳ xây dựng
cơ bản như mía, chuối, cói, gai, sả, dứa (thơm)..
Đất
trồng cây lâu năm là đất trồng các loại cây có chu kỳ sinh trưởng trên 365
ngày, trồng một lần nhưng cho thu hoạch trong nhiều năm và phải trải qua một
thời kỳ xây dựng cơ bản mới cho thu hoạch như cao su, chè, cà phê, cam, quýt,
nhãn, cọ, dừa...
Đất
trồng cỏ là đất đã có chủ sử dụng vào việc trồng cỏ để chăn nuôi gia súc.
2.
Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là đất đã có chủ sử dụng chuyên nuôi trồng
thuỷ sản hoặc vừa nuôi trồng thuỷ sản vừa trồng trọt, nhưng về cơ bản không sử
dụng vào các mục đích khác.
3.
Đất trồng là đất đã được trồng rừng và đã giao cho tổ chức, cá nhân quản lý,
chăm sóc và khai thác, không bao gồm đất đồi núi trọc.
Trong
trường hợp không sử dụng đất thuộc diện chịu thuế theo quy định tại điều này
chủ sử dụng đất vẫn phải nộp thuế theo quy định của Luật Thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
Điều 3. Những loại đất không chịu thuế sử dụng đất nông
nghiệp bao gồm:
1.
Đất rừng tự nhiên;
2.
Đất đồng cỏ tự nhiên chưa giao cho tổ chức, cá nhân nào sử dụng;
3.
Đất để ở, đất xây dựng công trình thuộc diện chịu thuế nhà đất;
4.
Đất làm giao thông, thuỷ lợi dùng chung cho cánh đồng;
5.
Đất chuyên dùng theo quy định tại Điều 62 của Luật đất đai là
đất được xác định sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp và làm nhà ở;
6.
Đất do Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc cho các tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân thuê theo quy định tại Điều 29 của Luật đất
đai.
Điều 4. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên
nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng có sử dụng đất nông nghiệp,
các Bên Việt Nam được phép dùng quyền sử dụng đất nông nghiệp đưa vào góp vốn
không phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp nhưng phải trả tiền thuê đất theo
quy định tại Điều
79 Nghị định số 18-CP ngày 16-4-1993 của Chính phủ.
Điều 5. căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện
tích, hạng đất và định suất thuế tính bằng kilôgam thóc trên một đơn vị diện
tích của từng hạng đất.
Điều 6. Diện tích thuế được quy định như sau:
1.
Diện tích tính thuế của từng hộ nộp thuế là diện tích đất thực tế sử dụng được
ghi trong sổ địa chính Nhà nước hoặc kết quả đo đạc gần nhất được cơ quan quản
lý ruộng đất có thẩm quyền xác nhận theo quy định tại Điều 14
của Luật đất đai. Trường hợp địa phương chưa lập sổ địa chính và số liệu đo
đạc chưa chính xác, chưa có xác nhận của cơ quan quản lý ruộng đất có thẩm
quyền, thì diện tích tính thuế là diện tích đất ghi trong tờ khai của hộ nộp
thuế.
Trong
trường hợp đặc biệt ở những nơi chưa làm kịp việc giao đất theo Nghị định số
64-CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất thực hiện
giao khoán cho các hộ gia đình nông dân và hộ cá nhân diện tích tính thuế của
mỗi hộ do hộ tự kê khai và có xác nhận của người đứng đầu hợp tác xã hoặc tập
đoàn sản xuất nông nghiệp.
2.
Diện tích tính thuế của từng thửa ruộng là diện tích thực sử dụng, được giao
cho từng hộ nộp thuế phù hợp với diện tích ghi trong sổ địa chính hoặc trong tờ
khai của chủ hộ.
3.
Cơ quan quản lý đất đai các cấp trong phạm vi quyền hạn quy định tại Điều 14 của Luật Đất đai, có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
thuế xác định diện tích tính thuế trong địa phương mình.
Điều 7. Việc phân hạng đất tính thuế thực hiện theo quy định
tại Nghị định số 73-CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ.
Điều 8. Định suất thuế một năm tính bằng kilôgam thóc trên
một hécta của từng hạng đất như sau:
1.
Đối với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản:
Hạng đất |
Định suất thuế |
1 |
550 |
2 |
460 |
3 |
370 |
4 |
280 |
5 |
180 |
6 |
50 |
2.
Đối với đất trồng cây lâu năm:
Hạng đất |
Định suất thuế |
1 |
650 |
2 |
550 |
3 |
400 |
4 |
200 |
5 |
80 |
3. Đối với cây ăn quả lâu năm trồng trên đất trồng cây
hàng năm chịu mức thuế như sau:
-
Bằng 1,3 lần thuế sử dụng đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng
1, hạng 2 và hạng 3;
-
Bằng thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng 4, hạng 5 và
hạng 6.
4.
Đối với đất trồng các loại cây lâu năm thu hoạch một lần chịu mức thuế bằng 4%
giá trị sản lượng khai thác.
KÊ KHAI, TÍNH THUẾ VÀ
LẬP SỔ THUẾ
Điều 9. Sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp được lập một lần để
sử dụng nhiều năm, nếu căn cứ tính thuế có thay đổi thì sổ thuế phải được điều
chỉnh lại chậm nhất vào tháng 3 hàng năm. Sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp được
lập theo đơn vị hành chính, cụ thể như sau:
1.
Hộ nộp thuế chỉ sử dụng đất trong một xã, phường, thị trấn thì lập sổ thuế tại
xã, phường, thị trấn.
2.
Hộ nộp thuế có sử dụng đất ở nhiều xã, phường, thị trấn trong một huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì lập sổ thuế tại huyện, quận, thị xã, thành phố
đó. Nếu hộ nộp thuế có sử dụng đất ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thì lập sổ thuế ở huyện, quận, thị
xã... nơi hộ nộp thuế đóng trụ sở chính. Nếu hộ nộp thuế có sử dụng đất ở nhiều
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thì đất thuộc huyện, quận, thị xã nào,
lập sổ thuế tại huyện, quận, thị xã đó.
3.
Chậm nhất đến ngày 30 tháng 11 năm 1993, tất cả các tổ chức, cá nhân đang sử
dụng đất vào sản xuất nông nghiệp đều phải lập tờ khai gửi đến Uỷ ban nhân dân
(cơ quan thuế), nơi có đất và lập sổ thuế theo quy định tại các khoản 1, 2 điều
này.
Khi
có sự thay đổi về hộ sử dụng đất hoặc thay đổi về diện tích tính thuế, hộ nộp
thuế phải kê khai và gửi đến Uỷ ban nhân dân (cơ quan thuế) nơi lập sổ thuế.
Hàng năm, nếu quá ngày 31 tháng 1 mà không kê khai thì cơ quan thuế được quyền
ấn định số thuế phải nộp sau khi có ý kiến bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp về diện tích và hạng đất tính thuế.
4.
Người đứng tên trong sổ thuế là chủ hộ gia đình nông dân, chủ hộ tư nhân, cá
nhân hoặc người đứng đầu tổ chức có sử dụng đất nông nghiệp.
Điều 10. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về việc lập, duyệt và
điều chỉnh, bổ sung sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Điều 11. Năm thuế sử dụng đất nông nghiệp tính theo năm dương
lịch từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12.
Thuế
tính cả năm nhưng thu mỗi năm từ 1 đến 2 lần tuỳ theo vụ thu hoạch chính của
từng loại cây trồng ở từng địa phương.
Hộ
nộp thuế có thể nộp thuế trước khi đến thời hạn thu thuế và ở lần thu thuế đầu
tiên có thể nộp hết số thuế phải nộp cả năm.
Theo
đề nghị của Cục trưởng Cục Thuế, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quy định thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc vụ thu thuế và
công bố cho toàn dân biết.
Điều 12. Sổ thuế là căn cứ để làm thông báo thuế và thu, nộp
thuế. Thuế sử dụng đất nông nghiệp tính bằng thóc, thu bằng tiền; riêng đất
trồng cây lâu năm thu hoạch một lần thuế tính theo sản lượng khai thác và theo
giá bán thực tế.
1.
Giá thóc thu thuế do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quyết định sát giá thị trường và không được thấp hơn 10% so với giá trị
thị trường địa phương.
Ở
những tỉnh, thành phố, giá thóc giữa các vùng có sự chênh lệch lớn thì giá thóc
thu thuế có thể quy định cho từng huyện, quận, thị xã.
Giá
trị sản lượng tính thuế của cây lâu năm thu hoạch một lần (gỗ, tre, nứa, song,
mây...) tính theo giá bán thực tế của từng loại cây. Trong trường hợp hộ nộp
thuế kê khai giá thấp hơn so với giá thực tế, thì tính thuế theo giá do Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định.
Sản
lượng để xác định giá trị sản lượng tính thuế của các cây lâu năm thu hoạch một
lần là sản lượng thu hoạch thực tế.
2.
Hộ nộp thuế có trách nhiệm trực tiếp nộp tiền thuế cho Kho bạc Nhà nước theo
thông báo của cơ quan thuế. Trong trường hợp cán bộ thuế buộc phải trực tiếp
thu tiền thuế, thì 10 ngày một lần cơ quan thuế, cán bộ thuế phải nộp hết số
tiền thuế đã thu được cho Kho bạc Nhà nước. Đối với tiền thuế thu được có số
lượng lớn, thì phải nộp ngay cho Kho bạc Nhà nước. Nếu cán bộ thuế giữ tiền đã
thu quá thời hạn quy định thì bị coi là hành vi xâm tiêu, chiếm dụng tiền thuế.
3.
Trong trường hợp đặc biệt việc thu thuế bằng thóc do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và chịu trách nhiệm tổ chức thu
thuế.
Điều 13. Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập báo cáo quyết toán
thuế hàng năm.
1.
Miễn thuế cho đất đồi núi trọc dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất
trồng rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
3.
Đất khai hoang là đất chưa bao giờ được dùng vào sản xuất hoặc đã bị bỏ hoang
ít nhất 5 năm tính đến thời điểm khai hoang đưa vào sản xuất, nếu trồng cây
hàng năm được miễn thuế 5 năm (trồng trên đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và
lấn biển được miễn thuế 7 năm), nếu trồng cây lâu năm được miễn thuế trong thời
gian xây dựng cơ bản và cộng thêm 3 năm kể từ khi bắt đầu có thu hoạch (trồng
trên đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và lấn biển được cộng thơm 6 năm), nếu
trồng các loại cây lâu năm thu hoạch một lần thì kể từ khi bắt đầu có thu hoạch
mới phải nộp thuế bằng 4% giá trị sản lượng thu hoạch.
Đất
bãi bồi ven sông, ven biển, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản dùng vào sản
xuất được ngay, đất do đốt nương rẫy để sản xuất sẽ không được coi là đất khai
hoang và không được miễn thuế.
4.
Đất khai hoang bằng nguồn vốn cấp phát của Ngân sách Nhà nước dùng vào sản xuất
nông nghiệp, nếu trồng cây hàng năm ở miền núi, đầm lầy và lấn biển được miễn
thuế 3 năm, ở các nơi khác được miễn thuế 2 năm; nếu trồng cây lâu năm, kể cả
trồng lại mới (trừ cây lấy gỗ) được miễn thuế trong thời gian xây dựng cơ bản
và cộng thêm 1 năm (ở miền núi, đầm lầy và lấn biển được cộng thêm 2 năm).
Trường
hợp hết thời hạn miễn thuế nói trên mà hộ nộp thuế còn khó khăn thì được xét
giảm đến 50% số thuế phải nộp trong thời gian tiếp theo, nhưng toàn bộ thời
gian được miễn và giảm thuế không quá thời gian quy định tại khoản 3 điều này.
Thời
gian xây dựng cơ bản được miễn thuế của từng loại cây lâu năm do Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định theo hướng dẫn của
Bộ Tài chính. Nội dung hướng dẫn, Bộ Tài chính thoả thuận với Bộ Lâm nghiệp, Bộ
nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm.
Điều 15. Việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia
đình di chuyển đến vùng kinh tế mới được quy định như sau:
1.
Đất được giao phải khai hoang để sản xuất nông nghiệp được miễn thuế theo Điều
14 của Nghị định này và cộng thêm 2 năm;
2.
Đất được giao là đất đang sản xuất nông nghiệp, nếu dùng vào trồng cây hàng
năm, thì miễn thuế 3 năm kể từ ngày nhận đất; nếu dùng vào trồng cây lâu năm
được miễn thuế theo quy định tại Khoản 3 Điều 14 của Nghị định này và cộng thêm
2 năm.
1.
Việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hộ nông dân sản xuất ở vùng cao,
miền núi, biên giới và hải đảo và các hộ nông dân thuộc dân tộc thiểu số mà sản
xuất và đời sống còn nhiều khó khăn được quy định cụ thể đối với các trường hợp
sau:
-
Hộ sản xuất ở sườn núi cao, hải đảo xa đất liền, ruộng bậc thang không thể cày
bừa được bằng trâu bò;
-
Hộ nông dân thuộc dân tộc thiểu số sống trên các sườn núi cao và vùng sâu, vùng
xa hẻo lánh;
-
Hộ nông dân thuộc dân tộc thiểu số ở các vùng khác mà đời sống khó khăn như gặp
tai nạn bất ngờ, gia đình thương bình, bệnh binh, liệt sỹ, gia đình có công với
cách mạng ngoài diện theo quy định tại các Khoản 2, 3, 4 Điều này.
2.
Việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hộ nông dân là người tàn tật, già
yếu không nơi nương tựa được quy định cụ thể đối với các trường hợp sau:
-
Chủ hộ là người trong độ tuổi lao động nhưng bị tàn tật không còn khả năng lao
động.
-
Người tàn tật già yếu sống độc thân không nơi nương tựa.
3.
Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hộ nộp thuế có thương binh hạng 1/4 và
2/4, bệnh binh hạng 1/3 và 2/3.
4.
Hộ gia đình liệt sỹ được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp là hộ có người được
hưởng trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng theo quy định hiện hành.
5.
Giảm tối đa không quá 50% số thuế ghi thu cho hộ nông dân sản xuất ở vùng cao,
miền núi, hải đảo, biên giới và các hộ nông dân thuộc dân tộc thiểu số mà sản
xuất và đời sống còn khó khăn ngoài đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều này.
6.
Giảm tối đa không quá 50% số thuế ghi thu cho hộ gia đình thương binh, liệt sỹ,
bệnh binh ngoài đối tượng quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này mà đời sống
có nhiều khó khăn.
Diện
tích được xét giảm hoặc miễn thuế của mỗi hộ theo quy định tại Điều này là diện
tích thực canh tác, nhưng không vượt quá hạn mức theo quy định tại Điều 44 của Luật Đất đai.
Điều 17. Trường hợp do thiên tai, địch hoạ làm mùa màng bị
thiệt hại, thuế sử dụng đất nông nghiệp được giảm hoặc miễn cho từng hộ nộp
thuế theo từng vụ sản xuất như sau:
1.
Thiệt hại từ 10% đến dưới 20%, giảm thuế tương ứng theo mức thiệt hại;
2.
Thiệt hại từ 20% đến dưới 30%, giảm thuế 60%;
3.
Thiệt hại từ 30% đến dưới 40%, giảm thuế 80%;
4.
Thiệt hại từ 40% trở lên, miễn thuế 100%.
Tỷ
lệ thiệt hại được xác định trên cơ sở lấy sản lượng thu hoạch thực tế từng vụ
so với sản lượng tính theo năng suất tham khảo khi phân hạng đất tính thuế.
Điều 18. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quyết định giảm thuế, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp theo đề nghị
của Cục trưởng Cục Thuế.
Quyết
định giảm thuế, miễn thuế phải được thông báo đến từng hộ được giảm thuế, miễn
thuế.
Bộ
trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện giảm,
miễn thuế của các địa phương; được quyền bãi bỏ các quyết định giảm, miễn thuế
trái với Nghị định này và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Điều 19. Việc xử lý các vi phạm Luật Thuế sử dụng đất nông
nghiệp được quy định như sau:
1.
Tổ chức, cá nhân khai man, lậu thuế, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp đủ số
thuế thiếu theo quy định còn bị phạt tiền, vi phạm lần thứ nhất: 0,2 lần; lần
thứ 2: 0,4 lần; lần thứ 3: 0,5 lần số thuế thiếu.
2.
Tổ chức, cá nhân sử dụng đất mà không khai báo thì cơ quan thuế được quyền ấn
định số thuế phải nộp sau khi có ý kiến bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân cùng
cấp về diện tích và hạng đất tính thuế, ngoài việc truy nộp đủ số thuế còn bị
phạt tiền, vi phạm lần thứ 1: 0,5 lần; lần thứ 2: 0,8 lần; lần thứ 3: 1,0 lần
số thuế không khai báo.
3.
Tổ chức, cá nhân nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt, nếu quá 30 ngày kể từ ngày
phải nộp ghi trong lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt mà không có lý do
chính đáng, ngoài việc phải nộp đủ số thuế hoặc tiền phạt còn bị phạt tiền bằng
0,1% số thuế thiếu hoặc tiền phạt cho mỗi ngày chậm nộp.
Việc
nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt trong các trường hợp sau đây được coi là có
lý do chính đáng như trong vụ thu hoạch mưa nhiều, tiêu thụ chậm hoặc khó tiêu
thụ, thiếu phương tiện vận chuyển, hộ gia đình nộp thuế gặp tai nạn bất ngờ có
xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
4.
Những trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự gồm:
-
Trốn thuế với số tiền tương đương trị giá của 5 tấn gạo trở lên;
-
Đã bị 3 lần xử phạt hành chính theo các Khoản 1, 2, 3 Điều này mà còn tái phạm.
1.
Cán bộ thuế, cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng, xâm tiêu, tham
ô tiền thuế, ngoài việc phải bồi thường số tiền đã chiếm dụng, xâm tiêu, tham ô
còn bị xử lý như sau:
-
Chiếm dụng, xâm tiêu tiền thuế theo quy định tại Điều 12 của Nghị định này, bị
phạt tiền bằng 0,2 lần số tiền chiếm dụng;
-
Tham ô tiền thuế bị phạt tiền bằng 0,5 lần số tiền tham ô. Sau khi đã nộp đủ
tiền thuế và tiền phạt thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.
Cán bộ thuế, cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao che cho người vi phạm thì
bị kỷ luật, nếu tái phạm nhiều lần thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự; ra các
quyết định giảm thuế, miễn thuế không đúng, thông báo sai các quyết định giảm,
miễn thuế, cố ý làm trái các quy định của pháp luật gây thiệt hại cho Nhà nước,
hộ nộp thuế hoặc người bị xử lý thì phải bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức
độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 21. Thẩm quyền xử lý vi phạm quy định như sau:
-
Chi Cục trưởng Chi cục Thuế được áp dụng các hình thức xử lý hành chính và được
phạt đến 0,5 lần số thuế thiếu;
-
Cục trưởng Cục Thuế được áp dụng các hình thức xử lý hành chính và được phạt
đến 1 lần số thuế thiếu;
-
Nếu xét hành vi vi phạm đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan thuế
chuyển hồ sơ đến cơ quan pháp luật.
1.
Tất cả các tổ chức, cá nhân là hộ nộp thuế hay không phải là hộ nộp thuế đều có
quyền khiếu nại và tố cáo việc thi hành không đúng Luật Thuế sử dụng đất nông
nghiệp; hộ nộp thuế có quyền khiếu nại việc thi hành Luật Thuế sử dụng đất nông
nghiệp không đúng đối với hộ mình; trong khi chờ giải quyết khiếu nại, hộ nộp
thuế vẫn phải nộp đủ và đúng thời hạn số thuế, tiền phạt đã được thông báo. Nếu
chậm nộp thuế hoặc tiền phạt vẫn bị xử lý như các trường hợp nộp chậm tiền thuế
hoặc tiền phạt quy định tại Khoản 3 Điều 19 của Nghị định này.
Riêng
việc khiếu nại về số thuế phải nộp thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo nộp thuế, hộ nộp thuế phải thực hiện ngay việc khiều nại với cơ
quan đã thông báo cho mình.
2.
Đơn khiếu nại phải gửi đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo trình tự từ
thấp tới cao. Cơ quan Nhà nước nhận đơn khiếu nại về thuế không thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình thì trong 5 ngày phải chuyển đơn đó đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết; đồng thời báo cho người khiếu nại biết.
Nếu
người khiếu nại không đồng ý với quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc quá
thời hạn 30 ngày mà chưa được giải quyết thì có quyền khiếu nại lên cơ quan có
thẩm quyền cấp trên trực tiếp. Quyết định của cơ quan có thẩm quyền cấp trên
trực tiếp có hiệu lực thi hành. Nếu người khiều nại vẫn chưa đồng ý với quyết
định đó thì được quyền khiếu nại lên cơ quan trực tiếp cao nhất. Bộ trưởng Bộ
Tài chính là người có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng giải quyết đơn khiếu
nại về thuế và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
3.
Việc thoái trả tiền thuế và tiền phạt được thực hiện bằng cách trả trực tiếp
cho người nộp thuế hoặc trừ vào số thuế phải nộp năm sau.
4.
Nếu phát hiện và kết luận có sự nhầm lẫn về thuế thì cơ quan thuế phải truy thu
hoặc truy hoàn số thuế nhầm lẫn đó bằng truy thu, truy hoàn trực tiếp hoặc cộng
trừ vào số thuế phải nộp năm sau theo thoả thuận với hộ nộp thuế.
Điều 23. Bộ trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm chỉ đạo công
tác thu thuế, kiểm tra, thanh tra về công tác thuế sử dụng đất nông nghiệp
trong phạm vi cả nước, giải quyết các khiếu nại, kiến nghị về thuế sử dụng đất
nông nghiệp.
Tổng
Cục trưởng Tổng cục Quản lý ruộng đất có trách nhiệm xác định diện tích các
loại đất, chỉ đạo và kiểm tra các địa phương lập sổ địa chính làm cơ sở cho
việc xác định diện tích đất chịu thuế, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính
trình Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn diện tích tính thuế của từng địa phương.
Tổng
Cục trưởng Tổng cục Thống kê có trách nhiệm xác định năng suất bình quân trong
5 năm 1986 - 1990 của các loại cây trồng ở các địa phương cung cấp cho Bộ Tài
chính và các cơ quan có liên quan.
Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản, Bộ
trưởng Bộ Lâm nghiệp và Tổng Cục trưởng Tổng cục Quản lý ruộng đất có trách
nhiệm phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ đạo, hướng dẫn phân hạng đất tính
thuế.
Điều 24. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chịu trách nhiệm:
a)
Chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thuế sử dụng đất nông nghiệp ở địa phương
mình;
b)
Xác định diện tích tính thuế báo cáo Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ
phê chuẩn;
c)
Căn cứ tiêu chuẩn từng hạng đất và thực tế sản xuất của địa phương, chỉ đạo
việc phân hạng đất tính thuế ở địa phương mình;
d)
Duyệt sổ thuế, quyết định việc tổ chức thu thuế, công bố thời gian thu thuế,
quyết định giá thu thuế bằng tiền trong từng vụ thuế, quyết định giảm, miễn
thuế theo đề nghị của Cục trưởng Cục Thuế.
Điều 25. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện công tác thuế sử dụng đất nông
nghiệp trong địa phương mình:
a)
Căn cứ vào tiêu chuẩn của hạng đất và hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, chỉ đạo việc phân hạng đất tính thuế, duyệt sổ thuế
của các xã, phường, thị trấn và các đơn vị trực thuộc báo cáo Uỷ ban nhân dân
và cơ quan thuế cấp trên;
b)
Đề nghị với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên về giảm, miễn thuế; chuyển đơn
khiếu nại về thuế cho Chi cục Thuế; chỉ đạo các ngành và Uỷ ban nhân dân các
xã, phường, thị trấn phối hợp và giúp đỡ cơ quan thuế tổ chức thu nộp thuế sử
dụng đất nông nghiệp.
Điều 26. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có
nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thực hiện công tác thuế sử dụng đất nông nghiệp tại
địa phương mình:
a)
Căn cứ vào các quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tổ chức việc kiểm
kê và xác định diện tích đất chịu thuế, phân hạng đất, tính thuế, lập sổ thuế,
tổ chức thu nộp thuế; đề nghị Uỷ ban nhân dân cấp trên về giảm, miễn thuế theo
đề nghị của Hội đồng Tư vấn thuế xã, phường, thị trấn; thông báo quyết định
giảm, miễn thuế của cấp có thẩm quyền tới từng hộ nộp thuế.
b)
Chuyển đơn khiếu nại về thuế lên Uỷ ban nhân dân cấp trên.
1.
Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ
đạo công tác thuế sử dụng đất nông nghiệp trong phạm vi cả nước:
-
Tổ chức chỉ đạo và kiểm tra, thanh tra việc xác định diện tích tính thuế, phân
hạng đất tính thuế, lập sổ thuế, tổ chức thu thuế, thực hiện giảm, miễn thuế và
thanh quyết toán thu nộp thuế trong phạm vi cả nước;
-
Tổng hợp và phân tích diện tích và hạng đất tính thuế của các địa phương, chuẩn
bị các tài liệu cần thiết để Bộ trưởng Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ
phê chuẩn làm căn cứ lập sổ thuế và tổ chức thu thuế;
-
Đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính bãi bỏ quyết định không đúng về giảm thuế, miễn
thuế;
-
Chuẩn bị cho Bộ trưởng Bộ Tài chính giải quyết các khiếu nại và tố cáo về thuế
sử dụng đất nông nghiệp.
2.
Cục trưởng Cục thuế và Chi cục trưởng Chi cục Thuế có trách nhiệm và quyền hạn:
-
Tổ chức chỉ đạo kiểm tra, thanh tra và thực hiện việc xác định diện tích và
hạng đất tính thuế, lập sổ thuế trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp và báo cáo cơ
quan thuế cấp trên;
-
Xem xét và đề nghị với Uỷ ban nhân dân cùng cấp và báo cáo với cơ quan thuế cấp
trên về giảm, miễn thuế ở địa phương; thực hiện đúng các quyết định giảm, miễn
thuế;
-
Tổ chức thu thuế, nộp thuế và thanh quyết toán kết quả thu thuế, nộp thuế, báo
cáo với Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan thuế cấp trên;
-
Thực hiện công tác nghiệp vụ và báo cáo định kỳ về thuế với cơ quan thuế cấp
trên theo quy định của Bộ Tài chính;
-
Ấn định số thuế phải nộp theo quy định tại Điều 9 của Nghị định này;
-
Có trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cùng cấp về việc giải quyết các khiếu nại
tố cáo về thuế; truy thu thuế và hoàn thuế;
-
Xử lý vi phạm theo thẩm quyền.
b)
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thành phần Hội
đồng Tư vấn thuế sử dụng đất nông nghiệp ở cấp tỉnh và huyện. Thành phần Hội
đồng Tư vấn thuế ở xã gồm:
-
Chủ tịch Hội đồng: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã;
-
Uỷ viên thường trực: Người phụ trách công tác thuế của xã;
-
Các uỷ viên: Trưởng thôn (xóm) ấp, bản;
Đại
diện Hội nông dân xã;
Cán
bộ quản lý ruộng đất xã;
Cán
bộ thống kê xã.
Điều 29. Bộ Tài chính đảm bảo kinh phí cho việc thu thuế ở xã
và hoạt động của Hội đồng Tư vấn thuế các cấp.
Bộ
trưởng, Trưởng ban Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài
chính chịu trách nhiệm củng cố và tăng cường lực lượng thu thuế ở xã, phường,
thị trấn, đảm bảo Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp được chấp hành nghiêm túc.
Điều 30. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1
năm 1994. Riêng các quy định về việc kê khai diện tích tính thuế, xác định các
căn cứ tính thuế và lập sổ thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 25 tháng 10 năm
1993.
Những
quy định về thuế nông nghiệp và chế độ thu tiền nuôi rừng trước đây chỉ có hiệu
lực thi hành đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1993.
Điều 31. Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định
này.
Điều 32. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm tổ chức thi hành Nghị định này.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét