NGHỊ ĐỊNH THƯ
CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
NGÀY 18 THÁNG 7 NĂM 2001 VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
HIỆP ĐỊNH VẬN TẢI ĐƯỜNG BỘ
Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ
nhân dân Lào, dưới đây được gọi là hai Bên ký kết,
Căn
cứ vào khoản 2 Điều 21 của Hiệp định Vận tải đường bộ giữa Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
ký ngày 24 tháng 2 năm 1996,
Đã
cùng nhau thoả thuận sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 1.
Sửa đổi, bổ sung Điều 1 của Hiệp định:
1. Việc vận chuyển hàng hoá và hành khách qua lại giữa
hai nước phải được tiến hành qua các cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu chính đã được
hai bên thống nhất. Các cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu chính sẽ được quy định chi
tiết tại Nghị định thư thực hiện “Hiệp định Vận tải đường bộ giữa Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân
Lào”. Việc qua lại của người và phương tiện qua các cặp cửa khẩu phụ do hai tỉnh
biên giới thoả thuận.
Việc vận chuyển này do các doanh nghiệp vận tải của
hai nước được thành lập theo pháp luật của nước mình thực hiện bằng phương tiện
vận tải đường bộ đã được đăng ký tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc
nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
2. Hai bên có quyền lợi và cơ hội ngang nhau trong vận
chuyển hàng hoá và hành khách song phương giữa hai nước.
3. Những vấn đề liên quan đến vận tải đường bộ giữa
hai nước như tổ chức và hình thức vận tải, tuyến đường vận chuyển, thủ tục giao
nhận, xếp dỡ, kho bãi, đại lý vận tải, phí giao thông sẽ do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền của hai Bên ký kết thoả thuận.
Điều 2.
Nghị định thư này và Hiệp định Vận tải đường bộ giữa
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà
Dân chủ nhân dân Lào được xem như một văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động
vận chuyển hành khách và hàng hoá qua lại giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
Điều 3.
Nghị định thư này có hiệu lực 03 năm kể từ ngày ký.
Hiệu lực của Nghị định
thư được mặc nhiên kéo dài thêm một kỳ là 03 năm tiếp theo, nếu 06 tháng trước
khi hết hiệu lực không một Bên ký kết nào thông báo bằng văn bản cho Bên ký kết
kia ý định chấm dứt hiệu lực của Nghị định này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét