HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM |
Số: 02/2004/NQ-HĐTP |
Hà Nội, ngày 10 tháng 8
năm 2004 |
NGHỊ QUYẾT
Hướng dẫn áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN
NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật Tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
QUYẾT ĐỊNH
I. VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI HIỆU
1. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu đối với các
giao dịch dân sự
1.1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 1/7/1996 (ngày Bộ
luật Dân sự có hiệu lực) mà các văn bản pháp luật trước đây có quy định về thời
hiệu (thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩ vụ dân sự và thời
hiệu khởi kiện) thì phải áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp
luật đó để xác định thời hiệu còn hay hết, không phân biệt giao dịch dân sự đó
được thực hiện xong trước ngày 1/7/1996 hay từ ngày 1/7/1996. Trong trường hợp
từ ngày 1/7/1996 các bên tham gia giao dịch dân sự có thoả thuận bổ sung thì
cần phân biệt như sau:
a. Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự hoặc khi
hết hạn thực hiện hợp đồng, có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng
đó thì việc xác định thời hiệu căn cứ vào thoả thuận của các bên và được thực hiện
theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp
đồng.
b. Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự, có thoả
thuận bổ sung mà thoả thuận đó là một phần không tách rời của hợp đồng dân sự
đó thì việc xác định thời hiệu đối với hợp đồng nói chung (bao gồm cả thoả
thuận mới) được thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực
tại thời điểm giao kết hợp đồng.
c. Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự, có thoả
thuận bổ sung mà thoả thuận đó như một hợp đồng mới thay thế hợp đồng cũ hoặc
hoàn toàn độc lập với hợp đồng cũ, thì việc xác định thời hiệu đối với thoả
thuận mới được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
1.2. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 đến trước
ngày 1/1/2005 mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định
thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì kể từ ngày 1/1/2005 (ngày Bộ luật
Tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực) việc xác
định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện theo quy định tại
Điều 159 của Bộ luật Tố tụng dân sự; cụ thể như sau:
a. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai
năm, kể từ ngày 1/1/2005, nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 1/1/2005 hoặc kể
từ ngày phát sinh tranh chấp, nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 1/1/2005.
b. Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là 1 năm, kể từ
ngày 1/1/2005, nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 1/1/2005 hoặc kể từ ngày
phát sinh quyền yêu cầu, nếu yêu cầu phát sinh từ ngày 1/1/2005.
1.3. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/1/2005 mà Bộ luật
Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định thời hiệu khởi kiện,
thời hiệu yêu cầu, thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện
theo quy định tại Điều 159 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
1.4. Về thời hạn yêu cầu Toà tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
a. Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991
bao gồm: nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức
xã hội; một hoặc các bên không có quyền giao kết hợp đồng (chủ thể giao kết hợp
đồng không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 3 Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự năm 1991), thì thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu không bị hạn chế. Trong mọi thời điểm một bên hoặc các bên đều có quyền
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh
chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nếu
trong quá trình giải quyết Toà án xác định giao dịch dân sự đó là vô hiệu thuộc
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, thì
Toà án có quyền tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu và xử lý hậu quả giao dịch
dân sự vô hiệu theo quy định của văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm
giao dịch được xác lập.
b. Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân
sự năm 1991 bao gồm: hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên xác lập,
thực hiện (do có vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự năm 1991); do một bên bị nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng;
bị đe doạ hoặc bị lừa dối), thì thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu theo quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự là ba năm,
kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Hết thời hạn ba năm mà không có yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì giao dịch dân sự đó được coi
là có hiệu lực.
Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh
chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nếu đã
hết thời hạn ba năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập, thì họ không có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu vì lý do vi phạm quy
định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự. Trong trường
hợp này Toà án tiến hành giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự theo thủ tục
chung.
c. Đối với giao dịch dân sự được giao kết từ ngày 1/7/1996 mà có yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì áp dụng các quy định tại Điều
145 của Bộ luật Dân sự về thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu.
1.5. Đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc đối tượng điều chỉnh của
Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 và theo hướng dẫn
tại Thông tư Liên tịch số 01/1999/TTLT ngày 25/1/1999 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội" thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999
không tính vào thời hiệu khởi kiện.
2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên
quan đến thừa kế
2.1. Quyền thừa kế
"Quyền thừa kế" quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh Thừa
kế năm 1990, Điều 648 của Bộ luật Dân sự bao gồm quyền yêu cầu chia di sản thừa
kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ
quyền thừa kế của người khác.
2.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a. Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1/7/1996, thì thời hiệu
khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp
lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Pháp lệnh Thừa kế".
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa
kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến
ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
b. Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời hiệu khởi
kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân
sự.
2.3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
a. Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996 thì thời hiệu
khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để
lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo quy định tại Điều
36 của Pháp lệnh Thừa kế và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Pháp lệnh Thừa kế". Nếu nghĩa vụ về tài sản do người chết để
lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được phát sinh trước ngày 01/7/1991 có
liên quan đến nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không
tính vào thời hiệu khởi kiện.
b. Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi
kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tải sản do người chết để lại,
thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân
sự. Việc xác định thời hiệu khởi kiện phải căn cứ vào quy định tại các Điều
639, 640 và 418 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại các tiểu mục 1.2, 1.3, 1.4
mục 1 Phần I của Nghị quyết này.
2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà
các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác
nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa
kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để
lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có
tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện
về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung
để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và
thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia
tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần
mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung
đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả
thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia
tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản
chung.
b. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa
kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu
bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền
khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.
II. VỀ THỪA KẾ, TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản
1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay
không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật
Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một
trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không
phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có
một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục
1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà
vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà
ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất,
kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn
nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ,
cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với
quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các
trường hợp sau:
a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm
quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản
gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
b. Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp
có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ
ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm
quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải
quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời
phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về
đất đai.
c. Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho
biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải
quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có
một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và
cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn
tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết
của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
xác lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ ban hành
Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công
tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15/10/1993 mới phát sinh tranh
chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như sau:
a. Trường hợp nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định
của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.
a.1. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất thì Toà án công nhận hợp
đồng, buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục
chuyển quyền sử dụng đất. Nếu bên nhận đất chưa trả đủ tiền cho bên có đất thì
buộc họ phải trả cho bên chuyển nhượng số tiền còn thiếu theo giá đất thực tế
trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
a.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và
bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên
đất đó, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các
bên có thoả thuận khác.
Trong trường hợp bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện
để giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể
huỷ hợp đồng, buộc bên chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng
khoản tiền đã nhận theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ
thẩm.
b. Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật
nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời
điểm giao kết hợp đồng.
b.1. Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì Toà án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng.
b.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên
chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần
tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì
có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công
nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá
trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh
toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển
nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết
hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm
xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp
bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà
Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận
thì bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện
tích đất đã giao tính theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại
thời điểm xét xử sơ thẩm.
c. Đối với trường hợp được hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1
mục 2 này mà bên chuyển nhượng đã nhận tiền của bên nhận chuyển nhượng nhưng
chưa giao đất cho họ mà đất đó đã bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích
công cộng và có đền bù cho bên chuyển nhượng đất thì Toà án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu và huỷ hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực
hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.
d. Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có điều kiện mà điều
kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng đó được giải quyết theo
hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này.
đ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà toàn bộ hoặc một phần
nội dung của hợp đồng vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu
toàn bộ hoặc một phần và việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
được thực hiện theo quy định tại Điều 137, Điều 146 của Bộ luật Dân sự và hướng
dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.
2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số
201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)
Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển
nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:
a. Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai
được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp
đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu.
Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại
tiểu mục 2.3 mục 2 này.
b. Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì
Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân
cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật về đất đai;
b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng
bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã
cho phép việc chuyển nhượng;
b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình
kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui
định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển
quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư
sản xuất, kinh doanh trên đất đó.
2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập từ sau này 15/10/1993
a. Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều
711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm
1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật
Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
có năng lực hành vi dân sự;
a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
hoàn toàn tự nguyện;
a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật
Đất đai năm 2003;
a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển
nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận
chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;
a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có
chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền.
b. Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ
các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a gia tiểu mục 2.3 mục 2 này.
b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều
kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong
các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5
Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày
01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu
do vi phạm điều kiện này.
b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm
giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục
2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và
từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng
vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện
được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã
làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp
đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công
nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần
hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả
phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm
mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh
toán cho nhau phần chênh lệch.
c. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vô hiệu.
c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì
tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136
đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác
định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực
hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị
quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"
c.3. Xác định thiệt hại.
- Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà
án cần xác định thiệt hại gồm:
Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng
ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản
tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử
dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường
hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc
áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại
Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm
khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá
trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu
có.
- Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định
giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:
Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và
giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết
định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo
giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với
từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử
dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị
trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp
pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương
vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân
dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị
quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong
trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân
dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản
niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
- Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu
chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định
giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại
và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét
xử.
2.4 Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất đã
được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mà sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác
xã đã bị giải thể.
Đối với đất đã được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác
xã để sử dụng chung trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hoá nông
nghiệp mà sau khi tập đoàn sản xuất, hợp tác xã bị giải thể thì căn cứ vào quy
định tại Điều 1 của Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai năm
1993 và khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2003 cần phân biệt như sau:
a. Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó không có quyền đòi lại quyền
sử dụng đất nếu đất đó đã được giao cho người khác sử dụng và họ đã được Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất
đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 hoặc có một trong các
loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm
2003, trừ trường hợp có căn cứ chứng minh người đang sử dụng đất đó có hành vi
gian dối, lừa đảo... để được giao quyền sử dụng đất.
b. Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó có quyền đòi lại quyền sử
dụng đất hoặc giá trị quyền sử dụng đất khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Đất không bị Nhà nước quản lý trong quá trình thực hiện chính sách
đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Chủ cũ có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5
Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003;
- Người đang sử dụng đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và
cũng không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều
50 của Luật Đất đai năm 2003 vì lý do người đó sử dụng đất là ở nhờ, mượn,
thuê, lấn, chiếm đất hoặc bằng các giao dịch dân sự khác trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội.
III. VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN DO NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1. Tài sản được nhà nước cấp cho người có công với cách mạng
1.1. Trường hợp người có công với cách mạng được nhận tài sản trong
thời kỳ hôn nhân khi họ còn sống thì tài sản được coi là tài sản riêng của
người đó, trừ trường hợp họ đã nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Khi họ
chết thì tài sản đó để lại cho các thừa kế của họ.
1.2. Trường hợp sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mới có quyết định cho họ được hưởng tài sản theo quy
định của pháp luật thì tài sản đó là di sản để lại cho các thừa kế của họ.
2. Tài sản được Nhà nước cấp cho thân nhân của người có công với cách
mạng
Nếu sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của
pháp luật và giữa các thân nhân của người đó có tranh chấp về tài sản và yêu
cầu Toà án giải quyết, thì đây là vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung. Khi
giải quyết cần phân biệt như sau:
a. Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có ghi cụ
thể tên người được hưởng tài sản, thì chỉ người có tên mới được hưởng tài sản
đó.
b. Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ghi rõ
người được hưởng tài sản gồm những người cụ thể nào mà chỉ ghi cấp chung cho
thân nhân của người có công với cách mạng, thì thân nhân của người đó được
hưởng chung. Việc xác định ai là thân nhân của người có công với cách mạng
trong trường hợp cụ thể được thực hiện theo qui định của Chính phủ.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 5 của Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày
03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ
trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở thì thân nhân của người có
công với cách mạng là vợ, chồng, các con của người đó.
Nếu trong văn bản pháp luật Chính phủ không qui định cụ thể ai là thân
nhân của người có công với cách mạng mà chỉ qui định chung là thân nhân thì
thân nhân của người có công với cách mạng gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người có công với
cách mạng.
IV. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Nghị quyết này được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông
qua ngày 10 tháng 8 năm 2004 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ
ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành trước ngày
Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được hướng dẫn trong Nghị quyết này
đều bãi bỏ.
2. Đối với những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình mà Toà án đã thụ lý
nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì
không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết định có những căn cứ khác.
|
CHÁNH ÁN (đã ký) Nguyễn Văn Hiện |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét