HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN ----------------- Số:
07/2019/NQ-HĐTP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ------------ Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2019 |
NGHỊ
QUYẾT
Hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 299 và Điều 300
của Bộ luật Hình sự
----------------
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO
Căn
cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để
áp dụng đúng và thống nhất quy định tại Điều 299 và Điều 300 của Bộ luật Hình
sự;
Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
Điều
1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị
quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 299 về tội khủng bố và
Điều 300 về tội tài trợ khủng bố của Bộ luật Hình sự.
Điều
2. Nguyên tắc áp dụng pháp luật
Việc
xử lý hình sự đối với tội khủng bố và tội tài trợ khủng bố phải tuân thủ quy
định Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, hướng dẫn của Nghị quyết này và
các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Điều
3. Về một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng Điều 299 và Điều
300 của Bộ luật Hình sự
1. “Tình trạng hoảng sợ trong
công chúng” quy định
tại khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Hình sự là trạng thái tâm lý lo lắng, sợ hãi,
hoang mang của người dân về an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của họ (ví dụ: hành vi
gây nổ ở khu vực bến xe làm cho người dân lo lắng về sự an toàn tính mạng, sức
khỏe, tài sản của họ khi tham gia giao thông).
Để
gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, các hành vi khủng bố quy đinh tại
Điều 299 của Bộ luật Hình sự có thể được thực hiện ở nơi công cộng, nơi tập
trung đông người (ví dụ: quảng trường, trung tâm thương mại, nơi giao cắt đường giao thông, tại nhà ga các
phương tiện giao thông, trên các phương tiện giao thông, tại các nơi vui chơi,
giải trí, du lịch, trường học, bệnh viện, khu dân cư, tại các tòa nhà,...).
Hành
vi được thực hiện ở những địa điểm có tính biệt lập, không phải nơi công cộng
(ví dụ: tại nhà riêng hoặc trong trụ sở cơ quan...) nhưng nhằm gây ra tình
trạng hoảng sợ trong công chúng thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
khủng bố theo Điều 299 của Bộ luật Hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác của
cấu thành tội phạm này.
2. “Phá hủy tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”
quy định tại khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Hình sự là hành vi làm cho tài sản
mất giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại được.
3. “Đe dọa thực hiện một trong
các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này” quy định tại khoản 3 Điều 299 của Bộ luật Hình sự có
thể được thực hiện bằng lời nói, gửi tin nhắn, hình ảnh hoặc bằng các hành vi
khác làm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân biết được và lo sợ về sự an toàn tính mạng,
sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ.
4. “Hành vi khác uy hiếp tinh
thần” quy định tại
khoản 3 Điều 299 của Bộ luật Hình sự là hành vi lôi kéo, kích động, cổ vũ,
khuyến khích, tạo điều kiện đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân
thể, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị uy hiếp hoặc đe dọa xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, tự do thân thể, tài sản, danh dự, nhân phẩm của thân nhân người
bị uy hiếp hoặc các hành vi khác nhằm làm cho người bị uy hiếp lo sợ, cản trở
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ một cách bình thường.
5. “Huy động tiền, tài sản dưới
bất kỳ hình thức nào cho tổ chức, cá nhân khủng bố” quy định tại khoản 1 Điều 300 của Bộ
luật Hình sự là hành vi vận động, kêu gọi cá nhân, tổ chức cung cấp, tặng cho,
cho vay tiền, cho mượn tài sản hoặc dưới hình thức khác cho tổ chức, cá nhân
khủng bố.
6. “Hỗ trợ tiền, tài sản dưới
bất kỳ hình thức nào cho tổ chức, cá nhân khủng bố” quy định tại khoản 1 Điều 300 của Bộ
luật Hình sự là hành vi cung cấp, tặng cho, cho vay tiền, cho mượn tài sản hoặc
dưới hình thức khác cho tổ chức, cá nhân khủng bố.
Điều
4. Về một số tình tiết định khung hình phạt
1. “Chiếm giữ tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 299 của Bộ luật Hình sự là hành vi chiếm đoạt,
nắm giữ, chi phối trái phép quyền quản lý, sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. “Làm hư hại tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 299 của Bộ luật Hình sự là hành vi cố ý làm
giảm giá trị sử dụng của tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản nhưng có thể khôi
phục lại được.
3. Tấn công, xâm hại mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại điểm d khoản 2 Điều 299
của Bộ luật Hình sự là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin
hoặc phương tiện điện tử để phá hoại, gây gián đoạn hoạt động bình thường, an
toàn và bảo mật của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, bao
gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
b) Làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
c) Xâm nhập, làm tổn hại, chiếm đoạt dữ liệu được lưu trữ,
truyền đưa qua mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
d) Xâm nhập, tạo ra hoặc khai thác điểm yếu, lỗ hổng bảo mật
và dịch vụ hệ thống của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
đ)
Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của
các cơ quan, tổ chức thiết yếu, cơ mật (ví dụ: Chính phủ, cơ quan Quân sự, Công
an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,...);
e) Chiếm quyền điều hành hệ thống mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử;
đ)
Hành vi khác gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử.
4. Cản trở, gây rối loạn hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ
chức, cá nhân quy
định tại điểm d khoản 2 Điều 299 Bộ luật Hình sự là hành vi xóa, làm tổn hại
hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền
tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc có
hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điều
5. Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể
1. Trường hợp người thực hiện một hành vi phạm tội vừa có dấu
hiệu của tội khủng bố vừa có dấu hiệu của tội phạm khác nhẹ hơn thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội khủng bố.
Ví
dụ: Nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, Nguyễn Văn A và đồng phạm đã dùng mìn phá hủy một
số xe ô tô đang để trong sân của Công ty B. Trong trường hợp này, A và đồng
phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khủng bố quy định tại Điều 299 của
Bộ luật Hình sự.
2. Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi phạm tội, trong
đó có hành vi có dấu hiệu tội khủng bố, có hành vi có dấu hiệu của tội phạm
khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khủng bố và tội phạm khác, nếu
thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng,
Nguyễn Văn A và đồng phạm đã
dùng mìn phá hủy một số xe ô tô đang để trong sân của Công ty B. Sau đó, Nguyễn
Văn A lại lấy trộm xe máy trị giá 40 triệu đồng của anh Trần Văn C (là nhân
viên của Công ty B) để cùng đồng phạm bỏ trốn. Trong trường hợp này, A và đồng
phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khủng bố theo quy định tại Điều 299
của Bộ luật Hình sự và tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 của Bộ
luật Hình sự.
3. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm tính
mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhưng
không nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng thì không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội khủng bố mà tùy từng trường hợp cụ thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng.
Ví
dụ: Do mâu thuẫn cá nhân, Nguyễn Văn A đã giết và phân xác chị Nguyễn Thị C ra
làm nhiều phần rồi đem đi phi tang. Hành vi của Nguyễn Văn A gây hoang mang trong dư luận, nhưng
khi thực hiện hành vi phạm tội A không nhằm mục đích gây hoảng sợ trong công
chúng mà chỉ nhằm trả thù cá nhân. Do đó, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội giết người theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
Điều
6. Hiệu lực thi hành
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua ngày 16 tháng 10 năm 2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng
12 năm 2019.
Nơi nhận: - Ủy
ban Thường vụ Quốc hội (để giám sát); - Ủy
ban Pháp luật của Quốc hội (để giám sát); - Ủy
ban Tư pháp của Quốc hội (để giám sát); - Ban
Nội chính Trung ương (để báo cáo); - Văn
phòng Trung ương Đảng (để báo cáo); - Văn
phòng Chủ tịch nước (để báo cáo); - Văn
phòng
Chính phủ 02 bản (để
đăng Công báo); - Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Bộ
Tư pháp (để phối hợp); - Bộ
Công an (để phối hợp); - Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (để phối hợp); - Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện); - Các
Thẩm phán và các đơn vị TANDTC (để thực hiện); - Cổng
thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải); - Lưu:
VT,
Vụ PC&QLKH TANDTC. |
TM.
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN CHÁNH
ÁN Nguyễn Hòa Bình |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét