BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG Số 28-NQ/TW |
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM Hà Nội, ngày
23 tháng 5 năm
2018 |
NGHỊ
QUYẾT
HỘI
NGHỊ LẦN THỨ BẢY
BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XII
về
cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
----------------------
I-
TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực
hiện chính sách an sinh xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước, thể hiện tính ưu
việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng
doanh nghiệp và người lao động đã tích cực triển khai thực hiện chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội và đạt được nhiều
kết quả quan trọng.
Hệ thống pháp luật, chính sách bảo hiểm xã hội, bao gồm các chế
độ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và
bảo hiểm thất nghiệp đã từng bước được hoàn thiện, ngày càng đồng bộ, phù hợp
với thực tế đất nước và thông lệ quốc tế.
Chính sách bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định và phát huy
vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, là sự bảo đảm thay
thế, hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những rủi
ro trong cuộc sống.
Quỹ bảo hiểm xã hội đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động
theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ
và giữa các thế hệ tham gia bảo hiểm xã hội. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội theo
quy định của pháp luật, số người tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng
được mở rộng, số người được hưởng bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên.
Hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội từng bước được đổi mới, về cơ
bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, phát huy được vai trò, tính hiệu quả trong
xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội. Năng
lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội được nâng lên; việc
giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động có nhiều tiến bộ.
2. Tuy nhiên, việc
xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập. Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội chưa theo kịp tình
hình phát triển kinh tế - xã hội, chưa thích ứng với quá trình già hoá dân số
và sự xuất hiện các quan hệ lao động mới.
Việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
còn dưới mức tiềm năng; độ bao phủ bảo hiểm xã hội tăng chậm; số người hưởng
bảo hiểm xã hội một lần tăng nhanh. Tình trạng trốn đóng, nợ đóng, gian lận,
trục lợi bảo hiểm xã hội chậm được khắc phục. Quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ
mất cân đối trong dài hạn.
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa thực sự gắn với thị trường
lao động, mới tập trung nhiều cho khu vực chính thức, chưa có chính sách phù
hợp cho khu vực phi chính thức (nơi người lao động dễ bị tổn thương), còn nặng
về giải quyết trợ cấp thất nghiệp, chưa chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng
ngừa theo thông lệ quốc tế. Cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức bộ máy
thực hiện bảo hiểm thất nghiệp còn nhiều điểm bất cập. Các chế độ bảo hiểm xã
hội chưa thể hiện đầy đủ các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng;
chia sẻ và bền vững.
3. Những hạn chế,
yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ
yếu. Một số cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thiếu quyết liệt. Năng lực,
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước hiệu quả thấp; tính tuân thủ pháp luật chưa
cao. Nhận thức của một bộ phận người lao động, người sử dụng lao động về vai
trò, mục đích, ý nghĩa của bảo hiểm xã hội chưa đầy đủ. Hiệu lực,
hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội còn bất cập. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội chưa thật sự tạo được sự
tin cậy để thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU
1. Quan điểm chỉ đạo
(1) Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính
của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
(2) Phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa
dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo
truyền thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo
lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các
nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
(3) Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách,
vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát
triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách
xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công
dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.
(4) Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã
hội bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn,
củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể
tham gia bảo hiểm xã hội.
(5) Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người
dân.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự
là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc
diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát
triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội
nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền
vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ
thống thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại,
tin cậy và minh bạch.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn đến năm 2021:
Phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham
gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi;
khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có
khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội
hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; tỉ lệ giao dịch điện tử đạt 100%; thực
hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan bảo
hiểm xã hội với doanh nghiệp đạt mức ASEAN 4; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng
của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 80%.
Giai đoạn đến năm 2025:
Phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham
gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ
tuổi; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất
nghiệp; có khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo
hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài
lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%.
Giai đoạn đến năm 2030:
Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham
gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi;
khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp;
khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội
hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người
tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 90%.
III- NỘI DUNG CẢI CÁCH
Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ
bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối
Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong
mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều
chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
1. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng
- Trợ cấp hưu trí xã hội: Ngân sách nhà nước
cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có lương hưu, hoặc bảo hiểm
xã hội hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn lực xã hội đóng thêm để các
đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp
hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách.
- Bảo hiểm xã hội cơ bản, bao gồm bảo hiểm xã hội bắt
buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội bắt buộc (với các
chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản,
thất nghiệp) dựa trên đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuất hiện nay, từng bước
mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của người lao động không có
quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người
nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện
bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người lao động đối
với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ.
- Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự
nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và
người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng
mức lương hưu cao hơn.
2. Sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã
hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc
điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình
đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
sang các nhóm đối tượng khác
Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số
năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống
15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm
tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội
thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu, bảo
đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước,
kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức lương
cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong các
đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc đối với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp,
người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm
việc theo chế độ linh hoạt.
3. Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm
xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở
rộng diện bao phủ
Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp,
chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả thông qua việc chi trả trợ cấp
thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà
cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất
nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm
việc làm cho người lao động.
Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội tự
nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và
thụ hưởng. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, tạo điều kiện chuyển
đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc, hướng
tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc
làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết.
4. Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm
củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm
xã hội
Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội bảo đảm sự công bằng, không
phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng cường sự chia sẻ giữa
các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý, chênh lệch quá lớn về
mức hưởng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản
hoá các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng thân thiện, công khai, minh
bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
5. Đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã
hội trong khu vực phi chính thức
Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số
10-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về phát triển
kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm
xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng, phương thức giao dịch phù hợp với
người lao động trong khu vực phi chính thức.
6. Sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí
hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ
hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu
bình quân thực tế của người lao động
Có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một
lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để
hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Sửa đổi các quy định để khuyến khích người lao động tham gia bảo
hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi nghỉ hưu bình
quân, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động muốn nhận chế
độ hưu trí sớm.
7. Thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình
Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình
phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây
tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ
cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn; xu hướng
già hoá dân số; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu
tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi
nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu
sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung.
8. Sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
Sửa đổi quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực
doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác
có tính chất lương của người lao động để khắc phục tình trạng trốn đóng,
đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã
hội và quyền lợi của người lao động.
Nghiên cứu điều chỉnh tỉ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo
hướng hài hoà quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động.
9. Điều chỉnh tỉ lệ tích luỹ để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa
phù hợp với thông lệ quốc tế
Sửa đổi cách tính lương hưu theo hướng giảm tỉ lệ
tích luỹ, bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn, phù hợp với thông
lệ quốc tế. Có lộ trình điều chỉnh kéo dài thời gian tham gia bảo hiểm xã hội
thực tế, bảo vệ quyền lợi của người hưởng chế độ hưu trí theo nguyên tắc đóng -
hưởng, công bằng và chia sẻ phù hợp.
10. Đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo
nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả
Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư
các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã
hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái
phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở
rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu
tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong
nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững.
11. Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối
tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều
chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ
Thực hiện điều chỉnh trợ cấp hưu trí xã hội theo khả năng cân
đối của ngân sách nhà nước; lương hưu cơ bản được điều chỉnh chủ yếu dựa trên
cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội và
ngân sách nhà nước; quan tâm điều chỉnh thoả đáng đối với nhóm đối tượng có mức
lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch
lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời kỳ.
IV- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội
Cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ
biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, nhân dân
hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của
cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đối với bảo đảm an sinh xã hội, an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực
hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, bảo hiểm
xã hội
Thể chế hoá các chủ trương và hoàn thiện pháp luật, chính sách
về bảo hiểm xã hội phải kết hợp với hoàn thiện pháp luật, chính sách về chế độ
tiền lương, việc làm, chính sách người có công với cách mạng và các chính sách,
pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan khác.
Sửa đổi, bổ sung pháp luật về bảo hiểm xã hội theo hướng tiến
tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân; thiết kế hệ thống bảo hiểm xã hội đa
tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các
nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Rà soát, sửa đổi các quy
định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người nước ngoài vào
làm việc tại Việt Nam tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh
đàm phán, ký kết hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách
việc làm theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo
đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, khắc phục tình
trạng gian lận, trục lợi bảo hiểm thất nghiệp. Có quy định cụ thể và cơ chế
quản lý chặt chẽ việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm việc đầu tư Quỹ bảo
hiểm xã hội an toàn, bền vững, hiệu quả.
Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã
hội, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi bảo hiểm xã hội
theo hướng cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý Quỹ
bảo hiểm xã hội có thẩm quyền xử phạt các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, gian
lận, trục lợi bảo hiểm xã hội; đồng thời, các doanh nghiệp và người lao động có
quyền khiếu nại, hoặc khởi kiện cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý Quỹ
bảo hiểm xã hội nếu phát hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách bảo hiểm
xã hội.
3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã
hội
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo
hiểm xã hội, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các
cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội thông qua
thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người
tham gia bảo hiểm xã hội, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian
lận, trục lợi tiền bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để
đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ quan bảo hiểm xã hội; thực hiện giao chỉ tiêu
phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cho các địa phương; phân định rõ
quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã
hội.
Tăng cường công tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ
liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính, thuế, lao động để nâng
cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và thực thi chính sách
bảo hiểm xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn về bảo hiểm xã hội. Xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã
hội, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng
dịch vụ của cơ quan bảo hiểm xã hội.
4. Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày
25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII Một số vấn đề
về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Hội
đồng quản lý bảo hiểm xã hội. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán và
thông tin báo cáo về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công
trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các
hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính
sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách.
Tiếp tục hiện đại hoá quản lý bảo hiểm xã hội, đầu tư phát triển
công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Triển khai có hiệu quả các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, phát
huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp
thực sự là công cụ quản trị thị trường lao động. Chi phí tổ chức thực hiện
chính sách bảo hiểm thất nghiệp lấy từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, không
lấy từ ngân sách nhà nước.
Có cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh
chóng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang làm biến đổi cấu trúc
của thị trường lao động.
5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và
tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và tuân thủ
các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã
hội.
V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng
đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động
với lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị
thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương,
đơn vị.
2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc xây dựng luật, pháp lệnh
phục vụ triển khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát việc cải cách
chính sách bảo hiểm xã hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động hướng tới
mục tiêu tiến bộ, công bằng, bền vững, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập quốc tế.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự
đảng Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương tổ chức việc học tập, quán triệt và
tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết, kết quả thực hiện Nghị quyết.
4. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên
quan thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai tổ chức thực hiện
Nghị quyết và định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.
|
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét