QUỐC HỘI Nghị quyết số: 61/2022/QH15 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
NGHỊ
QUYẾT
Tiếp
tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực
hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030
_____________
QUỐC HỘI
Căn
cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam;
Căn
cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13;
Căn
cứ Nghị quyết số 09/2021/QH15 ngày 25 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2022 và Nghị
quyết số 19/2021/QH15 ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về thành lập Đoàn giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật
về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành”;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 166/BC-ĐGS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật
Quy hoạch có hiệu lực thi hành và
ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Đánh giá kết quả thực hiện
Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo số 166/BC-ĐGS
ngày 27
tháng 5 năm 2022 của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật
Quy hoạch có hiệu lực thi hành với những kết quả đạt được, tồn
tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Việc xây dựng, ban hành Luật Quy hoạch
là nỗ lực, cố gắng lớn của Quốc hội, Chính phủ trong việc thể chế hóa Nghị
quyết số 13-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá XI). Sau khi Luật Quy hoạch được thông qua, Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã khẩn trương ban
hành, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật để triển khai thực hiện Luật Quy
hoạch. Công tác lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch cơ bản đã hoàn
thành. Kinh phí lập quy hoạch đã được quan tâm bố trí trong Kế hoạch đầu tư
công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020. Tuy
nhiên, quá
trình tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật về quy hoạch gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do quy định của Luật Quy hoạch còn có những bất cập, chưa rõ ràng, có nhiều cách
hiểu khác nhau dẫn đến tiến độ lập các quy hoạch thời
kỳ 2021 - 2030 chậm, trong khi các quy hoạch thời kỳ 2011 - 2020 hết hiệu lực nên
thiếu cơ sở để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư và các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành Nghị quyết số 751/2019/UBTVQH14 ngày 16 tháng 8 năm 2019 giải
thích theo hướng cho lập đồng thời các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc
gia; các
quy hoạch nêu tại điểm c khoản 1 Điều 59 của Luật Quy hoạch đã được phê duyệt
trước ngày 01 tháng 01 năm 2019 được điều chỉnh nội dung theo quy định của pháp
luật có liên quan trước ngày Luật Quy hoạch có hiệu lực. Bên cạnh đó, quy định về quy hoạch tổng thể quốc gia và khái niệm “tích hợp quy hoạch” chưa rõ về nội hàm, chưa được quy định cụ
thể trong quy trình lập quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng
và quy hoạch tỉnh dẫn đến khó triển khai trong thực tiễn. Một số nội dung
như việc phân kỳ đầu tư triển khai các dự án và trình tự,
thủ tục ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch, việc huy động và sử dụng
nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, việc xử lý trường hợp
các quy hoạch cùng cấp phù hợp với quy hoạch cấp trên nhưng mâu thuẫn với nhau chưa được quy định cụ thể trong Luật Quy hoạch. Các quy định pháp luật có liên quan đến quy hoạch trong một số văn bản luật còn mâu thuẫn, chồng chéo và khó triển
khai trên thực tiễn.
Tiến độ lập quy
hoạch thời
kỳ 2021 - 2030 rất chậm so với yêu cầu, đến nay vẫn còn 104/111 quy hoạch chưa hoàn thành việc lập, phê duyệt, ảnh hưởng đến thực
hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Mặt khác, do tiến độ lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch chậm nên phải
tiếp tục kéo dài thời hạn và điều chỉnh các quy hoạch hiện hành thời
kỳ 2011 - 2020, vì vậy đang tồn tại song hành, đồng thời áp dụng hai loại quy
hoạch. Việc quản lý đầu tư, kinh doanh đối với một số
ngành sản xuất sản phẩm gặp khó khăn do chưa có chính sách thay thế các quy
hoạch ngành, sản phẩm đã hết hiệu lực hoặc chưa được hướng dẫn cụ thể; bên
cạnh đó, chưa đánh giá đầy đủ tác
động của việc bãi bỏ các quy hoạch đối với một số ngành cụ thể theo quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 59 của Luật Quy hoạch đến sự phát triển của nền kinh tế; việc bỏ quy hoạch sản phẩm, nhất là một số sản
phẩm chủ lực của nền kinh tế là chưa hợp lý, gây bị động, lúng túng trong phát
triển các sản phẩm. Việc lập đồng thời rất nhiều quy hoạch có nội dung
đa ngành trong cùng một bản quy hoạch theo phương pháp mới và cùng một thời
điểm gây khó khăn cho công tác tuyển chọn tư vấn và thẩm định, trong khi số
lượng, chất lượng các tổ chức tư vấn còn hạn chế, công tác đấu thầu lựa chọn tư
vấn theo quy định của Luật Đấu thầu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; số lượng cán
bộ, chuyên gia có trình độ chuyên môn về quy hoạch để tham gia xây dựng quy
hoạch và hội đồng thẩm định còn thiếu; chưa có đầy đủ hệ thống thông tin, cơ sở
dữ liệu lập quy hoạch, hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chưa cao; quy trình,
cách thức tổ chức lấy ý kiến cộng đồng dân cư còn hạn chế, bất cập... nên ảnh
hưởng nhiều đến tiến độ, chất lượng lập, quyết định hoặc phê duyệt các quy
hoạch. Quy trình, thủ tục điều chỉnh các quy hoạch được
thực hiện như đối với việc lập mới quy hoạch dẫn đến quy hoạch thấp hơn được
phê duyệt trước phải điều chỉnh để bảo đảm phù hợp với quy hoạch cao hơn được
phê duyệt sẽ mất rất nhiều thời gian. Một số quy hoạch được phê duyệt đã bộc lộ
một số bất cập, hạn chế.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là nguyên
nhân chủ quan. Bên cạnh nguyên nhân do
quy định pháp luật về quy hoạch còn bất cập, việc tổ chức thực hiện công tác quy hoạch ở các cấp, các ngành,
các địa phương còn nhiều hạn chế, chưa làm hết trách nhiệm được giao, nhất là chưa
chỉ đạo, đôn đốc quyết liệt trong giai đoạn đầu.
Điều 2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu
1. Cho phép Chính
phủ, cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia lập quy
hoạch được thực hiện ngay các giải pháp sau để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch và bảo đảm
chất lượng công tác quy hoạch:
a) Chính phủ quy định chi tiết quy trình lập quy hoạch cấp quốc gia, quy
hoạch vùng và quy hoạch tỉnh theo quy định tại Điều 16 của Luật Quy hoạch;
quy định các loại sơ đồ, bản đồ quy hoạch
cần kèm theo hồ sơ khi
quyết định hoặc phê duyệt quy hoạch;
quy định chi tiết Điều 45 của Luật Quy hoạch về trình
tự, thủ tục ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch được quyết định hoặc phê
duyệt, trong đó quy định định hướng việc phân kỳ đầu tư triển khai các công
trình, dự án;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, quyết định áp dụng
hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn để lập các quy hoạch cấp
quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh mà đến thời điểm Nghị quyết này có hiệu lực thi hành chưa lựa
chọn được nhà thầu. Trình tự, thủ tục chỉ định thầu được thực hiện theo
quy định của pháp luật về đấu thầu.
c) Lập
đồng thời các quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch và các luật, pháp lệnh
khác có quy định về quy hoạch; tập trung ưu tiên lập quy hoạch cấp quốc gia,
quy hoạch vùng. Quy hoạch được lập, thẩm định xong trước thì được quyết định
hoặc phê duyệt trước.
Khi quy hoạch được
quyết định hoặc phê duyệt, nếu có mâu thuẫn giữa quy hoạch thấp hơn với quy
hoạch cao hơn thì quy hoạch thấp hơn phải điều chỉnh theo quy hoạch cao hơn. Trường
hợp có mâu thuẫn giữa các quy hoạch cùng cấp, căn cứ vào Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, các văn kiện của Đảng, chiến lược phát
triển ngành và từ yêu cầu thực tiễn, cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê
duyệt quy hoạch quyết định điều chỉnh quy hoạch, bảo đảm tính liên kết, đồng
bộ, kế thừa, ổn định và hệ thống giữa các quy hoạch.
Việc điều chỉnh quy hoạch cấp quốc gia, quy
hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030 trong trường hợp có mâu thuẫn
được thực hiện như sau:
-
Cơ quan tổ chức lập quy hoạch rà soát nội dung mâu thuẫn cần điều chỉnh; lập
báo cáo điều chỉnh quy hoạch kèm theo dự thảo văn bản quyết định hoặc phê duyệt
điều chỉnh quy hoạch gửi xin ý kiến của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan có
liên quan;
- Cơ quan tổ chức lập
quy hoạch cần điều chỉnh có trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan có liên quan, hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh quy hoạch
và chịu trách nhiệm về nội dung điều chỉnh; trình cấp có thẩm quyền xem xét,
quyết định hoặc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch; công bố điều chỉnh quy hoạch theo
quy định của Luật Quy hoạch;
d)
Quy hoạch quy định tại điểm c khoản 1 Điều 59 của Luật Quy hoạch đã được quyết
định hoặc phê duyệt trước ngày 01 tháng 01 năm 2019 được tiếp tục thực hiện,
kéo dài thời kỳ và điều chỉnh nội dung theo quy định của pháp luật có liên quan
trước ngày Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành cho đến khi quy hoạch cấp quốc
gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030 theo Luật Quy hoạch
được quyết định hoặc phê duyệt;
đ)
Sử dụng kinh phí chi thường xuyên theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà
nước để lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố, điều chỉnh quy
hoạch mà đến thời điểm Nghị
quyết này có hiệu lực thi hành chưa được bố trí vốn.
2.
Giao
Chính phủ thực hiện ngay các nhiệm vụ sau đây:
a)
Chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cơ quan hữu
quan nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và khẩn trương có giải pháp đồng
bộ để khắc phục hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong Báo cáo kết quả giám sát số
166/BC-ĐGS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Đoàn giám sát; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tập trung cao
độ chỉ đạo để thực hiện tốt công tác quy hoạch. Thực
hiện nghiêm việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư; khắc phục căn bản tình trạng các
dự án treo do quy hoạch có nguyên nhân chủ quan; xử lý các tồn tại, bất cập do ảnh hưởng của
quy hoạch treo, bảo đảm các quyền lợi của người dân về đất đai, tài sản và an
sinh xã hội, không để xảy ra tình trạng khiếu nại kéo dài;
b) Xây dựng kế hoạch, lộ trình lập các quy hoạch thời kỳ 2021
- 2030 theo Luật Quy hoạch bảo đảm khả thi và chất lượng. Chỉ đạo khẩn
trương hoàn thành việc lập, quyết định hoặc phê duyệt các quy hoạch cấp quốc
gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; ưu tiên tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến
độ lập, thẩm định và quyết định hoặc phê duyệt các quy hoạch cấp quốc gia mang
tính cấp bách nhằm kịp thời thực hiện Chiến lược và Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước; hoàn thành Quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy hoạch
ngành hạ tầng quan trọng trong năm 2022; phấn đấu cơ
bản hoàn thành các quy hoạch ngành quốc gia còn lại, quy hoạch vùng và quy
hoạch tỉnh trong năm 2022 trên cơ sở bảo đảm chất lượng các quy hoạch;
d) Chỉ đạo rà soát sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành về công tác quy hoạch, bảo đảm đồng
bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật;
g) Đánh giá toàn
diện tác động của việc bãi bỏ các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch
vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm
được sản xuất, tiêu thụ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59 của Luật Quy
hoạch; nghiên cứu rà soát các quy hoạch này để bảo đảm yêu cầu của Luật Quy
hoạch, yêu cầu quản lý nhà nước và phù hợp với cam kết trong các điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
h)
Chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tăng cường ứng dụng công nghệ trong lập quy
hoạch và phối hợp đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nâng cấp đồng bộ hóa hệ
thống thông tin và cơ sở dữ liệu quy hoạch quốc gia, thống nhất công nghệ, định
dạng dữ liệu về quy hoạch; cập nhật, chia sẻ thông tin; đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu, cá thể hóa trách nhiệm; bảo đảm tính công khai, minh bạch; đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính; tổ chức thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn và xử
lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về quy hoạch;
3. Quốc hội giao Chính phủ tổng kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện
Luật Quy hoạch và các nội dung có liên quan đến quy hoạch trong các luật, văn
bản quy phạm pháp luật để khẩn trương trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Quy
hoạch và các luật có liên quan đến quy hoạch nhằm đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước về công tác quy hoạch, bảo đảm đồng bộ, thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Điều 3. Điều khoản thi hành
1.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 6 năm 2022.
2. Nghị quyết số 751/2019/UBTVQH14 ngày
16 tháng 8 năm 2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Giải thích một số điều của
Luật Quy hoạch hết hiệu lực kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
3. Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo tổ chức thực hiện và
kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết này.
Hằng năm, Chính phủ tổng hợp, báo cáo Quốc hội tình
hình triển khai công tác quy hoạch và kết quả thực hiện Nghị quyết này tại kỳ
họp cuối năm của Quốc hội.
4. Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn
đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
____________________________________________________________________________________________________
Nghị quyết này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XV, kỳ họp thứ 3
thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2022.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét